Đặng Sinh (Sưu tầm biên soạn)
NGÂN HÀNG ĐÔNG
DƯƠNG CHI NHÁNH NAM
ĐỊNH (tiếp theo)
Chúng
ta đã tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của Ngân hàng Đông Dương (NHĐD)
141 năm đã trôi qua, nhiều việc đã bị quên lãng. Chúng ta tái hiện lại một vài
cảnh sinh hoạt và giá cả của thời Pháp thuộc xa ấy.
Từ năm 1875 khi các đồng tiền của NHĐD lần lượt ra đời thì các đồng tiền cổ
truyền của Việt Nam như bạc nén, quan tiền, tiền, đồng điếu chỉ còn được sử
dụng hết đời vua Tự Đức, đến năm 1887.
Các đồng trinh bằng đồng có đục lỗ được phát hành năm 1887. Nhưng giá sinh hoạt
ngày càng đắt đỏ, nên các đồng tiền này dần dần không phù hợp với thực tế. Nhất
là trong đại chiến thế giới lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng sau đó (1918 –
1920), các đồng tiền này cũng dần vắng bóng.
Năm 1937 tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố được đăng trên báo Việt Nữ và
in thành sách năm 1939 đã làm cho người đọc bàng hoàng. Chuyện kể về gia đình
anh Dậu, một nông dân khỏe mạnh 26 tuổi, bắt đầu đi làm ruộng từ năm 9 tuổi. Mẹ
anh chết năm ngoái và em trai chết tháng 1 năm sau. Sau khi mua hai quan tài
hết 8 đồng và làm ma cho mẹ và em trai hết 6 đồng, thì anh trở thành cùng đinh,
bị sốt rét phải nằm liệt giường. Ba tháng nay ngoài việc chăm sóc chồng, chị
Dậu phải lo toan việc chi tiêu cho cả gia đình năm miệng ăn. Cái Tí – con gái
đầu lòng của anh phải thay mẹ đảm đương việc gia đình. Các cháu đi mót 2 mẫu
khoai bán được 5 hào, không đủ tiền đong gạo, nên cả nhà phải ăn khoai trừ bữa.
Đúng thời điểm ấy đến đợt nhà nước thu sưu. Lí trưởng cho mõ đi rao khắp làng,
cho đày tớ đi thúc từng nhà. Tiếng mõ cá hiệu ốc, hiệu sừng được thổi inh ỏi
hòa với tiếng trống thúc từng hồi ầm ĩ làm cho cả làng náo động suốt từ sáng
sớm đến tối mịt. Mặc dù còn 5 ngày nữa mới đổ thuế, nhưng anh và một số người
nữa chưa nộp thuế bị bắt trói ở đình làng, mười đầu ngón tay sưng bằng mười quả
chuối mắn. Nhiều nhà phải đến vay tiền bà nghị Quế. Vay một đồng phải trả lãi 5
xu mỗi tháng, tức là lãi 5% tháng hay 60% năm. Vợ chồng anh đành bán cái Tí làm
con nuôi cho con bà Nghị lấy 1 đồng. Đến nhà bà, cái Tí phải ăn hết cơm thừa
của chó mới được ăn cơm mới. Bà mua tiếp chó mẹ và đàn chó con của chị với giá
1 đồng 2 hào. Nhưng muốn lấy được tiền phải viết giấy cầm cố. Ông đồ dạy con
nghị Quế cũng là người chuyên viết các loại giấy tờ này cho gia đình. Ông viết
vợ chồng chị “vay của bà Hoàng Thị Sẹo vợ cả ông nghị viên Trần Đức Quế một đôi
hoa tai bằng vàng 3 đồng cân giá là hai chục đồng bạc. Hẹn trong 5 năm phải
trả. Nếu không trả chúng tôi xin chịu tội bội tín”... Chị sợ quá, kêu ầm lên.
Ông nghị gắt: “Nếu anh chị đòi lại con, tao sẽ chiểu giấy bỏ tù cả vợ lẫn
chồng”.
Phải biếu cụ đồ 2 hào tiền giấy bút. Còn lí trưởng thì vòi 1 đồng để cụ đóng
cho cái dấu vào giấy cầm cố này. Sau khi kêu van, cụ đồng ý cho nợ và trả 1
đồng này bằng cách đến vụ tới cấy cho cụ 1,5 mẫu ruộng. Câu chuyện đau khổ này
chưa dừng ở đây. Khi nộp tiền sưu thì thủ quỹ không nhận tiền xu mà chỉ nhận
tiền giấy. Lại phải nói khó với cụ nhận hộ tiền xu bằng cách mỗi đồng tiền xu
đổi sang tiền giấy biếu cụ 3 xu. Khi đếm tiền xu mới phát hiện mỗi đồng tiền xu
bà nghị đưa thiếu 4 xu. Như vậy, bán cả con, cả chó được 2 đồng 2 thì nộp sưu
được có 8 hào (0 đ 8). Lại phải chạy vạy tiếp. Nhưng khi nộp đủ 2 đồng 7 cho
suất sưu của anh Dậu, chị phải đóng tiếp suất sưu cho chú em, dù rằng chú đã
chết từ tháng Giêng.
Anh Dậu yếu sức, không có ăn, lại bị hành hạ từ thể xác đến tinh thần, lo lắng
quá mà ngất đi. Lí trưởng sợ anh chết, phải đem cái xác ấy trả lại nhà. Rồi đến
chiều, khi anh tỉnh lại, chúng lại đến bắt anh và thúc suất sưu của chú em. Chị
Dậu tức quá, đẩy ngã cai lệ, nên bị bắt giải ra đình.
Đúng vào thời điểm cao trào ấy thì quan phủ xuất hiện. Ngài phát hiện lí trưởng
thu tiền không đưa biên lai, quỹ dư tiền, nên ngài quát lên:
- Đã thu được của những đứa ngoại canh mấy trăm đồng, còn chực thu lạm của bọn
cùng đinh.
Chúng ta hãy xem quan xử “vụ tham nhũng” thế nào.
Quan dịu giọng:
- Mai lên phủ hầu nghe không?
Rồi ngài đổi giọng ngọt ngào:
- Mai lên phủ hầu, giải cả vợ chồng thằng Dậu lên nghe không!
Quan đi rồi, lí trưởng chửi chị Dậu:
- Việc này chưa biết ông lo liệu thế nào cho xong. Có lẽ hơn trăm đồng bạc kiếm
trong vụ thuế này ông phải đổ đi.
Rồi hắn rít lên: Ông giết mày cũng không oan. Còn chị Dậu được mấy cậu lính lệ
bố trí vào trại, bắt tắm rửa, mặc quần áo mới, trang điểm cho sạch sẽ, và đưa lên
hầu quan. Nhưng chị không chịu và bỏ trốn. May chị được mụ Cửu Xung cho vay
tiền và giới thiệu cho nghề mới, là đi làm vú em cho Cố. Cố là một vị quan đã
về hưu trí, ngoài 80 tuổi, không còn răng để nhai. Ngày ấy không có hãng sữa
bột En sua, cho nên các nhà quan lại thường phải lấy sữa của đàn bà để khỏe
mạnh, không có bệnh tật cho các cố uống. Sau khi có giấy kiểm nghiệm xác định
sữa của chị là tốt, chị được nhà Cố thuê làm vú em, lương tháng 5 đồng. Đấy là
số tiền lớn.
Được ăn uống đầy đủ, nhàn hạ, chị béo trẻ ra, nước da đen trở nên trắng mịn
màng. Anh bếp đi ra đi vào tán tỉnh. Còn cậu lái xe thì hung hăng: “Bỏ cha
thằng chồng quê mùa ấy đi. Lấy chồng lái xe sướng như tiên”.
Còn Cố cũng có ý thương. Cố dặn về hỏi chồng có muốn làm lí trưởng thì cố cho
làm. Nhưng rồi một đêm khi chị ở một mình, đang thiu thiu ngủ thì có ai sờ vào
người.
- Ai đấy?
- Ta...ào đây! Cố đây!
- Lậy cụ chúng con là phận tôi tớ.
- Không cần! Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh.
Chị vùng dậy chạy ra ngoài. Nhà văn Ngô Tất Tố thở dài: Trời tối đen như mực và
như cái tiền đồ của chị.
Nói đến trinh, xu, hào, đồng nghe nó xa xôi quá. Vào khoảng những năm 30 ở Nam
Định bát bún riêu 2 xu và bát phở mà nay 25.000 đồng đến 40.000 đồng bát có giá
từ 3 xu đến 5 xu. Ngày vua Bảo Đại về thăm Nam Định, nhà phở Quảng Nguyên thu
được 2 thúng tiền xu bán phở. Công chức thấp nhất được 3 đồng/ tháng. Cụ Nguyễn
Đạo Khang, thân sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan làm huấn đạo (dạy học) lương 15
đồng / tháng nuôi được cả gia đình. Còn cụ Tri phủ của chúng ta được lương 140
đồng/ tháng.
Năm 1942 đang chiến tranh thế giới thứ hai, sinh hoạt hết sức đắt đỏ, nhà văn
Nguyễn Công Hoan xác định rằng mỗi người nông dân mỗi tháng tiêu hết 8 hào (0,8
đồng). Vậy thì những năm 30 phải tiêu ít hơn. Mỗi khi có dịp thu thuế, các vị
chức sắc của làng tranh thủ ăn uống, hút sách, cãi vã, chửi rủa nhau. Một bọn
hào lí làng khác vào một cửa hàng ăn ở phố Phủ thiếu nợ 2 hào rưỡi, phải gán 11
cái ô mà chủ nhà vẫn chưa vừa ý, bắt để thêm một cái áo the nữa. Nhưng vào hầu
quan mà thiếu áo the coi sao được. Ông lí phải gán lại cái triện. Tức quá, ông
đe nhà hàng:
- Gần năm trăm đồng mới được cục đồng này đấy.
(Còn tiếp)
Đặng Sinh
Phố Hoàng Văn Thụ, tp. Nam Định
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét