Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018

VẾT THƯƠNG LÒNG / Thủy Điền (Kỳ 1)



 
         Thay lời tựa

        Đây là câu chuyên được một vài người kể lại và câu chuyện nầy đã xảy ra tại một làng nhỏ thuộc vùng sông nước Cửu long.
        Năm mười tám tuổi tôi đang theo học năm thứ nhất, tại trường Thủy lợi 3 miền nam đóng  ở  Tiền giang. Vào dịp hè năm ấy, tôi dành riêng một tuần lễ trở lại quê nhà thăm ông bà nội, cô và các em sau nhiều năm xa cách. Tình cờ tôi nghe ông nội và người hàng xóm đang trò chuyện một gia đình nọ cách đó không xa. Ngồi nghe thoạt đầu rất chán nản và nhàm tai, nó như là chuyện Huyền thoại, Cổ tích xa xưa. Khoảng hồi lâu câu chuyện xa dần hơn, tôi bắt đầu thấy hay hay, nhưng đứt… khúc. Vì có lẽ không chú tâm vào câu chuyện lúc bắt đầu. Tôi tự hỏi?

        Tại sao có chuyện lạ lùng như thế. Khi người khách ra về, tôi định hỏi ông nội tôi có thể kể lại cho tôi nghe lần nữa được không? Nhưng vì thấy ông vừa tiếp khách xong còn mệt nên tôi để dịp khác.
        Qua ngày hôm sau, thấy ông vui vui, tôi bắt đầu gợi lại câu chuyện cũ và nhờ ông kể lại cho tôi nghe một lần nữa. Ông hỏi  ngược lại tôi? Mà cháu biết để làm gì. Ông bảo chuyện đời đó mà, ngồi rảnh rỗi uống trà kể cho vui vậy thôi. Tôi nói câu chuyện hôm qua cháu nghe cũng  hay đấy ông, cháu muốn mai nầy nếu có điều kiện, cháu sẽ viết thành sách cho người ta đọc.
        Ông thấy được không? Ông cười, rồi vỗ đầu tôi một cái và kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện rất rành mạch và lý thú. Tuy không ghi chép lại hoàn toàn, nhưng tôi vẫn còn nhớ đến bây giờ.
        Thời gian trôi qua vì cuộc sống, mãi đến năm 2005, các con đều lớn cả, tôi có chút thời gian và ngồi viết lại câu chuyện xa xưa ấy.
        Lúc đầu tôi định viết thành Tiểu thuyết. Thú thật vì trình độ có hạn, hồi ấy tôi không phải là Nhà văn mà cũng chẳng là Thi sĩ nên tôi chỉ viết tóm tắt, đại khái những gì tôi thu thập được.
        Chính vì thế, lời văn chẳng mấy gì phong phú. Cuối cùng câu chuyện tôi viết gần như lạc hướng như ý nghĩ ban đầu, mà dần… dà trở thành một Kịch bản không hơn, không kém.
        Trong câu chuyện nầy, tôi xin mạn phép được đổi tên những nhân vật và thêm  vào đây một vài nhân vật phụ, cốt cho câu chuyện được truông chảy hơn. Đặc biệt cũng câu chuyện nầy tuy một Nội dung, nhưng tôi cố gắng làm thành văn và lẫn thơ lục bát để người đọc không bị nhàm chán.
        Và đương nhiên, một Quyển Sách hay một Tác phẩm nào cũng có sự thiếu sót về mặt nầy, mặt nọ một ít. Đó là sự việc ngoài ý muốn, mong tất cả Quí vị hãy thông cảm, bỏ qua, xin góp ý. Có như thế, hy vọng những Mẩu chuyện, Tác phẩm kế tiếp sẽ được hoàn hão hơn.

                                                Tác giả Thủy Điền
                                                 CHLB Đức 2005


                        Tiểu thuyết

         Ông bà Lâm sinh được hai người con là cậu Vân An và cô Vân Mây. An được hai mươi tuổi, đậu Tú tài và đang theo học năm thứ hai tại trường Cao đẳng Sư phạm Sài-gòn. Công danh chưa thành, An lên đường theo tiếng gọi non sông, rồi hy sinh trên chiến trường miền Đông Nam bộ. Riêng Vân Mây còn theo bậc trung học ở Quận nhà. Tuổi ngây thơ trong trắng, mộng mơ, nửa muốn xếp bút nghiêng làm tròn con hiếu thảo ở nhà giúp mẹ, giúp cha khi lúc xế chiều, nửa muốn như anh tung bay khắp chốn, để mai trở về quê hương đất tổ, rồi nằm xuống, cô cũng muốn làm một cái gì để lại cho đời một ghi dấu nhớ thương. Nỗi lo âu, tình hiếu thảo, lòng tự hào của người con gái cứ thôi thúc dâng cao. Những hoài bão người con gái vừa tròn đôi tám thật dịu dàng, hồn nhiên đáng quí, đáng yêu.
        Ông Lâm vốn người được sinh ra và lớn lên trong một Gia đình lễ giáo, phong kiến giàu có hơn người. Bởi thế, ông thường tỏ ra mình là người cao quí, trượng phu, luôn ăn trên, ngồi trước. Mỗi lời nói của ông đều muốn kẻ khác phải dạ vâng, thậm chí cả vợ, con ông cũng đều răn rắc, cho dù những lời nói ấy đúng hay sai.
        Thời buổi chiến chinh, đạn bơm khắp nẻo, gia đình ông sống trong vòm trời xôi đậu, nửa ruộng, nửa thành an ninh bất ổn. Sự đi lại ngày ấy vô vàn khó khăn và phức tạp. Mọi tình huống có thể xảy ra ở đâu và bất cứ lúc nào không ai lường được. Thế nên, việc học của ông ngày xưa chẳng mấy phần sáng sủa, nhưng không vì lẽ đó mà ông xem thường việc học của con cái mình ở thế hệ mai sau.
        Tuy công việc đồng áng, ruộng vườn bề bộn, có làm cho ông phải vất vả, lam lũ đến đâu, nhưng ông cũng cố tạo cho mình một khoảng trống thời gian nhất định, hầu tìm mọi cách để dẫn dắt các con tiến lên con đường học vấn và giúp chúng có được ít vốn kiến thức nho nhỏ làm hành trang cho tương lai. Chính vì thế, việc học tập lúc nào ông cũng xem như tiền bậc và đặt ở vị trí hàng đầu trong việc nho phong. Hơn nữa gia đình ông là hạng giàu sang, dư ăn, dư mặc. Tại sao? Ông không làm, mà ngoài kia khối người khốn khổ, họ còn muốn con cái của họ phải học cao, hiểu rộng. Câu hỏi? Và sự ước mong càng làm cho ông luôn phấn khởi và sung sướng.
        Ngày cha mẹ đã thấy ông đến tuổi trưởng thành, chuyện lứa đôi là không thể thiếu được. Rồi con cháu ẩm bồng như thiên hạ, mọi thứ cứ quanh quẩn trong đầu ông bà hết ngày nầy, sang ngày khác. Nỗi lo toan luôn miên man, rồi tự hỏi? Cuối cùng ông chìu lòng trước đấng sanh thành. Ông quyết định cưới cô Cẫm Lệ. Cô Cẫm Lệ về làm dâu trong gia đình, lòng ông và mọi người, nhất là đấng sanh thành vui mừng như mở hội. Cô bác xóm giềng ai ai cũng vui lây và khen ngợi. Ông thầm nguyện, ao ước trong lòng cầu Trời, khấn Phật sao cho gia thất yên bề, thuận trên, hoà dưới con cái đông đúc để đẹp lòng cha mẹ và thỏa nguyện những ngày tháng đợi mong. Mặc dù chúng là gái hay trai, miễn sao có để nói dòng, nói giống cho tổ tông là ông vui sướng vô cùng. Bởi gia đình ông chỉ có một mình ông là độc nhất.
        Thời gian sao trôi qua nhanh quá, thắm thoát mà ông đã cưới cô Cẫm Lệ gần hơn năm trời.
        Sự mong mỏi, cũng như chờ đợi kết quả của mọi người dần… dần xa thẳm. Cha mẹ ông càng lúc càng già đi, sức yếu, nỗi chờ trông như nước qua cầu, nhưng biết làm sao được khi duyên trời đã định.
        Sau cơn bệnh trầm trọng, khó chữa ông cả Hòa đã qua đời. Ông chết đi vì ung thư hai buồng phổi, trước phút lâm chung người ông gầy gò như bộ xương khô, nằm trên giường bệnh ròng rã hai tháng trời liền, không ăn, chỉ uống chút nước lả cầm hơi. Cơn ho khàn càng lúc càng tăng, mỗi khi nghe ông ho, người ngồi bên cạnh dường như cũng đau xót lây, nó cứ dằng dặc ông suốt cả đêm ngày, rồi mãi cho đến ngày nhắm mắt.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét