Tiến sĩ Vũ Huy Trác (gia phả họ Vũ chép là Vũ Duy Trác) hiệu
Giác Trai, thuỵ Trung Thận, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1730 tại ấp Lộng Điền, huyện
Đại An, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Ông mất ngày 3 tháng 10 năm 1793.
Năm
Quý Dậu (1753) Vũ Huy Trác đỗ Tỉnh nguyên Hương cống. Năm Cảnh Hưng 33 đời Lê
Hiển Tông khoa Nhâm Thìn (1772) Vũ Huy Trác đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân. Làm quan đến chức Lễ bộ Tả thị lang (hàng tam phẩm) kiêm Quốc Tử giám Tư
nghiệp.
***
Sinh thời Vũ Huy Trác làm nhiều thơ phú, nhất là giai đoạn từ sau khi ông về sống ở quê nhưng không ghi lại thành tập nên ngày nay phần lớn đã bị thất lạc. Người học trò của ông là Nguyễn Văn Tường đã sưu tầm được 50 bài, chép lại đặt tên là Giang nam lão phố thi tập.
Thơ
Vũ Huy Trác bộc lộ tâm trạng yêu nước, thương dân, biết ơn công đức tiền nhân.
Ông khẳng định quan điểm sống của mình thật chí lý:
Vinh
vi ngưu mã thân tâm sỉ
Nhục tác thần tiên miếu tự truyền.
(Thế nhân)
(Vinh làm trâu ngựa thân thêm nhục
Nhục được dân thờ lại hoá vinh).
Nhục tác thần tiên miếu tự truyền.
(Thế nhân)
(Vinh làm trâu ngựa thân thêm nhục
Nhục được dân thờ lại hoá vinh).
Cuộc
đời ông đã hành động theo quan niệm sống ấy, tất cả vì dân. Bởi vậy, khi làm
quan cũng như khi về hưu, ông tự thấy mình “mái cỏ suy tư không vướng vít”,
“hành tàng đều không thẹn”.
Ông
viết một loạt bài về chủ đề danh nhân, di tích lịch sử của đất nước với thái độ
trân trọng, tự hào: Xuân nhật bái mộ tổ, Nhân quy ngoại tổ gia yết phúc thần miếu,
Hoà Lạc miếu, Hiến Nam Cần thôn Dương Hậu miếu, Nguyễn gia tam tướng, Hải Khẩu
tiên từ, Độc Cước từ sơn, Nham Sơn động, Tang lâm Thánh Mẫu từ, Dữ Từ Quán
Hoàng Tiến sĩ, Tạo sĩ công, Quá Phùng Vương từ, Triệu Vương miếu, Quá Phạm tổ từ,
Phạm công miếu, Đức Nhuệ công…
Trên
đường công cán, qua bến Kim Tông thuộc huyện Ý Yên, ông nhớ người họ Đặng thời
Trần từng có công bảo vệ và xây dựng vùng đất nơi đây qua bài Kim Tông cổ độ
(Kim Tông nơi bến sông xưa):
Trần mạt Đặng công vi sự quốc
Thiên sơn vạn thuỷ cảm ngôn nan
Phúc Thành ngự tặc tiêuNam
sử
Già cảng trừ Minh khứ vãn lan
Cổ độ trúc đê tồn tự miếu
Thuỷ thần thác tích ký từ nhan
Toán lai chí kim tứ bách tải
Tư đức hương yên bất cải quan.
Thiên sơn vạn thuỷ cảm ngôn nan
Phúc Thành ngự tặc tiêu
Già cảng trừ Minh khứ vãn lan
Cổ độ trúc đê tồn tự miếu
Thuỷ thần thác tích ký từ nhan
Toán lai chí kim tứ bách tải
Tư đức hương yên bất cải quan.
(Trần mạt Đặng công lo việc nước
Muôn sông ngàn núi chẳng từ nan.
Phúc Thành gặp giặc ghiNam
sử,
Cảng Thái trừ Minh lớp sóng buông.
Ngăn lũ đắp đê dân kể lại,
Thuỷ thần mượn bóng đặt tên đền.
Bốn trăm năm trải không thay đổi,
Nhang khói ơn sâu mãi mãi bền).
Muôn sông ngàn núi chẳng từ nan.
Phúc Thành gặp giặc ghi
Cảng Thái trừ Minh lớp sóng buông.
Ngăn lũ đắp đê dân kể lại,
Thuỷ thần mượn bóng đặt tên đền.
Bốn trăm năm trải không thay đổi,
Nhang khói ơn sâu mãi mãi bền).
Trước cảnh một số di tích ghi công các tiền
nhân bị bỏ hoang phế, ông lấy làm đau lòng, như bài Lê sơn Lý Đại Thành từ (Đền
thờ Lý Đại Thành ở núi Lê):
Mạc thời đại tướng trấn biên cương
Hải tặc văn thanh bất cảm đương
Cộng đạo Nam nhân sùng tiết nghĩa
Như hà hương hoả thái thê lương?
(Mạc tướng biên cương từng trấn giữ
Nghe danh giặc biển đã kinh hoàng
NgườiNam
vốn trọng điều ân nghĩa
Sao để nơi này lạnh khói hương?)
Hải tặc văn thanh bất cảm đương
Cộng đạo Nam nhân sùng tiết nghĩa
Như hà hương hoả thái thê lương?
(Mạc tướng biên cương từng trấn giữ
Nghe danh giặc biển đã kinh hoàng
Người
Sao để nơi này lạnh khói hương?)
Ông tỏ ra hài lòng trước việc nhân dân chăm
sóc nơi tưởng niệm danh nhân, hoặc nhắc nhở người sau phải nhớ công ơn của tiền
nhân. Trong bài Hoà Lạc miếu ông ca ngợi công tích đánh đuổi giặc phương Bắc dưới
thời Trần của hai anh em được thờ làm thành hoàng làng và nhắc nhở:
Ký ngữ Nguyễn, Lê thị
Phụng sự yếu tình thành.
(Nhắn lời cho Lê, Nguyễn
Thờ cúng phải chân thành).
Phụng sự yếu tình thành.
(Nhắn lời cho Lê, Nguyễn
Thờ cúng phải chân thành).
Do điều kiện lịch sử hạn chế, ông luôn tâm niệm
quan điểm "Tôi trung không thờ hai chúa", cuối đời còn luyến tiếc nhà
Lê:
Thân cư giang chi nam
Tâm tại giang chi bắc
Tâm tại giang chi bắc
(Giang nam lão phố.)
(Thân ở bên bờ nam
Tâm lại bên bờ bắc).
(Thân ở bên bờ nam
Tâm lại bên bờ bắc).
Ông thừa hiểu thời thế không thể đảo ngược
bánh xe lịch sử, nhưng ông vẫn canh cánh bên lòng nỗi luyến tiếc nhà Lê :
Lợi độn binh gia nan dĩ vọng
Quân thần nghĩa tụ huấn lương lân
(Tạc nhật)
Quân thần nghĩa tụ huấn lương lân
(Tạc nhật)
(Trông thắng việc binh không thể được,
Dựng cờ dấy nghĩa lại khó khăn).
Dựng cờ dấy nghĩa lại khó khăn).
Phong tiền trà cúc phô xuân sắc
Thế ngoại hương dân yếm cựu liêu
Thí bốc hồi kinh chân bất vọng
Ỷ lan song lý ức đan biều.
(Nhàn ngâm)
Thế ngoại hương dân yếm cựu liêu
Thí bốc hồi kinh chân bất vọng
Ỷ lan song lý ức đan biều.
(Nhàn ngâm)
(Trước gió cúc trà khoe sắc mới
Ngoài đời dân chúng chán vua quan
Về kinh ngày ấy dường không thể
Tựa cửa người xưa vẫn nhớ mong).
Ngoài đời dân chúng chán vua quan
Về kinh ngày ấy dường không thể
Tựa cửa người xưa vẫn nhớ mong).
Vũ
Huy Trác là một y sư có tiếng ở vùng đất Sơn Nam . Trong Giang nam lão phố thi tập
của ông có tới 18 bài thơ về các bài thuốc Nam . Ông rất trọng nghề y, coi người
làm cha làm mẹ biết nghề y là nhân từ, con cái biết nghề y là có hiếu:
Phụ mẫu tri y khả dĩ từ
Nữ nhi học dược hiếu tiên kỳ.
Nữ nhi học dược hiếu tiên kỳ.
(Cha mẹ biết y đáng gọi là từ
Con gái học y là điều đầu tiên của hiếu).
Con gái học y là điều đầu tiên của hiếu).
Ông
tuyển chọn những bài thuốc Nam
gia truyền đơn giản mà công hiệu, viết thành thơ (Tác dược phương thi) để dạy học
trò và cho nhân dân dễ nhớ:
Gia truyền kinh nghiệm vi thi tụng
Gia giảm tuỳ thời bất tận quy.
Gia giảm tuỳ thời bất tận quy.
(Đem
các phương gia truyền viết thành thơ cho dễ nhớ,
Gia giảm phải tuỳ thời mà vận dụng cũng không hết phép tắc).
Gia giảm phải tuỳ thời mà vận dụng cũng không hết phép tắc).
Một
số bài “thơ thuốc” của ông như Nông nhân tứ thời cảm mạo phương, Giải thử
phương, ẩm thực phúc thống phương, Ngược tật phương, Phong thấp tửu, Sang độc
gia truyền phương, Trần bì phương... thường ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc,
dễ thực hành mà hiệu nghiệm, rất thuận lợi cho dân nghèo. Chẳng hạn bài Trị xà
giảo phương (Phương thuốc chữa rắn cắn) là một trong số đó:
Xà giảo tầm thường chúng bất tri
Mã đề lộ thượng chính kham y
Địa dương khương thảo phù đao diệp
Khởi tử hồi sinh lập khả kỳ.
Mã đề lộ thượng chính kham y
Địa dương khương thảo phù đao diệp
Khởi tử hồi sinh lập khả kỳ.
(Rắn cắn tầm thường mấy kẻ hay
Mã đề trên lối đắp ăn ngay
Cỏ gừng, cỏ may, bồ cu vẽ
Khởi tử hồi sinh mới có ngày).
Mã đề trên lối đắp ăn ngay
Cỏ gừng, cỏ may, bồ cu vẽ
Khởi tử hồi sinh mới có ngày).
Hầu
hết các bài trong Giang nam lão phố là thơ Đường luật, chủ yếu là thất ngôn bát
cú và thất ngôn tứ tuyệt, còn ngũ ngôn bát cú chỉ có ba bài. Nói chung các bài
thơ Đường luật của “Thần phú Giác Trai” niêm luật chặt chẽ, đối chỉnh. Một vài
bài phá cách khá đẹp hoặc ở thể cổ phong phóng túng. Thơ Vũ Huy Trác ít dùng điển
cố, từ ngữ dễ hiểu, hình ảnh giản dị gần gũi với nhân dân, gây được cảm xúc thẩm
mỹ cho người đọc, đồng thời mang tính tư tưởng của tác giả rõ nét, như bài Giai
tiền thảo vịnh:
Trước thềm dải cỏ sinh
Mây tóc bốn mùa xanh
Củ rễ dưỡng da, phế
Xinh tươi đã rõ rành
Người nằm trên chiếu nghỉ
Thịt rượu dùng thường xuyên
Ngày một thêm già yếu
Vô tình việc nước non.
Mây tóc bốn mùa xanh
Củ rễ dưỡng da, phế
Xinh tươi đã rõ rành
Người nằm trên chiếu nghỉ
Thịt rượu dùng thường xuyên
Ngày một thêm già yếu
Vô tình việc nước non.
***
Đọc
Giang nam lão phố, phần nào ta hiểu được những suy tư tình cảm và tài năng văn
học của Tiến sĩ Vũ Huy Trác, một danh nhân của Nam Định địa linh nhân kiệt, tác
gia Hán Nôm tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu Bắc Hà thời Hậu Lê, ta thêm tự hào về
truyền thống cha ông. Đặc biệt, đối với bạn đọc yêu mến thơ Đường luật, Giang
nam lão phố thi tập là tài liệu tham khảo bổ ích.
Trần
Mỹ Giống
……….
Chú Thích:
Các trích dẫn thơ trong bài theo bản dịch
của nhóm Dương Văn Vượng, Trần Mỹ Giống, Hoàng Dương Chương.
Nguồn:
Newvietart.com = Vietvan Mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét