Nhà
thơ Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, một cây bút thuộc bậc thượng thừa thành phố
Huế, chuyên về lối văn Biền Ngẫu, là lối văn có cấu trúc văn chương cổ xưa,
trong đó lấy đối làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối.
Theo
nghĩa chữ Hán, “Biền” là hai con ngựa chạy song song với nhau, “Ngẫu” là chẳn
đôi. Biền ngẫu là cách nói hiện tượng hóa, chỉ những thể văn trong đó có các
câu sóng đôi đối nhau từng cặp, có vần điệu hài hòa,sử dụng điển tích, từ ngữ
xúc tích.
Nhà
thơ Nguyễn
Phúc Vĩnh Ba, người chúng tôi thường gọi là Mệ, vì họ Vĩnh Phúc cúa ông thuộc
hoàng tộc triều Nguyễn. Nhà thơ đã xuất bản một tập sách trong đó bao gồm các
bài cáo, phú, hịch, văn tế, văn bía, viết theo cấu trúc văn chương biền ngẫu,
lấy tựa đề sách là “Tâm Thành Lễ Bạc”
Châu
Thạch tôi, thật tình dốt về các thể văn nầy, nhưng khi đọc sách của Nguyễn Phúc
Vĩnh Ba, cảm nhận được đây là một tập sách rất có giá trị văn học, cần cho thế
hê bây giờ và mai sau , nên cao hứng phải viết về nó, như con dế nằm
trong cỏ thấy ngôi sao lóe sáng trên bầu trời thì gáy vậy.
Trước
khi đi vào sách nầy ta cần có khái niệm về các thể văn biền ngẫu, hầu tác
động trí tò mò muốn đọc cúa ta. Tôi tra cứu trên google và tạm định nghĩa ngắn
gọn như sau:
Văn
Cáo: Cáo là
một thể văn thư có cội nguồn từ thời xa xưa, nhà vua dùng để ban bố cho thần
dân nhằm trình bày chủ
trương, công bố kết quả một sự nghiệp. Sau nầy đổi tên gọi thành chiếu, chiếu
chỉ.
Văn
Phú :
Phú là một thể văn chương cổ của Việt Nam , xuất phát từTrung Hoa. Đây là một thể văn
vần có
từ thời nhà Hán, nhưng thể phú
thông dụng nhất tại Việt Nam
là loại đặt ra từ đời nhà Đường,
nên còn gọi là Đường phú. Những thể khác ít dùng.
Văn
Hịch: Hịch là
thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh viết ra một phong
trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài. Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lý lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục.
Đặc điểm nổi bật của hịch là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe. Hịch
thường được viết theo thể văn biền ngẫu (từng cặp câu cân xứng với nhau).
Văn
Tế: Thời xưa, trong thủ tục tế lễ trời đất, núi sông thường có bài văn cầu
chúc. Về sau, khi chôn cất người
thân người ta cũng dùng văn tế để tưởng nhớ người đã mất. Cùng
với sự phát triển của xã hội, nội dung văn tế cũng ngày một phong phú thêm. Đó
là sự uất ức về cảnh nước mất nhà tan, xót thương cho những người dám hi sinh
vì nghĩa lớn, lên án bất công như Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu, Văn
tế đồng bào chết vì nạn bão lụt ở Nghệ - Tĩnh của Phan Bội Châu...;
hay bộc lộ nỗi đau thương có pha lẫn tiếng cười trong Văn
tế sống vợ của Trần Tế Xương,
mỉa mai giễu cợt trong Văn tế thuốc phiện, Văn
tế xôi thịt của
tác giả khuyết danh, châm biếm và đả kích trong Văn
tế Cutxô của
Nguyễn Văn Từ, văn
tế Nguyễn Du của
Kha Tiệm Ly đoạt giải nhất toàn quốc vừa qua.
Văn
bia:Văn bia là một loại thư tịch, có niên đại rõ ràng, có giá trị như những tác
phẩm văn học, nghệ thuật, chứa đựng hệ thống thông tin nhiều mặt về lịch sử,
kinh tế, xã hội... đương thời, không chỉ có giá trị trong quá khứ mà còn cả
trong hiện tại. Văn bia (Bi văn) là từ dùng để chỉ bài văn khắc trên bia đá.
Tập sách “Tâm Thành Lễ Bạc” của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba có 17 bài văn,
trong đó gồm có 1 bài cáo, 1 bài hịch, 2 văn bia, 9 văn tế, 3 bài phú và 1 điếu
văn. Theo nhận định của nhà văn Nguyễn Văn Uông thì “văn phong trang trọng,
chỉnh tề, đúng vần luật . Đọc qua một lần nghe nhạc
điệu biền ngẫu râm rang hùng tráng; đọc lại thấy tư tưởng phấn
chấn rộn ràng như những hồi kèn xung trận. Thật là một dụng công hiếm có”.
Vì
thể văn cáo,
Phủ, tế… nầy rất dài nên tôi chỉ xin trích ra đây một đôi câu đầu bài văn để
chúng ta có ý niệm về bút pháp của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba mà thôi:
“Vua một nước lưu đày vì nước, khổ ấy là vinh
Người
hai quê khoắc khoải nhớ quê, chết mà như sống
Việc
bôn tẩu mưu đồ diệt tặc, dân còn ghi khắc cốt tâm mình
Chuyện
bại hư hữu chi vô thời, sử đã chép công bình chính thống”
(Văn
tế vua Hàm Nghi)
“Hỡi
ơi!
Trời
còn nổi gió hướng Nam
Đất
đà khóc người xứ Bắc
Những
tưởng xông xáo trường văn trận bút, cho thỏa lòng mong muốn thuở: Tiếng ta còn
Ai
hay vắng hoe gò trống đồi hoang, mà thắt ruột đau một đời: Tiên sinh mất
Con
trẻ Tạo sao quá đành hanh?
Lão
già Thiên lẽ nào quá quắt!”
(Văn
Tế Nam Phong Chủ Bút) tức cụ Phạm Quỳnh
“Khéo
thay
Rồng
đã hết hạn
Rắn
đã tới phiên
Rồng
bay trên cao, bay bổng tời xanh, lộn ngược lộn xuôi, thế cũng có ngày cong đuôi
chạy
Rắn
bò dưới thấp, bò lê đất đỏ, quẳn qua quẳn lại, ai ngờ gặp buổi ngẩn đầu lên
Sự
thế đổi thay, âu cũng là điều tất yếu
Việc
đời biến hóa, chẳng qua vốn lẽ đương nhiên.
(Quy
Tỵ Tân Niên Phú)
Qua
một vài câu văn mở đầu trên, ta thấy lời văn biền ngẫu của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
thật là giản dị, dân dã mà xúc tích, hàm chứa trọn vẹn ý tứ, cũng như đối ngẫu
nhẹ nhàng, thanh thoát. Còn về sự sâu nhiệm thì nhà văn Nguyễn Văn Uông đã viết
trong lời bạt như sau:
“Đọc
Tâm Tình Lễ Bạc của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, người đọc cảm
khái được cái hào sảng đong đầy từng câu chữ, khơi dậy hào khí dân tộc qua
những thăng trầm lịch sử”
“Một
tập sách gắn bó với tình tự dân tộc như thê xuất hiện trong gia đoạn “Cái
học nhà nho đã hỏng rồi”. Một “tấm lòng” với
dân với nước cần được nhìn nhận như một cống hiến đáng trân trọng, cổ xúy”
Nhà
thơ ZuLu DC, một cây bút bình luận văn thơ có uy tín ở hải ngoại đã nhận định
như sau:
“Công
phu và tâm huyết lắm bạn ta. Một chi tiết rất quan trọng, đó là cách gieo vận
trong văn biền ngẫu, văn biền ngẫu thường là độc vận, nó chứng tỏ khả năng, bản
lãnh và trí tuệ của người sáng tác, về mặt này, hiện nay chưa có tác giả nào
qua mặt NPVB!
Một điều cần nêu rõ là, từng chi tiết trong bài viết của Mệ là chính xác, không hư cấu, hứng tình viết bừa bãi, theo cảm tính của nhiều tác giả xử dung biền ngẫu gần với thơ tự do!”
Một điều cần nêu rõ là, từng chi tiết trong bài viết của Mệ là chính xác, không hư cấu, hứng tình viết bừa bãi, theo cảm tính của nhiều tác giả xử dung biền ngẫu gần với thơ tự do!”
Nhà
thơ Kha Tiệm Ly. Người vừa đoạt giải nhất tòan quốc năm 2020 trong cuộc thi
viết văn tế Nguyễn Du đã viết: “Tôi nể phục anh Nguyễn Phúc Vĩnh Ba về tài năng
lẫn đức độ.”
Nhà
thơ Lang Trương, cây bút viết phú, viết văn tế đầy uy tín, được mến mộ hiện nay
đã viết về Nguyễn Phúc Vĩnh Ba như sau:
“Anh Nguyen Phuc Vinh Ba là
hậu duệ đời thứ 06 của Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long. Anh là nhà giáo đầy
tài năng và tâm đức được các đồng nghiệp kính trọng. Trong anh vẫn chảy dòng máu cao quý của dòng
dõi vương giả. Tôi thực sự ngưỡng mộ, kính trọng anh về nhân cách và tài năng.
Tâm Thành Lễ Bạc là tuyển tập những bài văn biền ngẫu theo thể Phú Đường Luật
Độc Vận, một thể văn cổ rất khó viết, đòi hỏi tác giả phải có tâm, tầm và vốn
liếng ngôn ngữ phong phú, khoáng đạt. Tuy tập sách in kiểu nhà nghèo chỉ dành
tặng bạn bè nhưng là ấn phẩm rất có giá trị văn học. Tôi học hỏi được nhiều
điều từ các bài viết của anh. Kính.”
Châu
Thạch trân trọng giới thiệu cùng quý thân hữu và bạn đọc tập sách có
giá trị nầy. Ước mong sách sẽ đi vào lòng người và nhà trường để những gia trị
văn chương văn hóa dân tộc còn tồn tại mãi mãi trong thế hệ hậu sinh./.
Châu Thạch
Bây giờ hiếm có ai có thể viết được cổ văn nhuần nhuyễn với kiến thức sâu sắc, nhất là tấm lòng tha thiết với tiền nhân như Nguyễn Phúc Vĩnh Ba qua tập sách này.
Trả lờiXóa