Tống
Biệt Hành của Thâm Tâm được báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy đăng năm 1940. Chỉ hơn một
năm sau, nó đã được Hoài Thanh chọn đưa vào tuyển tập Thi Nhân Việt Nam với
những lời nhận xét:
Thơ
thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài
dưới đây (Tống Biệt Hành) lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài
thơ cổ. Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại
uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó
hiểu của thời đại. (1)
TỐNG BIỆT HÀNH (2)
Đưa
người, ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa
người ta chỉ đưa người ấy
Một
giã gia đình một dửng dưng…
Li
khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí
nhớn chưa về bàn tay không
Thì
không bao giờ nói trở lại!
Ba
năm mẹ già cũng đừng mong
Ta
biết người buồn chiều hôm trước
Bây
giờ mùa hạ sen nở nốt
Một
chị, hai chị cũng như sen
Khuyên
nốt em trai dòng lệ sót
Ta
biết người buồn sáng hôm nay:
Giời
chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em
nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói
tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người
đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như hơi rượu cay (3)
Tứ Thơ
Bài
thơ không có phép ẩn dụ toàn bài nên tứ và ý giống nhau.
Tác
giả thuật lại toàn cảnh cuộc tiễn biệt một người ra đi vì lý tưởng mà chính ông
là một trong bốn người đưa tiễn (bên cạnh mẹ, chị, em của người ra đi).
Sau
đây là phần phân tích và nhận định nghệ thuật.
Bốn Câu Thơ Mở Đầu Thật Tuyệt.
Đưa
người ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng
chiều không thắm không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Mấy
câu thơ hay quá! Tứ thơ đẹp quá! Âm điệu mới lạ do phá cách trong luật bằng
trắc lôi cuốn được sự chú ý của người đọc ngay từ giây phút đầu tiên.
Hai
câu đầu là tâm sự, cảm xúc của người đưa tiễn: không đưa người qua sông nhưng
sao lòng ta nôn nao như sóng vỗ. Hai câu sau là tâm tình kẻ ra đi qua sự nhận
xét tinh tế của người đưa tiễn: chỉ nhìn đôi mắt, ta cũng biết người buồn lắm
vì trong đôi mắt ấy chứa cả bóng hoàng hôn.
Để
tả cảnh tiễn biệt, chia ly, 4 câu thơ trên có thể hiên ngang đọ sức về giá trị
nghệ thuật với bất kỳ đoạn thơ nào, ngay cả của thơ ca đương đại, mà không hề
nao núng.
Âm Điệu Gân Guốc, Rắn Rỏi.
Thơ
Mới thời bấy giờ cổ vũ ý tưởng mới, ngôn ngữ mới, thể thơ mới, đề tài mới…
nhưng vẫn tôn trọng một số âm luật cũ để giữ được âm điệu mềm mại, du dương
trong thơ.
Tống
biệt hành được cấu trúc bằng phương thức nghịch âm bất tuân những niêm luật vốn
có của thể hành. Nó cũng chẳng tôn trọng âm luật của thơ mới.
Có
câu toàn thanh bằng:
Đưa người ta không đưa qua sông
Có
câu có đến 4 thanh trắc liên tiếp:
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bởi
vậy âm điệu không uyển chuyển, du dương như phần nhiều thơ thời bấy giờ. Thay
vào đó, điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi gân guốc. Đó là nét rất độc
đáo của Tống Biệt Hành. Nhờ đó, mới ra lò nó đã được sự chú tâm, ưu ái của Hoài
Thanh.
Gợi Được Không Khí Hào Hùng
Nguyễn
Hoàng Linh trong bài Đến Với Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, đã viết:
Đề
tài bài thơ là một trong hằng hà sa số những cuộc ly biệt được đưa vào Thơ Mới
thời 1930 – 1945. Nhưng có lẽ trong văn học Việt Nam, trước và sau Thâm Tâm,
không ai viết về chia ly đầy tính bi hùng, trữ tình và mãnh liệt đến như thế.
…………
Không
rõ Tống Biệt Hành có gì khó hiểu? Nhưng rõ ràng khi đọc, tôi thấy thật “bâng
khuâng”. Vẻ trầm hùng, cổ kính của bài thơ cùng những hình ảnh “mong manh, ghê
rợn, như những nhát dao xiết vào tâm hồn, tưởng là rất nhẹ hóa ra lại rất nặng”
gây nên một ấn tượng thật mạnh và sâu đến người đọc. (4)
Còn
Nguyễn Hưng Quốc nhận xét khách quan hơn, chính xác hơn:
Chị,
em và người yêu lưu luyến thế ấy, chẳng lẽ lại đành tâm ra đi? Nhưng ly khách
lại đi thật. Bóng đã xa, người đưa tiễn còn ngơ ngác đứng và hun hút nhìn:
Người
đi? ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như hơi rượu say
…
Li khách tuy ngậm ngùi nhưng nét chính vẫn là sự nghênh ngang, hào sảng. Thấp
thoáng chút hùng khí đời xưa. Phảng phất hình ảnh Kinh Kha ngày trước. Rất đẹp.
Biết là cường điệu mà vẫn thấy đẹp. (5)
Có
lẽ ưu điểm lớn nhất, thành công lớn nhất của Tống Biệt Hành, theo tôi, là gợi
lại được cái cảnh tượng bi tráng của cuộc đưa tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Cái
thần tình của Thâm Tâm là ông không nhắc gì đến Thái Tử Đan, Kinh Kha, Tần Thủy
Hoàng, không nhắc gì đến con sông Dịch. Ông chỉ gián tiếp, bóng gió rất xa xôi,
bằng việc chọn thể hành cổ kính, đề tài tống biệt quen thuộc, chất liệu thơ xưa
cũ. Và chỉ có thế cũng đã đủ khiến người đọc không thể không cảm thấy như chính
mình đang hít thở cái không khí trầm hùng của cuộc chia ly ấy.
Ngôn Ngữ Thơ Trong Tống Biệt Hành
Theo
Chu Mộng Long thì:
Bài
thơ (Tống Biệt Hành) phục sinh một cách toàn diện những gì tưởng chừng đã bị
khai tử: Thể hành cổ kính, đề tài tống biệt với người ra đi – li khách xưa cũ,
kể cả chất liệu thơ: sông, sóng, bóng chiều, hoàng hôn, sen, lệ, màu thu, lá
bay, hạt bụi, hơi rượu say quen thuộc đến mức đã mòn về nghĩa… (6) với ý nhại
cổ (giễu nhại : parody)
Theo
tôi, Thâm Tâm không phục cổ hoặc nhại cổ mà chỉ gợi
cổ.
Chỉ
với những từ sông, sóng, bóng chiều, hoàng hôn rất cũ, rất xưa, Thâm Tâm đã tạo
nên 4 câu thơ tuyệt vời:
Đưa
người ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng
chiều không thắm không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Và
cũng với chất liệu thơ cũ mòn cộng với thể hành cổ kính và đề tài tống biệt
quen thuộc đã góp phần rất quan trọng vào việc gợi lại không khí trầm hùng, bi
tráng trong bài thơ.
Nhưng
cũng với những từ cũ như: sen, lệ, mùa thu, mắt biếc, chiếc khăn tay, ông đã
viết nên 2 đoạn thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
không
những tầm thường mà lại còn hơi “sến” nữa.
Cho
nên nếu thi sĩ khám phá được thể thơ mới, đề tài mới, chất liệu thơ mới thì, dĩ
nhiên, rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, những thứ “mới” ấy chỉ thực sự có giá
trị khi nhờ chúng thi sĩ đưa được những câu thơ mới, hình tượng mới, trong đó
chứa đầy cảm xúc mới của mình, vào thơ. (7)
Nhưng
dù thế nào đi nữa cũng không nên coi thường thứ ngôn ngữ, chất liệu thơ xưa cũ
hoặc giản dị. Nếu bài thơ vừa mới vừa hay vừa đẹp thì sẽ được độc giả nồng
nhiệt đón chào, ngả mũ bái phục. Còn nếu chỉ có mới không thôi thì nó cũng sẽ
sớm đi vào quên lãng như hằng hà sa số những bài thơ dở khác.
Đoán Tâm Trạng Của Người Khác
Trang Tử nhìn đàn cá dưới ao, phát biểu:
Nước
trong, cá tung tăng, cá vui đấy.
Huệ Tử cãi:
Anh
không là cá sao anh biết cá vui?
Trang Tử trả lời:
Anh
không là tôi sao anh biết tôi không biết cá vui?
Trên
đây là mẩu đối thoại của hai triết gia Trung Hoa, ý muốn nói rằng “không thể
biết được những suy nghĩ, tâm trạng của người khác”.
Theo
tôi, nếu có óc quan sát tinh tế, thì trong khá nhiều hoàn cảnh, người ta có thể
nhận biết được đối tượng (được quan sát) đang vui, buồn hay dửng dưng, vô cảm.
Nhưng nếu muốn đặc tả tâm trạng, muốn đi vào chi tiết của niềm vui, nỗi buồn
thì duy nhất chỉ có người trong cuộc. Đó là lý do thi sĩ thường viết ở ngôi thứ
nhất.
Trong
Tống Biệt Hành, tác giả có đến 5 trường hợp đoán tâm trạng người khác.
1. “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Nhìn
đôi mắt “đầy hoàng hôn” của bạn tôi đoán là bạn đang buồn. Điều này có thể chấp
nhận được. Đôi mắt là cửa sổ linh hồn, vui buồn thể hiện lên đôi mắt.
2. “Một
giã gia đình một dửng dưng”
Nhìn
khuôn mặt vô cảm của bạn tôi biết bạn dửng dưng trước cuộc chia ly.
3. Ta
biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
4. Ta
biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Nhìn
cảnh bịn rịn, quyến luyến của chị, của em với bạn, tôi đoán bạn rất buồn khi
chia ly.
5. Ba
câu cuối của bài thơ
Ở
4 trường hợp đầu tác giả đã sử dụng khả năng quan sát tinh tế của mình để cảm
nhận nỗi buồn (hoặc dửng dưng) của ly khách. Có lẽ ông đã áp dụng kinh nghiệm
của các cụ ngày xưa qua câu ca dao:
Trông
mặt mà bắt hình dong
Con
lợn có béo bộ lòng mới ngon.
Điều
này có thể tạm chấp nhận được, vì đó chỉ là nỗi buồn chung chung, không đặc tả,
không có chiều sâu. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này trong thơ thì hơi bị…
thất cách, sức thuyết phục đối với độc giả rất yếu. Bởi tục ngữ cũng có câu
“xanh vỏ đỏ lòng”; nhìn bề ngoài mà “bắt mạch tâm trạng” thì rất dễ bị “bé cái
lầm”.
Còn
riêng trường hợp thứ 5 thì phải nói là “vô phương bào chữa”. Đoán tâm trạng
người khác mà thi sĩ dám viết chi li đến độ:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
thì
quả là “liều” hết chỗ nói.
Dẫu
biết rằng trong thực tế thì tâm trạng của kẻ ra đi hay người đưa tiễn cũng đều
là của Thâm Tâm, nhưng đã lập trận địa chữ nghĩa, phân công phân nhiệm tướng
sĩ, thì vai nào phải ra vai đó. Người phàm mắt thịt mà cứ như là Tiên, Thánh,
đọc tâm ý người đối diện vanh vách như đọc tờ báo trước mặt thì coi sao được.
Theo tôi, đây là khuyết điểm lớn, làm giảm sức thuyết phục của bài thơ.
Phú Quý Giật Lùi
Đọc
bài thơ Tống Biệt Hành tôi thấy hình như “chiêu thức độc đáo” đã được Thâm Tâm
thi triển ngay phút bước vào trận đấu. Đoạn đầu hay quá, tuyệt quá, để lại
hương vị thật ngọt ngào, sảng khoái. Nhưng đến những đoạn sau, đoạn thì cường
điệu, giả tạo, đoạn thì tầm thường, nhạt nhẽo. Đoạn cuối thì cảm xúc dâng trào,
hào khí bốc cao nhưng đó chỉ là cảm xúc, hào khí kiểu quân tử Tàu, vừa khinh
bạc, vừa vô tình, hơn nữa, chỉ là sản phẩm từ sự võ đoán của người đưa tiễn.
Tôi
đã có một đôi lần, vào các dịp lễ tết, xem văn nghệ tại các chùa, nhà thờ gần
nhà. Vài Phật tử, con cái Chúa là ca sĩ chuyên nghiệp, từ Cali bay sang hát
“sô”, nhân tiện ghé vào chùa, nhà thờ hát ủng hộ mấy bài. Họ yêu cầu được xếp
hát ở đầu chương trình để còn “chạy” chỗ khác.
Thế
là chương trình văn nghệ có vài tiết mục đầu hấp dẫn, còn sau đó là “cây nhà lá
vườn”. Tôi không có ý phủ nhận thiện chí, tinh thần phục vụ của các em trong
Gia Đình Phật Tử, Thiếu Nhi Thánh Thể, nhưng rõ ràng cái không khí hào hứng của
chương trình văn nghệ, sau mấy tiết mục đầu, đã giảm đi, đã nhạt đi rất nhiều.
Cũng
tương tự như vậy, các vị khách mời trong buổi tiệc thơ Tống Biệt Hành, nếu
không bị hơi men làm mờ mắt, sẽ thấy phẩm chất của rượu “phú quý giật lùi”,
càng về sau càng kém ngon, càng về sau càng “dởm”. Đây cũng là một lỗi không
nhỏ của thi sĩ trong việc dàn trải ý tứ.
Những Lời Khen + Những Lời Tán Dương Quá Lố
Trong
thời gian tra cứu để viết bài này tôi thấy một điều rất lạ là hàng mấy chục bài
viết liên quan đến Tống Biệt Hành, bài nào cũng vậy, đều hết mực ngợi khen. Tay
viết nào già giặn thì lời khen văn hoa bay bướm, kém hơn thì sao chép nguyên ý
của các bậc lão thành, đàn anh, chỉ đổi sơ lời văn, giọng văn cho nó thành của
mình. Đặc biệt trong trang mạng của các trường đại học, trung học thì các bài
bình Tống Biệt Hành đều rập khuôn, đều ca tụng đến tận trời xanh.
Sau
đây là một lời khen “hơi mạnh miệng”:
Khi
sáng tác “Tống biệt hành” (1940) có lẽ Thâm Tâm cũng không ngờ rằng bài thơ của
mình sẽ để lại nhiều ẩn số cho hậu thế. Cuộc đời của ông ngắn ngủi. Tác phẩm
ông để lại không nhiều. Nhưng chỉ với một “Tống biệt hành”, ông đã được lưu
danh vào lịch sử văn học nước nhà. “Tống biệt
hành” không chỉ là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ Mới mà
còn xứng đáng là một kiệt tác của thơ Việt Nam hiện đại.”, (12)
Và
kế tiếp là thí dụ về một “vẻ đẹp tưởng tượng” của một nhà phê bình văn học có
vai vế, có học vị, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc:
Kế
thừa nhưng không lặp lại, Thâm Tâm đã tạo nên sức sống diệu kỳ cho Tống biệt
hành. Đặc biệt, sự kế thừa, sáng tạo trong cấu tứ thơ Đường giúp tác giả thể
hiện sâu sắc một cái nhìn đa chiều về “vẻ đẹp
con người cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh
thần nhân đạo” (13)
(Lẽ
ra cái tựa của bài thơ - Tống Biệt Hành - phải viết hoa cả 3 chữ, nhưng ở đây
không hiểu sao Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc, một nhà phê bình văn học có vai vế lại chỉ
viết hoa có một chữ “Tống”. Vì là câu trích dẫn nên tôi phải để “nguyên văn”
nhưng thấy hơi chướng.)
Nhưng Chu Mộng Long lại nghĩ khác.
Theo
ông, trong Tống Biệt Hành:
Kẻ
ra đi chỉ có hành động mà không có nội tâm: Một giã gia đình, một dửng dưng;
chỉ có lí tưởng mà coi thường tình cảm: Chí nhớn chưa về bàn tay không; đề cao
lí tưởng mà quên tình ruột thịt: Thì không bao giờ nói trở lại! / Ba năm mẹ già
cũng đừng mong. (14)
Và
vô tình nhất, theo tôi, có lẽ là 3 câu cuối của bài thơ
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như hơi rượu cay…
Vì
chí lớn, vì nghiệp lớn, vì lý tưởng, vì đại nghĩa, vì quê hương đất nước ra đi,
thân này kể bỏ; những người thân yêu ruột thịt cũng coi như không, nói chi đến
bạn bè.
Ngay
cả người gần gũi nhất là bà mẹ đã banh da xé thịt cho mình được chào đời, cũng
chỉ xem như là chiếc lá bay.
Cạn
một ly rượu để hơi men bừng lên đôi mắt. Lúc ấy trên vai là gói hành trang, đâu
đó vọng lại tiếng gọi của bạn bè đồng trang lứa, và trước cổng nhà là con đường
rộng mở dẫn đến tương lai. Mạnh bước ra đi. Khác gì Kinh Kha, theo lời ủy thác
của Thái Tử Đan qua sông Dịch thực hiện một sứ mạng trọng đại cứu muôn vạn dân
lành. Ôi hiên ngang quá! Hào hùng quá! Lãng mạn quá! Nhưng nghe sao cũng vô
cùng khinh bạc, thiếu tình người, nếu không muốn nói là vô nhân đạo.
Tôi
không cổ võ cho việc chạy chọt để lánh né chiến trường, an thân ở hậu phương
lúc nước nhà nguy biến, nhưng cái thái độ vô tình, coi nhẹ gia đình, coi nhẹ
những người thân yêu ruột thịt, như li khách, thật khó mà đồng cảm.
Chúng
ta hãy nghe Yên Thao bày tỏ tâm sự lúc chia tay người vợ đầu gối, tay ấp của
mình:
Tôi
có người vợ
trẻ
đẹp như thơ
tuổi
chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má
trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
ai
ra đi mà không từng bịn rịn?
rời
yêu thương nào đã mấy ai vui?
em
nhìn tôi e ấp buổi chia phôi
tôi
dấn bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (15)
(Nhà
Tôi, Yên Thao)
Đó
mới là có chút tình người; đó mới tạm gọi là có hơi hám của nhân bản, nhân đạo.
Người lính chiến trong Yên Thao vẫn chấp nhận ra đi làm nghĩa vụ của mình,
nghĩa vụ của trai thời loạn, nhưng là con người, trái tim không phải là sỏi đá,
nên khi “dấn bước” lên đường đã đau thương đến độ “nghe hồn nhỏ lệ”. Còn như
Thâm Tâm:
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như hơi rượu cay…
thì
quả là quá cứng cỏi, quá lạnh lùng và quá vô tình.
Thạc
Sĩ Hồ Thúy Ngọc trích lời Trần Đình Sử cho là “sự biểu hiện chân thật của nhân
tính, đầy tinh thần nhân đạo” thì quả là có óc tưởng tượng cực kỳ phong phú.
Vài Lý Do
Tống
Biệt Hành là bài thơ hay, nổi tiếng, được rất nhiều người biết đến và yêu mến.
Có điều mức độ nổi tiếng của nó lại không tương xứng với giá trị nghệ thuật, có
thể nói, đã vượt khá xa giá trị nghệ thuật. Sau đây là một vài lý do:
1. Tống
Biệt Hành khơi lại được cái hào khí của Kinh Kha – vì chí nhớn, vì đại cuộc,
sẵn sàng liều mình ra đi – đúng vào thời điểm tuổi trẻ VN nô nức lên đường
chống Pháp, và sau đó “chống nhau” (miền nam thì chống cộng, miền bắc thì đánh
miền nam để thống nhất đất nước dưới chế độ cộng sản) nên được chính quyền miền
bắc, và sau đó là miền nam, giúp sức phổ biến vì lý do chính trị.
2. Tống
Biệt Hành lọt vào mắt xanh của Hoài Thanh – một cây bút bình thơ sắc sảo, uy
tín vào hạng nhất thời bấy giờ – và được ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt
Nam. Các bài viết về Tống Biệt Hành sau này, vì uy tín của Hoài Thanh và Thi
Nhân Việt Nam, không tiếc lời ca ngợi bài thơ, nhiều khi bịa ra “những cái đẹp
tưởng tượng” để tán dương.
3. Tống
Biệt Hành được đưa vào chương trình giảng dạy văn học; dựa vào mấy bài mẫu của
ngành giáo dục, sinh viên học sinh cứ thế mà “tụng”, mà khen bài thơ đến tận
trời xanh.
4. Những
người có ý kiến khác biệt cũng không dám bày tỏ vì đang sống và chịu ảnh hưởng
của một môi trường văn học chưa được tự do; viết khác đi dễ bị để ý, trù dập.
Như
vậy, Tống Biệt Hành được rất đông đảo người đọc biết đến, khen hay, rồi yêu
thích, dĩ nhiên, một phần là vì giá trị nghệ thuật của nó, nhưng cũng còn vì
những “cái khác” (rất ngoài thơ) nữa. Khi rũ sạch hết những “cái khác” ấy, Tống
Biệt Hành sẽ trần trụi hiện ra, không xiêm y lụa là của thời đại; bên cạnh
những nét đẹp độc đáo cũng còn không ít những khuyết điểm khá quan trọng liên
quan đến cả ý tưởng và kỹ thuật thơ.
Khi
được thả hồn mình đắm chìm trong không khí trầm hùng bi tráng của cuộc chia tay
lịch sử trên sông Dịch, người đọc dù nhận ra những “bất ổn” trong bài thơ, cũng
cố lờ đi, để nghe trái tim mình đập nhanh hơn, để thấy hào khí bốc lên ngút
trời, vì chí nhớn mà nhảy vào biển lửa cũng không một giây do dự.
Tôi,
với cái nhìn chủ quan của mình, đã cố công phân tích, bình phẩm bài thơ Tống
Biệt Hành. Trước hết, để đưa nó về vị trí tương xứng với giá trị nghệ thuật của
nó. Sau nữa, nếu có quý vị nào làm công tác phê bình văn học, có tầm nhìn xa
hơn, muốn đánh giá bài thơ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, trong một giai
đoạn lịch sử dài hơn, thì bài viết này xin được đóng vai trò một lời góp ý nho
nhỏ trong kho tư liệu của quý vị.
Lời Khuyên Của Một Bạn Văn
Khi
biết tôi có ý định viết về Tống Biệt Hành, một anh bạn bắc kỳ 54, cũng thuộc
giới cầm bút, đã nhắc nhở:
“Bài
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm có một sức hút rất lớn đến hai thế hệ chiến tranh
của Việt Nam (thế hệ đàn anh của mình và thế hệ của tôi và anh). Đơn giản là nó
diễn tả và đáp ứng đúng tâm trạng những người trai vừa lớn lên phải đối mặt với
chiến tranh (chiến tranh chống Pháp, chiến tranh chống Cộng).
Nhưng
với các thế hệ đàn em, sức hút của bài thơ không lớn, nếu có chăng chỉ là tầm
vóc nghệ thuật mà bài thơ ấy có được. Vì thế, khi viết về bài thơ này, phải hết
sức cẩn trọng (trong lời chê). Người đọc (thế hệ chúng ta) mang tâm trạng như
đọc về quá khứ của mình, trong đó chỗ đứng của bài thơ này chiếm vị trí rất
trang trọng.”
KẾT LUẬN
Trước
tiên, tôi sẽ nghe lời khuyên của anh – “hết sức cẩn trọng” trong phần viết về
khuyết điểm của bài thơ. Tôi cũng đồng ý với anh là thế hệ kế tiếp của anh và
tôi – không bị ảnh hưởng bởi cái sức hút vô hình kia – sẽ có được cái nhìn
chính xác hơn về giá trị của bài thơ.
Nhưng
khi nhìn qua cửa sổ, thấy những chiếc xe bus vàng đón trẻ con đi học, tôi chợt
nhớ mình đang sống trên nước Mỹ tự do. Trước những trào lưu văn học mới, Thi
Nhân Việt Nam (Hoài Thanh) cũng không còn là “khuôn vàng thước ngọc” (ít nhất
đối với tôi), và ở cái tuổi trên 6 bó của cuộc đời, hào khí của Kinh Kha cũng không
đủ sức mê hoặc tôi đến mức khi đọc Tống Biệt Hành có thể quên đi công việc của
mình đang làm là thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Như
vậy, công việc ấy tại sao cứ phải chờ đến thế hệ sau, anh nhỉ?
Viết xong cuối tháng 1 năm 2014
Phạm Đức Nhì nhidpham@gmail.com
……………………..
Chú Thích:
(1)
Thi Nhân Tiền Chiến, Hoài Thanh & Hoài Chân, NXB Văn Học, 1988, tr.281
(2)
Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(3)
Nhiều bản khác viết là say. Khi trích tôi giữ nguyên bản chính.
(4)
(Đến Với Bài Thơ Hay: Tống Biệt Hành Của Thâm Tâm, Nguyễn Hoàng Linh, Nhịp Cầu
Thế Giới Online)
http://nhipcauthegioi.hu/Van-hoa/Den-voi-bai-tho-hay-TONG-BIET-HANH-CUA-THAM-TAM-769.html
(5)
Tứ Thơ, Nguyễn Hưng Quốc, Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Quê Mẹ xuất bản tại
Paris, 1988
(6),
(7), (14) Phục Cổ Hay Nhại Cổ? Trường Hợp Tống Biệt Hành, chumonglong.wordress.com. Ông Chu Mộng Long, hiện đang
giảng dạy tại Đại Học Quy Nhơn, cho biết bài viết đã được đăng trên Tạp Chí
Thơ, Hội Nhà Văn, 06/2008.
Về
điểm này tôi có viết một đoạn thơ vui như sau:
Thái
Tử Charles ôm Công Nương Diana
trên
chiếc giường nệm êm ái
Chí
Phèo chẳng cần giường
mà
đè Thị Nở ngay bên gốc chuối
nếu
chỉ dựa vào độ “hiện đại” của chiếc giường
để
đoán cô gái nào sướng hơn
có
khi bạn lầm to
(Lầm
To, Phạm Đức Nhì)
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/2023/06/coi-chung-lam-to.html
(8),
(9), (10), (11) Nhận Diện CDNV, Lý Hồng Xuân, Văn Nghệ, 2000, tr. 261
(12)
(Hoàng Trọng Hà, Vài Suy Nghĩ Về Bài Thơ Tống Biệt Hành, baolamdong.vn)
(13)
Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Tống Biệt Hành Của TT, Thạc Sĩ Hồ Thúy Ngọc
(Trích lời Trần Đình Sử), htu.edu.vn/khoa-su-pham-xa-hoi-nhan-van
(15)
Đoạn thơ trên được lưu truyền trong các sinh hoạt văn học, văn hóa, văn nghệ ở
miền nam; tôi thuộc lòng vì thường hay diễn ngâm trong các buổi nghệ.
Còn
đoạn dưới đây được trích trong sách báo dòng chính ở miền bắc.
Tôi
có người vợ trẻ
đẹp
như thơ
tuổi
chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
má
trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
ai
ra đi mà không từng bịn rịn?
rời
yêu thương nào đã mấy ai vui?
em
lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
tôi
mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
(Thơ
VN/Thế Kỷ XX/Thơ Trữ Tình/NXB Giáo Dục/2004)
Mạnh bước có vẻ không ăn khớp lắm với nghe
hồn nhỏ lệ. Dấn bước nghe hợp
hơn và hay hơn nhiều.
Đúng là 4 câu thơ cuối hơi lạc lõng, làm giảm giá trị của bài thơ. Giả sử ghép thêm các câu thơ sau đây thì có lẽ hợp cảnh hơn? "Người giam chí lớn vòng cơm áo; Kẻ dấn thân vào nợ nước mây" ( Nguyễn Bính) và "Người ra đi đầu không ngoảnh lại; Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" (Nguyễn Đình Thi) ???
Trả lờiXóa