Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH : NHÀ THƠ CAO BIỀN / Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ


TS Nguyễn Ngọc Kiên



          Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cấm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).
          Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn
吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.

- 高駢


Phiên âm:
Tả hoài kỳ 1 – Cao Biền
Ngư can tiêu nhật tửu tiêu sầu,
Nhất tuý vong tình vạn sự hưu.
Khước hận Hàn, Bành hưng Hán thất,
Công thành bất hướng Ngũ Hồ du.

Dịch nghĩa:
 Tỏ nỗi nhớ kỳ 1– Cao Biền
Câu cá giúp qua ngày, rượu say quên buồn bực,
Một khi đã say, quên hết nhân tình thế thái, mọi sự kể như đã qua.
Chỉ tiếc cho Hàn Tín và Bành Việt ra sức dựng nên nhà Hán,
Công thành lại không về vùng Ngũ Hồ mà ngao du.

Dịch thơ:
Tỏ nỗi nhớ kỳ 1 – Cao Biền
Câu cá vui, rượu tiêu sầu
Khi say muôn sự còn đâu nữa mà
Hàn, Bành giúp Hán cơ đồ
Công thành chẳng đến Ngũ Hồ rong chơi. 

- 高駢

Phiên âm:
Tả hoài kỳ 2 – Cao Biền
Hoa mãn tây viên nguyệt mãn trì,
Sênh ca dao duệ hoạ thuyền di.
Như kim ám dữ tâm tương ước,
Bất động chinh kỳ động tửu kỳ.

Dịch nghĩa:
 Tỏ nỗi nhớ kỳ 1 – Cao Biền
Đầy vườn tây hoa nở, đầy ao trăng sáng
Tiếng sênh ca khua động, thuyền rẽ sóng băng đi
Nay ngầm ước với lòng mình
Không phất cờ trận mà phất cờ rượu


Dịch thơ:
Tỏ nỗi nhớ kỳ 2 – Cao Biền
Vườn Tây đầy hoa, ao đầy trăng
Sênh ca khua động thuyền rẽ băng
Lòng mình cho đến nay thầm ước
Cờ trận thay cờ quán rượu ngang.

   - 高駢

Nam chinh tự hoài – Cao Biền
Vạn lý khu binh quá Hải Môn,
Thử sinh kim nhật báo quân ân.
Hồi kỳ trực đãi phong yên tĩnh,
Bất khiển chinh y hữu lệ ngân.

          Đất Giao Châu (nước ta thời Bắc thuộc) ở cực nam Trung Quốc đời Đường, bị người Nam Chiếu (nhóm người Thái ở giáp Giao Châu) quấy nhiễu. Tác giả Cao Biền được lệnh đem quân đi bình định. Sau cùng thì tác giả dẹp yên được giặc Nam Chiếu, lâp công lớn, nhưng ban đầu, ông bị xàm tấu là không chịu tiến quân, nên bị triều đình gọi về hạch tội. Bài này tác giả tả tâm tư mình (dù bị tấu oan cũng quyết không rơi lệ) trên đường về kinh đô. Hải Môn là cửa ải ra vào Giao Châu.

 Dịch thơ:
Đi đánh phương nam, tự tỏ lòng  – Cao Biền
Vạn dặm xua quân vượt Hải Môn
Trong đời nay được báo quân ân
Về triều xin đợi khi tan giặc
Đừng để chiến y lệ ướt dần.

- 高駢

Tặng ca giả kỳ 1 – Cao Biền
Tửu mãn kim thuyền hoa mãn chi,
Giai nhân lập xướng thảm sầu my.
Nhất thanh trực nhập thanh vân khứ,
Đa thiểu bi hoan khởi thử thì.

Dịch nghĩa:
 Tặng con hát kỳ 1 – Cao Biền
Rượu đầy thuyền vàng, hoa đầy cành,
Người đẹp đứng hát, hàng my sầu thảm.
Một tiếng nhập thẳng vào mây xanh bay đi mất,
Bao nhiêu vui buồn nổi dậy trong lúc này.

Dịch thơ:
Tặng con hát kỳ 1 – Cao Biền
Ban dịch 1:
  Thuyền vàng đầy rượu cành đầy hoa
Mi sầu người đẹp đứng hát ca
Thanh âm nhập mây xanh bay mất
Bao nỗi buồn vui dậy lòng ta
Bản dịch 2:
   Thuyền  đầy rượu, cành đầy hoa
Người đẹp đang đứng hát ca, mi sầu
Thanh nhập mây xanh bay đâu
Bao buồn vui đó hết rầu lòng ta.


Dịch nghĩa: 
Tặng ca giả kỳ 2 – Cao Biền
Công tử yêu hoan nguyệt mãn lâu,
Giai nhân yết điệu xướng Y châu.
Tiện tòng tịch thượng thu phong khởi,
Trực đáo Tiêu Quan thuỷ tận đầu.

Dịch thơ:
Tặng ca giả kỳ 2 – Cao Biền
Công tử vui chơi trăng đầy lầu
Giai nhân cất điệu hát Y châu
Gió thu bỗng nổi trên bàn tiệc
Thẳng tới Tiêu Quan  nước tận đầu.


Phiên âm:
Phó Tây Xuyên, đồ kinh Quắc huyện tác
Á Phu trùng quá Liễu doanh môn,
Lộ chỉ Dân, Nga cách mộ vân.
Hồng ngạch thiếu niên già đạo bái,
Ân cần nhận đắc cựu tướng quân.

Dịch thơ:
Đến Tây Xuyên, khi đi qua huyện Quắc
 Á Phu vượt quá Liễu doanh Môn
Dân, Nga thẳng chỉ cách hoàng hôn
Thiếu niên khăn đỏ đầy đường đón
Ân cần nhận rõ cựu tướng quân.
  

Phiên âm: 
Biên phương xuân hứng
Thảo sắc thanh thanh liễu sắc nùng,
Ngọc hồ khuynh tửu mãn kim chung.
Sinh ca liệu lượng tuỳ phong khứ,
Tri tận quan sơn đệ kỷ trùng.

Dịch thơ: 
 Hứng xuân nơi biên ải
Cỏ non xanh biếc, liễu sắc nồng
Bầu ngọc rót nghiêng đầy chén vàng
Nhịp phách lời ca theo gió thổi
Biết tận quan san mấy lớp cùng 


Phiên âm:
An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều
Vân thuỷ thương mang nhật dục thu,
Dã yên thâm xứ giá cô sầu.
Tri quân vạn lý triều thiên khứ,
Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.

Tào Biệt Sắc: chưa rõ thân thế.

Dịch thơ:
Tiễn Tào Biệt Sắc từ An Nam trở về triều
Mây nước mênh mang, ngày sắp tàn
Khói đồng mờ mịt gà gô than
Biết người muôn dặm chầu thiên tử
Rằng: tôi Nam chinh đã năm năm 


Phiên âm:
Phong tranh
Dạ tĩnh huyền thanh hưởng bích không,
Cung thương tín nhiệm vãng lai phong.
Y hy tự khúc tài kham thính,
Hựu bị di tương biệt điệu trung.

Dịch nghĩa:
 Cánh diều
Đêm tĩnh, tiếng đàn vang lên trong không trung xanh thẳm,
Âm điệu do gió thổi vào mà tạo thành.
Mơ hồ như một bản nhạc có thể nghe được,
Trong đó hàm ý sắp có đổi thay.

          Tiêu đề bày này có bản chép là "Đề phong tranh ký ý"
題風箏寄意. Một đêm, ông nghe gió thổi vào cánh diều mà đoán được vận mệnh sắp thay đổi. Quả nhiên ít lâu sau, nhận được chiếu chỉ của vua giao nhiệm vụ khác.

Dịch thơ:
Cánh diều
Bản dịch1:
 Tiếng diều đêm vắng vọng thinh không
Điệu âm  theo gió vẳng theo cùng
Mơ hồ nghe y như bản nhạc
 Điềm báo thay đổi ở bên trong.

Bản dịch 2:
 Tiếng diều đêm vọng không trung
Âm điệu theo gió thổi cùng trời mây
Mơ hồ như bản nhạc hay
Báo điềm thay  đổi ở ngay trong mình!


Sơn Đình hạ nhật
Lục thụ nùng âm hạ nhật trường,
Lâu đài đảo ảnh nhập trì đường.
Thuỷ tinh liêm động vi phong khởi,
Nhất giá tường vi mãn viện hương.

Dịch nghĩa:
 Ngày hè ở Sơn Đình
Cây xanh biếc, bóng rậm, ngày hè dài
Bóng lâu đài in trên mặt ao
rèm thuỷ tinh lay động bởi cơn gió nhẹ
Một dàn hoa tường vi, đầy nhà mùi hương ngát

Dịch thơ:
 Ngày hè ở Sơn Đình
Bản dịch 1:
Bóng rậm, cây xanh, ngày hè dài
Mặt ao in đậm bóng lâu đài
Thủy tinh rèm động cơn gió thoảng
Hương ngát  dàn tường vi nhà ai.

Bản dịch 2:
Cây xanh biếc, ngày hè dài
Bóng rậm soi bóng lâu đài mặt ao
Rèm động bởi ngọn gió nào
Dàn tường vi ngát hương vào nhà ai.


Phiên âm: 
Quá Thiên Uy kính
Sài lang khanh tận khước triều thiên,
Chiến mã hưu tê chướng lĩnh yên.
Quy lộ hiểm hy kim thản đãng,
Nhất điều thiên lý trực như huyền.

          Thiên Uy kính: Theo "Việt sử thông giám cương mục", năm Hàm Thông thứ 7 (866) nhà Đường, Cao Biền đi tuần đến châu Ung và châu Quảng, thấy đường biển nhiều đá ngầm, không tiện cho việc vận tải, liền sai Trưởng sử đem binh lính đi khai đào. Đến quãng giữa đường biển, gặp nơi có những tảng đá to nằm dài đến vài ba trượng, rìu búa không sao phá được, chợt một hôm có mấy trăm tiếng sét lớn đánh tan những tảng đá ấy, do đấy đường biển không bị ngăn trở, vì thế mới đặt tên là Thiên Uy kính.

 Dịch thơ:
 Qua đường Thiên Uy 
Sói lang chôn sạch mới chầu triều,
Khói mịt mờ ngựa chiến thôi kêu.
Đường hiểm gập ghềnh nay phẳng rộng,
Lối về muôn dặm thẳng một lèo.

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét