- Trích trong VÀO CHÙA LỄ
PHẬT - NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT của Đặng Xuân Xuyến ; xuất bản năm 2006 -
Đạo
thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và rất thuần Việt. Nói đến Đạo
Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao
mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu, tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu, người
ta không chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh
với một trật tự chặt chẽ (thể hiện trong các giá hầu đồng khi thỉnh các vị
Thánh Mẫu, Chúa Bà, Quan Lớn, Chầu Bà, Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu...).
Trong
các đền phủ của Đạo Mẫu, luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh, nhất là
NGỌC HOÀNG (thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc
Đẩu), tuy nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC HOÀNG mà người ta
chỉ thỉnh các vị thánh sau:
A. TAM TÒA THÁNH MẪU:
Nếu
không kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo
Mẫu. Khi hầu đồng người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến
các vị khác, tuy nhiên khi thỉnh Mẫu người hầu đồng không được mở khăn phủ diện
mà chỉ đảo bóng rồi xa giá, đó là quy định không ai được làm trái, và sau giá
Mẫu, từ hàng Trần Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng. Theo tín ngưỡng cổ
thì ba giá Mẫu hóa thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam, nên
coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.
Ba
giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:
1.Mẫu Đệ
Nhất Thiên Tiên: Cửu Trùng Thanh
Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu Hạnh. Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi
nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định (Mở hội ngày 3/3 âm lịch),
tương truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính, Phủ Công Đồng,
Phủ Bóng, ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá, Phủ Tây Hồ ở Hà Nội.
2. Mẫu Đệ
Nhị Thượng Ngàn: Đông Cuông Công
Chúa. Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn (rừng núi). Đền thờ
chính Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là Đền Đông Cuông, Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3. Mẫu Đệ
Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ.
Tương truyền là vị Thánh Mẫu, con Vua Bát Hải Động Đình, cai quản các sông
suối, biển, các mạch nước trên đất Nam Việt. Người ta thường lập đền thờ bà ở
các cửa sông, cửa biển để cầu cho biển lặng sóng yên.
B. CHƯ VỊ TRẦN TRIỀU
Dân
gian ta có câu
"Tháng tám hội Cha,
tháng ba hội Mẹ"
Mẹ ở
đây là Mẫu Liễu Hạnh, còn Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, cùng với một số giá
gọi là hàng Trần Triều. Tuy nhiên theo tín ngưỡng dân gian thì bên Đạo Mẫu (Tam
Tòa Thánh Mẫu) và bên Trần Triều rất kị nhau, vì thế phải là người đồng nào có
căn mạng thì khi hầu đồng mới thỉnh và hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu,
còn không thì thông thường người ta không thỉnh về hàng Trần Triều.
Chư vị Trần Triều gồm:
1.Đức Thánh
Ông Trần Triều: Hưng Đạo Đại
Vương, được tín ngưỡng dân gian tôn làm Đức Thánh Trần, giúp dân sát quỷ trừ
ma, trừ dịch bệnh, thế nên ở đâu có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo Ngài tất
đựoc linh ứng. Khi hầu đồng về giá này, thanh đồng (người hầu đồng) mặc áo bào
đỏ thêu rồng, tay cầm thanh đao, ngoài ra theo một tục cổ, khi hầu về giá Đức
Thánh Trần Triều, người hầu đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt
cổ. Đền thờ Ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc,
Chí Linh, Hải Dương với hội mở ngày 20/8 âm lịch.
2. Đệ Nhất
Vương Cô: Cô là con gái lớn
của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu rồng, đội khăn đóng, vấn
khăn đỏ phủ lên, tuy nhiên có ít người hầu giá này mà chỉ hay hầu về Đức Thánh Trần
và Đệ Nhị Vương Cô.
3. Đệ Nhị
Vương Cô: Cô là con gái thứ
của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng, đội khăn đóng,
vấn khăn xanh phủ lên, có kiếm cờ giắt sau lưng, hai tay cũng cầm kiếm và cờ,
theo quan niệm, cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà, người hầu về giá này
thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn
lửa để tróc tà.
C. TAM VỊ CHÚA MƯỜNG
Trên
Toà Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói, 12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng, chỉ
thỉnh ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường, ba vị Chúa này là những người
phụ nữ nhân đức, cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được
người đời nhớ ơn và lập đền thờ.
Tam
vị Chúa Mường gồm:
1. Chúa Đệ
Nhất Thượng Thiên: Bà là người giúp
vua trị quốc an dân, (Chúa Đệ Nhất Tây Thiên) hơn nữa theo quan niệm
tín ngưỡng thì bà là người nắm giữ sổ Tam Tòa, trông coi mọi việc nên được tôn
làm Chúa Thượng, ngoài ra thì những người có tài cúng lễ đều là do bà dạy và
ban lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy đồng. Tuy nhiên Chúa Đệ Nhất rất ít
khi ngự đồng. Thông thường, trong lễ khai đàn mở phủ mà có dâng đàn Chúa Bói
thì người ta thường thỉnh bà về chứng tòa Chúa Đệ Nhất. Khi ngự đồng, chúa mặc
áo đỏ (áo lụa thêu phượng hoặc áo gấm), cầm quạt khai quang. Chúa Tây
Thiên không có đền thờ chính mà chỉ được thờ trên Đền Hùng thuộc tỉnh Phú Thọ
và bà cũng được thờ cận bên Mẫu Tây Thiên ở Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày
hội chính của Chúa Đệ Nhất Tây Thiên là ngày 10 tháng 05 âm lịch (tương
truyền là ngày Chúa giáng hạ trần phàm).
2. Chúa Đệ
Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyệt Hồ): Bà là người có
tài xem bói, tương truyền, mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà
bấm đốt tay xem xét. Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa Nguyệt là bà Chúa Bói
danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Thông thường, khi có mở đàn Chúa Bói
mà không thỉnh được cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì người ta thường hay thỉnh
bà về chứng cả ba tòa Chúa (màu đỏ, màu xanh và màu trắng) còn bình
thường thì Chúa về chứng tòa Chúa Đệ Nhị. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa
mồi. Đôi khi Chúa về ngự còn dùng lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần
gian. Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính tại Đền Nguyệt Hồ ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ,
tỉnh Bắc Giang (tương truyền là nguyên quán của Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ).
Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ngày 15 và 16 tháng 02 âm lịch.
3. Chúa Đệ
Tam Lâm Thao: Dân gian thành kính
gọi bà là Chúa Chữa, Chúa Ót: - Tương truyền, bà là công chúa, con gái ruột của
Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp vua cha
trị quốc, bà là người lo việc quân nhu quân lương trong các cuộc chiến trận,
ngoài ra bà còn là người có tài bốc thuốc nam. Bà đi khắp vùng đem tài năng của
mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người có lòng mộ
đạo, thường xuyên ăn chay niệm phật để cầu cho quốc thái dân an. Như hai vị
chúa trên, khi người ta dâng đàn Chúa Bói thì thường thỉnh Chúa về chứng tòa
Chúa Đệ Tam. Khi về đồng bà thường mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa mồi
như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng có nơi hầu Chúa lại chỉ dùng quạt khai quang.
Chúa Lâm Thao được thờ chính tại Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú Thọ (tương
truyền là nơi khi xưa chúa lập kho quân nhu quân lương và bốc thuốc cứu dân).
Ngày hội chính của Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao tương truyền là 25 tháng 12 âm lịch.
D. NGŨ VỊ TÔN ÔNG - CÔNG ĐỒNG QUAN
LỚN
Là
các vị quan lớn trong Tứ Phủ, cai quan bốn phương và đều là các vị hoàng tử,
danh tướng, có công với quốc gia. Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là
gồm 5 vị quan lớn, nhưng ở một số nơi khi hầu đồng người ta thỉnh 6 vị sau:
1. Quan Đệ
Nhất: Tương truyền là Tôn
Quan Đại Thần, sắc phong tước Công Hầu, ngôi Thượng Thiên. Khi ngự đồng mặc áo
đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp.
2. Quan Đệ
Nhị: Quan Thanh Tra Giám
Sát, sắc phong Thái Hoàng. Tương truyền là người cai quản sơn lâm thượng ngàn,
thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần làm mưa làm gió. Khi ngự
đồng mặc áo xanh thêu rồng. Đền thờ Quan Đệ Nhị là đền Quan Giám, Lạng Sơn.
Chính hội là ngày 10 tháng 11 âm lịch.
3. Quan Đệ
Tam: Quan Tam Phủ, Bơ Phủ
Vương Quan, sắc phong Thái Tử Đệ Tam, con Vua Bát Hải Động Đình, là người nắm
giữ kỉ cương nơi Long Cung, cai quản các con sông trên khắp nước Nam. Theo tương
truyền thì ông giáng trần cứu dân, trở thành vị tướng thủy quân tài ba, trong
một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu, ông hy sinh, bị giặc chém mất đầu, chiếc
đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu, vì thế mới có hai đền thờ quan hai
bên bờ sông Lục Đầu (Hưng Yên) là Đền Lảnh Giang - nơi thờ mình và
Đền Xích Đằng - nơi thờ đầu. Chính hội là ngày 24 tháng 6 âm lịch. Khi ngự đồng
mặc áo trắng thêu rồng, tay cầm song kiếm.
4. Quan Đệ
Tứ: Là Quan Khâm Sai,
sắc phong Thái Tử Thiên Cung, là người cai quản Tam Giới Tứ Phủ, mười phương trời
đất, kiêm cả đạo phật thiền gia.
Khi ngự đồng mặc áo
vàng thêu rồng, cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ. Tuy nhiên, ít người hầu đồng
về giá này.
5. Quan Đệ
Ngũ: Là Quan Tuần Tranh,
sắc phong Công Hầu, là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18 cai quản miền duyên
hải sông Tranh, giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do bị oan khuất nên Ông
bị đày về vùng Kì Cùng, Lạng Sơn. Tương truyền,
quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời, được nhân dân thờ phụng ở
khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh tại Ninh
Giang, Hưng Yên (là nơi quê nhà) ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng, Lạng Sơn (là
nơi ông bị đày) bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa. Khi ngự đồng mặc áo
lam thêu rồng cầm long đao để giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ sinh linh. Ngày
mở hội là ngày 25 tháng 5 âm lịch, là ngày Ông bị đi đày.
6. Quan Điều
Thất: Là hàng Quan thứ 7,
giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng, Hưng Yên,
Bắc Ninh). Tương truyền, Ngài cũng là con vua Bát Hải Động Đình, giáng thế giúp
dân. Khi ngự đồng mặc áo đỏ điều, thêu rồng.
E. TỨ PHỦ CHẦU BÀ
Các
vị Chầu Bà trong Tứ Phủ là những phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với
dân với nước nên khi từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị
Chầu Bà trong Tứ Phủ, được Vua Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân
gian.
Hàng
Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau, thêm 2
vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5.
Các
vị Chầu Bà gồm:
1. Chầu Đệ
Nhất Thượng Thiên: Được coi là hóa
thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng. Là vị Chầu tối thượng, đứng đầu hàng Chầu,
ngự tại Ngọc Điện, Thượng Giới. Tuy nhiên cũng ít người mở khăn phủ diện để hầu
Chầu Đệ Nhất.
2. Chầu Đệ
Nhị Thượng Ngàn: Được coi là hóa
thân của Mẫu Đệ Nhị. Bà vốn là Công Chúa Thiên Thai, giáng hạ để cai quản
thượng ngàn và tam thập lục châu. Khi ngự đồng Chầu mặc áo xanh thêu hoa, đầu
vấn khăn xanh, cài trâm hoa, tay cầm mồi tượng trưng cho bó đuốc. Đặc biệt khi
hầu về giá này còn có nghi thức Trình Trầu: Các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã
tôn nhang bản mệnh, vào ngày hầu đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới),
ngồi phủ khăn đỏ, đầu đội mâm trầu cau để "trước trình Phật Thánh
sau trình Vua Cha, trình lên Tứ Vị Vua Bà, trình đồng Tiên Thánh, trình tòa Sơn
Trang, trình lên Thập Vị Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu chứng mâm trầu trình".
Khi Trình Trầu người ngồi lễ phải đặt lên mâm trầu cau 12 tờ tiền đồng, tượng trưng
dâng lên 12 giá chính của hàng Chầu Bà là những vị giúp mình được đội
trầu. Đền thờ Chầu Đệ Nhị là Đền Đông Cuông, Tuần Quán, Yên Bái.
3. Chầu Đệ
Tam Thoải Cung: Được coi là hóa
thân của Mẫu Đệ Tam, là Lân Nữ Công Chúa, Ngọc Hồ Thần Nữ, vốn là con vua Thủy
Tề, ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn Thoải Cung, Tam Phủ. Bà được coi là người
cai quản các sông suối biển hồ mạch nước trên đất Việt.
(Có nơi còn đưa Chúa
Thác Bờ vào hàng Chầu Bà và người ta thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam
hoặc không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn Chúa Thác Bờ. Tương truyền Chúa Thác
Bờ vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi thắng tích, dạy người Mường biết trồng
trọt, đánh bắt cá dưới sông Đà. Khi ngự đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn
choàng trắng, có khi lại mặc váy đen áo trắng đai xanh, bên hông có xà tích
bạc, túi dao quai, một tay cầm mồi, một tay cầm mái chèo. Đền thờ Chúa Thác Bờ
là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi, Hoà Bình.)
4. Chầu Đệ
Tứ Khâm Sai: Bà được phong
danh là Chiêu Dung Công Chúa, giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân, có quyền
tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh... Khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng,
một tay cầm kiếm, một tay cầm cờ để đi cứu dân. Đền thờ bà là Đền Khâm Sai
hay Phủ Bà Đệ Tứ (đền Cây Thị) ở Quý Hương, An Thái, Vụ Bản,
Nam Định.
5. Chầu Năm
Suối Lân: Bà là vị Chầu
trên Sơn Trang Thượng Ngàn, trấn cửa rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng. Khi
ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa đỏ, đầu vấn khăn chàm tím. Đền Chầu
là đền Suối Lân, ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn, bên cạnh đền là suối Suối
Lân.
(Chúa Bà Năm Phương
thường đựoc hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân. Tương
truyền, Chúa vốn là Bạch Hoa Công Chúa, bị trích giáng vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm
Giang, được giao là người cai quản bản cảnh ngũ phương trong trời đất. Khi ngự
đồng, có lúc mặc cả bộ trắng, có khi chỉ phủ chiếc khăn phủ diện đỏ làm khăn
choàng... Người ta thường dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa trắng, trong đàn mã
mở phủ phải có một cỗ xe trắng dâng Chúa Bà. Đền Chúa bà là Đền Cấm, Phố Cấm,
Lê Lợi, Hải Phòng.)
6. Chầu Lục
Cung Nương: Bà là Lê Triều
Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn, cũng như Chầu Năm, bà trấn cửa rừng Chín
Tư. Tương truyền bà có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động, tà ma
phách tán hồn xiêu, người trần gian ai không biết mà làm điều trái luân thường
đạo lý, độc ác, sẽ bị Chầu hành cho điên dại. Khi ngự đồng Chầu thường mặc
trang phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân. Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư, Hữu
Lũng, Lạng Sơn, gọi là đền Lũng, ngày mở hội là 20 tháng 9 âm lịch.
7. Chầu Bảy
Kim Giao: Tương truyền bà cũng
là vị Chầu Bà của dân tộc “Mọi”, bà giúp tộc “Mọi” biết làm ăn buôn bán nên
được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ. Khi ngự đồng Chầu mặc áo gấm tím. Đền Chầu là
Đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên.
8. Chầu Tám
Bát Nàn: Bà tên thật là Vũ
Thục Nương, quê ở Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình. Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà
Trưng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm Hương
và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn) nên nhân dân suy tôn làm Bát
Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát Nạn), sau này (năm
43 SCN) bà hy sinh tại thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Nhân dân thương tiếc và
lập đền thờ bà ở 2 nơi là Đền Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình và Đền Đồng Mỏ,
Lạng Sơn. Khi ngự đồng Chầu Bà mặc áo vàng, đội khăn đóng, sau lưng giắt kiếm
cờ, hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy vòng vây. Ngày
mở hội lễ bà là ngày 17 tháng 3 âm lịch.
9. Chầu Chín
Cửu Tỉnh: Bà là Chầu Cửu (âm
Hán: Cửu Tỉnh là Chín Giếng) cai quản giếng âm dương điều hòa định thái.
Khi ngự đồng Chầu mặc áo hồng, cầm quạt khai quang. Đền Chầu ngự cũng là đền
Sòng ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa.
10. Chầu
Mười Mỏ Ba: Bà là Nữ Tướng trấn giữ
ải Chi Lăng, giúp vua Lê Thái Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng, sau lại giúp
dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba, được triều đình phong công, nhân dân nhớ ơn... Khi
ngự đồng Chầu mặc áo vàng, đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều, chân quấn xà cạp, tay
cầm kiếm, tay cầm cờ hoặc mồi. Đền Chầu là Đền Mỏ Ba, lập ngay sát ải Chi Lăng,
Lạng Sơn.
11. Chầu Bé
Thượng Ngàn: Đây là tên gọi chung
các vị Chầu Bà người Thổ Mường, hầu hàng thứ 11, được coi là các vị Chầu Bé
đành hanh nhưng tài phép, cai quản Tòa Sơn Trang, có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu
cận. Khi ngự đồng mặc quầy (váy) xám; áo (dân tộc thiểu số), đầu chít
khăn thổ cẩm, chân quấn xà cạp, vai đeo gùi tay cầm mồi soi đường.
Có rất nhiều vị Chầu Bé
ở các Đền khác nhau, nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau: Chầu Bé Bắc Lệ,
Chầu Bé Đông Cuông, Chầu Bé Đồng Đăng và Chầu Bé Tam Cờ.
12. Chầu Bé
Thoải Cung: Bà cũng là chầu
Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ không phải trên Thượng như các Chầu Bé ở hàng thứ
11 nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12. Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về
giá này.
G. TỨ PHỦ ÔNG HOÀNG
Cũng
như hàng Quan Lớn, các Ông Hoàng cũng là những hoàng tử hay danh tướng có tài
giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng.
Hàng
Ông Hoàng gồm:
1. Ông Hoàng
Cả: Vốn là con Đức
Vua Cha, giáng trần mang vẻ lịch sự tươi tốt, độ cho dân chúng ấm no, hạnh
phúc. Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn
xếp, có phủ vỉ lép màu đỏ.
2. Ông Hoàng
Đôi: Còn gọi là Quan Triệu
Tường. Ông là danh tướng họ Nguyễn, thời phù Lê dẹp Mạc, có công lớn với nhà
Lê. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp,
có phủ vỉ lép xanh, tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc. Đền thờ ông là
Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa.
3. Ông Hoàng
Bơ: Vốn là con vua
Bát Hải Động Đình, thường phù trợ cho người làm ăn buôn bán và những ngư dân
đánh cá...
Khi
ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đai vàng, đầu đội
khăn xếp có phủ vỉ lép trắng, tay cầm đôi hèo hoa, cũng có khi một tay cầm
quạt, một tay cầm mái chèo. Đền thờ ông thường được lập ở các cửa sông.
4. Ông Hoàng
Bơ Bắc Quốc: Ông vốn là thương
gia bên Trung Quốc, từ nước Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo
khổ lên được suy tôn làm Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông
Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam. Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa. Đền thờ ông
là Đền Quan trên Bắc Giang.
5. Ông Hoàng
Bảy Bảo Hà: Ông vốn là con
vua Thượng Đế Ngọc Hoàng, giáng vào nhà họ Nguyễn, người Tày Nùng làm người con
thứ 7. Ông là người có công giúp vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp
dân chúng khai hoang lập ấp, nên sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà
Trái Hút, người dân lập đền thờ ông. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết
thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam, tay cầm đôi hèo hoa
phi ngựa đi chấm đồng, nếu người nào được ông ném cây hèo vào người thì coi như
người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ, khi ông ngồi ngự có điệu hát dâng
trà, rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm, tam cúc. Đền
thờ ông là Đền Bảo Hà, bên bến phà Trái Hút, thị xã Lào Cai.
6. Ông Hoàng
Mười Nghệ An: Còn gọi là Ông
Mười Củi, vốn là thần tiên trong chốn Đào Nguyên, giáng trần trở thành vị tướng
tài dưới thời nhà Lê. Không chỉ giỏi cầm quân ông còn là người có tài năng về
văn chương thơ phú ... Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình
chữ thọ, đầu đội khăn xếp có vỉ lép vàng trên đầu, các đệ tử thường lấy tờ tiền
cài vào que hương tượng trưng cho việc dâng ông lá cờ. Những người muốn xuất
ngoại, làm ăn buôn bán hoặc học hành thành công đều đến cửa ông để xin lộc. Đền
ông là Đền Chợ Củi, qua cầu Bến Thủy, bên dòng sông Lam, Nghệ An.
H. TỨ PHỦ TIÊN CÔ
Tứ
Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu, Chúa
Mường, Chầu Bà. Các Tiên Cô là những cô gái đoan trang, liệt nữ, có công với
giang sơn xã tắc nên được nhân dân lập đền thờ phụng.
Tứ
Phủ Tiên Cô gồm:
1. Cô Nhất
Thượng Thiên: Cô là Tiên Nữ
trên Ngọc Điện, hầu Vua Mẫu, thường giúp trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với
các Tòa các giá trong Tứ Phủ. Có khi cô giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị
bách bệnh, cũng có Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ Hà Nội, Hải Phòng đến Quảng
Bình, Quảng Trị .... Khi ngự đồng cô mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng, đội khăn
đóng phủ vỉ lép đỏ, cài hoa, tay cầm đôi quạt ngà như để quạt mát cho thế gian.
Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định.
2. Cô Đôi
Thượng Ngàn: Cô là Công Chúa Sơn
Tinh, là vị Tiên Cô hầu Vua Mẫu ba tòa. Cô đại tài, tiếng tăm lừng lẫy được Vua
Bà yêu thương. Cô có rất nhiều đệ tử. Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh, đầu vấn
khăn kết thành hình hoa, có vấn vỉ lép xanh, tay cầm mồi. Đền Cô nằm gần Đền
Đông Cuông, trước cửa Đền Cô có giếng nước quanh năm trong vắt.
(Có nơi thờ Cô Đôi Cam
Đường thay Cô Đôi Thượng Ngàn với truyền thuyết: Cô là tiên nữ xinh đẹp, giáng
sinh ở đất Đình Bảng, Bắc Ninh, gia đình nối đời buôn bán vải tơ. Cô bán vải từ
đường Quan Lộ, Chợ Dầu, Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa, vải sồi, lĩnh tía,
chàm xanh, nâu non. Khi ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh, chít khăn mỏ quạ, đội
nón quai thao (nón ba tầm), trên vai là chiếc đòn gánh cong với hai đầu là đôi
túi đẫy đựng vải. Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại hiển thánh tại thị xã Cam
Đường, Lào Cai nên nhân dân nhớ ơn đã lập đến cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.)
3. Cô Bơ Hàn
Sơn: Còn gọi là Cô Bơ Bông.
Cô là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn,rất xinh đẹp, lại đàn hát cũng
hay nên được Đức Vương Mẫu phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa Thủy
Cung, cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô thiếu nữ
đất Hàn Sơn. Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết, đầu đội khăn đóng, vấn
khăn ngang ba màu, tay cầm đôi mái chèo để vân du khắp nơi, cũng có khi cô cầm
dải lụa để đi đo đất đo mây.
Đền
thờ cô là Đền Cô Ba Bông ở Hà Trung, Thanh Hóa, ngay cửa sông. Mở hội vào ngày
12 tháng 6 âm lịch.
4.Cô Tư Ỷ La: Theo tài liệu cổ thì
cô Tư là Tiên Nữ theo hầu Mẫu Thượng. Cô xinh đẹp dịu dàng, được Mẫu hết mực
yêu quý. Khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng
tha thướt thêu hoa lá. Cô được thờ trên đền Ỷ La (Tuyên Quang).
5. Cô Năm
Suối Lân: Cô là Tiên Nàng người
dân tộc theo hầu Chầu Năm Suối Lân. Cô ở Thượng Ngàn, là người cai quản con
suối Suối Lân. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh hoặc áo lam, đầu vấn khăn hình củ ấu
và tay cầm đôi mồi lửa. Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm, bên bờ sông
Hóa ở Lạng Sơn.
6. Cô Sáu
Sơn Trang: Cô là Tiên Nàng hầu
cận Mẫu Thượng Trang Châu, cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương
và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung, nhưng các tài liệu đều thống nhất cô Sáu là người
có tài bốc thuốc cứu người, cô rất ghét người ăn nói quanh co, điêu ngoa. Khi
giáng đồng cô mặc áo lam ngắn vạt, dài tay, chít khăn xanh, trâm cài, lược dắt,
tay cầm bó mồi.
7. Cô Bảy
Kim Giao: Cô theo hầu Chầu Bảy
Kim Giao trên đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, cũng là người dân tộc “Mọi”.
Cô hiển ứng, đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngồi ca hát. Khi về đồng cô
mặc áo lụa tím.
8. Cô Tám
Đồi Chè: Cô là thiếu nữ hái
chè đất Hà Trung, cũng một lòng giúp vua, tuy chưa được đền đáp nhưng cô được dân
lập đền thờ là đền Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa, cách đền Cô Bơ Bông một con
sông. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh váy xanh, đầu kết khăn xanh, cô múa mồi rồi
múa dáng điệu hái chè.
9. Cô Chín
Sòng Sơn: Còn gọi là cô
Chín Giếng, Chín Rồng, Chín Suối, theo hầu Mẫu Sòng, có tài xem bói và có phép
thần thông quảng đại…. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô
Chín ở Thanh Hóa, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km. Khi ngự đồng cô mặc áo hồng
phớt màu đào phai, có khi cô múa quạt tiến Mẫu, múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô
thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Lễ vật dâng cô: Nón đỏ hài hoa vòng
hồng...
(Có nơi thờ cô Chín Tít
Mù thay cô Chín Giếng nhưng khác ở điểm: Cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn, có
tài trị bệnh bằng nước suối, tuy nhiên cũng rất ít người hầu về giá này. Đền cô
Chín Tít Mù lập ở đường lên Chầu Mười Mỏ Ba, ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng,
ai kêu cầu cô thì dâng cô nón đỏ hoặc nón xanh để xin thuốc chữa bách bệnh.)
10. Cô Mười
Mỏ Ba: Cô theo hầu Chầu Mười
Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô. Khi ngự đồng cô mặc áo vàng cầm cung kiếm, cưỡi
trên mình ngựa theo Chầu Bà xông pha trận mạc. Cô cũng được thờ tại đền Chầu
Mười.
11. Cô Bé
Thượng Ngàn: Cũng như Chầu Bé,
các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn. Có rất
nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân
quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm: Cô Bé Thượng
Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn), Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng), Cô Bé Đèo Kẻng (Thất
Khê), Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái), Cô Bé Tân An(Lào Cai), Cô Bé Cây
Xanh (Bắc Giang), Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang), Cô Bé Minh
Lương (Tuyên Quang), Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang) và Cô Bé
Thác Bờ (Hòa Bình)
12.Cô Bé
Thoải Phủ: Cô Bé ngự dưới
tòa Thoải Phủ, chỉ tráng bóng chứ không mở khăn, đứng hàng 12 trong các cô.
K. TỨ PHỦ THÁNH CẬU
Là
các vị cậu chết trẻ, tinh nghịch, thường phù hộ cho các gia đình buôn bán cũng
như những người muốn cầu học hành.
Tứ
Phủ Thánh Cậu gồm:
1.
Cậu Hoàng Cả
2. Cậu Hoàng Đôi
3. Cậu Hoàng Bơ
4. Cậu Bé
a, Cậu Bé Đồi Ngang
(Cậu Hoàng Quận)
b, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài ra ở mỗi bản đền lại
có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng như:
Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông....
Các cậu về (ngự đồng) thường
mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai bên tay thường có hoa
cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu. Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi hèo
hoặc múa lân.
Đặng Xuân Xuyến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét