Nhà thơ Hải Như (trái) và ông Trần Xuân Bách |
“Làm văn học với tôi là một lựa chọn
“dấn thân”. Quan niệm của tôi: Nhà thơ không chỉ là pháp sư ngôn ngữ mà phải là
nhà tư tưởng.
Người làm thơ phải ý thức được quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ... Ngồi trước trang giấy nhà thơ không được quên đối tượng cần được thức tỉnh của mình bao gồm cả nhà cầm quyền”.
Với nhận thức vị trí nhà thơ trong nền văn học cách mạng, nhà thơ Hải Như ghi trong kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại như thế.
Mùa thu 2012 nhà thơ Hải Như từ Sài Gòn ra thăm quê Nam Định. Chúng tôi đã đến thăm và đề nghị nhà thơ cung cấp tư liệu, xin phép được công bố về tình bạn của nhà thơ với ông Trần Xuân Bách cùng một số bài thơ chưa công bố... Được Nhà thơ cho phép, Blog tranmygiong xin gởi tới bạn đọc bài viết dưới đây.
Người làm thơ phải ý thức được quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ... Ngồi trước trang giấy nhà thơ không được quên đối tượng cần được thức tỉnh của mình bao gồm cả nhà cầm quyền”.
Với nhận thức vị trí nhà thơ trong nền văn học cách mạng, nhà thơ Hải Như ghi trong kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại như thế.
Mùa thu 2012 nhà thơ Hải Như từ Sài Gòn ra thăm quê Nam Định. Chúng tôi đã đến thăm và đề nghị nhà thơ cung cấp tư liệu, xin phép được công bố về tình bạn của nhà thơ với ông Trần Xuân Bách cùng một số bài thơ chưa công bố... Được Nhà thơ cho phép, Blog tranmygiong xin gởi tới bạn đọc bài viết dưới đây.
Lịch
sử văn học Việt Nam
sau này, tôi nghĩ, không thể không ghi nhận giai thoại về tình bạn cao đẹp của
một nhà chính trị với một nhà thơ thời Cách mạng nước ta đang bước vào đổi mới
những năm 90 của thế kỷ 20. Đó là tình bạn tâm giao của chính khách Trần Xuân
Bách và nhà thơ Hải Như.
Trong
sáng tác văn học, nhà thơ Hải Như chủ trương “có bài sáng tác rồi nhưng chưa
công bố rộng rãi vội”. Theo nhà thơ, “trong kho dự trữ người cầm bút luôn nhớ
cần có sáng tác chưa công bố (inédit)”. Lần này, chúng tôi giới thiệu một số
bài chưa công bố của nhà thơ Hải Như về chủ đề Bảo tàng Hồ Chí Minh và tình bạn
với ông Trần Xuân Bách.
Theo
nhà thơ Hải Như thì sinh thời Hồ Chí Minh là người chống tệ sùng bái cá nhân.
Người không muốn các địa phương dựng tượng Người tràn lan như hiện nay khiến
thế hệ sau có thể hiểu không đúng về Người. Chúng ta không được quên trong di
chúc Người căn dặn Đảng, nhân dân trước lúc đi xa:
...“Sau khi tôi qua đời,
chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của
nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là "hỏa táng". Tôi mong rằng cách "hỏa táng" sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì "điện táng" càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ để nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão...” (Trích Di chúc của Hồ Chí Minh)
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là "hỏa táng". Tôi mong rằng cách "hỏa táng" sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì "điện táng" càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ để nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão...” (Trích Di chúc của Hồ Chí Minh)
Nhưng
khi Người ra đi, theo nhà thơ Hải Như, chúng ta đã không làm theo Di chúc của
Người. Chúng ta đã dựng Lăng Người, sau đó lại xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh
nguy nga đồ sộ.
Năm
1988 từ thành phố Hồ Chí Minh, nhà thơ Hải Như qua báo chí thấy công trường xây
dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh trong khi đào móng, dàn búa máy đã làm nghiêng có
nguy cơ đổ chùa Một Cột. Báo chí đã lên tiếng nhưng vô vọng. Nhà thơ đã viết
một bản kiến nghị gửi Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quốc hội, đề nghị ngừng
công trường xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh do “không hợp với tâm nguyện của
Người”, dành số tiền xây dựng bảo tàng cho một công trình phúc lợi toàn dân như
mạng máy nước thành phố Hà Nội năm đó đang bị hư hỏng nặng. Kiến nghị của Nhà
thơ Hải Như kèm theo bài thơ có tựa đề “Bài thơ chưa in báo”.
Bảo
tàng Hồ Chí Minh từ ngày thành lập đến nay đã “lộ rõ” sự không cần thiết phải
đồ sộ như vậy. Hiện vật chưng bày không nhiều và không hấp dẫn khách đến thăm.
Hội trường chỉ dùng cho thuê các hội nghị và tổ chức lễ cưới. Sân rộng lớn
thành bãi cho thuê đỗ xe. Không chỉ Bảo tàng Hồ Chí Minh mà các bảo tàng ở
thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương trên cả nước có kế hoạch xây dựng bằng
công quỹ quốc gia cũng trong tình trạng tương tự. Nhà thơ Hải Như, ngay từ năm
1988 của thế kỷ trước đã “báo động” về sự lãng phí công quỹ nhà nước của các
bảo tàng cả nước hôm nay...
Nguyên
văn bài thơ về Bảo tàng Hồ Chí Minh của Hải Như như sau:
BÀI
THƠ CHƯA IN BÁO
Hải
Như
“Chúng
ta đã lỡ làm lăng Bác...”
H.
NH.
Ra Hà Nội mùa xuân này anh
không dám vào nhà sàn thăm Bác
Nghe nói Người đang rất buồn
– vầng trán trĩu ưu tư
Có ai báo với Người: chùa Một
Cột do ảnh hưởng địa chấn – bị hư!
***
HỒ CHÍ MINH. Nhiều chúng ta
tưởng hiểu hết Người hóa ra chưa hiểu
Người từ chối mọi huân
chương. Ta đi xây dựng bảo tàng
Khi ra khỏi chiến tranh Bác
Hồ dặn lại dân sẽ gặp nghìn cái thiếu
Không gia đình nào Bắc cũng
như Nam
lại không gánh chịu một vành tang...
***
Ý Bác tức lòng dân. Người
vắng mặt đi xa. Lòng dân ta chưa hỏi
Xây dựng công trình ngoài ý
Bác đồng nghĩa với xúc phạm lòng dân
Đừng vin cớ vì Bác Hồ, Người
dân hiểu hơn hết Bác Hồ nhưng không nói
Dân tộc ta giờ này thiếu Bác
Hồ dân thấm thía nghìn năm!
***
Nhà sàn Bác Hồ được tôn thêm
nhờ đứng cạnh đóa sen hồng: chùa Một Cột
Hành trình Việt Nam vượt qua
bao ghềnh thác xuyên suốt 4000 năm
Chúng ta sẽ sai lầm nếu xếp
Bác Hồ đứng trên và đứng trước.
Chẳng phải ngẫu nhiên trước
ngày về giải phóng Thủ đô 54 – Người xin gặp các vua Hùng...
***
Hồ Chí Minh không bao giờ
nhận mình mới đâu. Và thật ra không mới!
Lẽ làm người từ NGUYỄN TRÃI
(luôn luôn Bác Hồ nhắc ta) đã có tự cha ông
“Chở thuyền là dân lật thuyền
cũng là dân” nhân loại năm 2000 càng thấy mới
Chúng ta vui có HỒ CHÍ MINH
góp với tinh hoa nhân loại giống Tiên Rồng.
***
Bảo tàng HỒ CHÍ MINH cần
không! Chắc em muốn hỏi anh. Lịch sử ngày mai cần lắm chứ!
Nhưng bảo tàng HỒ CHÍ MINH
quyết không giống mọi bảo tàng
Ngoài hiện vật duy nhất huyền
thoại “đôi dép lốp hành quân” mỗi người dân sẽ trở thành hiện vật.
Bảo tàng nằm trong lòng dân –
tết vòng nguyệt quế Nhân Quần...
(Sài
Gòn, ngày 2 tháng 3 năm 1988).
Bài
thơ đã trở thành “gạch nối” của quan hệ tình bạn giữa tác giả và Ủy viên Bộ
Chính trị Trần Xuân Bách – vị lãnh đạo thời đó đang nổi như cồn về thái độ
trọng thị các sĩ phu hai miền qua các diễn đàn.
Ba
tháng sau, trong chuyến ra Hà Nội nhà thơ Hải Như đã được đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Trần Xuân Bách tìm gặp. Đồng chí Trần Xuân
Bách nhận được bài thơ đã không trả lời nhà thơ qua Văn phòng Trung ương Đảng
mà trực tiếp “vi hành” vào ngõ Hòa Bình 5 đường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng –
Hà Nội khi nhà thơ vừa từ Sài Gòn ra, bởi – ông nói vui khi gặp Hải Như ở nhà
con trai nhà thơ – nhà báo Vũ Kỳ Anh: “Tôi muốn trực tiếp gặp một “cái đầu”của
xã Bái Dương. Tôi muốn diện kiến người cùng huyện làm thơ”. (Nhà thơ Hải Như và
chính khách Trần Xuân Bách đều quê ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, nhưng
chưa gặp nhau bao giờ). Đồng chí Trần Xuân Bách thông báo với Hải Như là Bộ
Chính trị hoan nghênh ý kiến đóng góp của nhà thơ Hải Như, nhưng không thể ngừng
công trình vì đã vào kế hoạch được Nhà nước phê duyệt. Trong suốt một giờ đồng
hồ gặp gỡ trao đổi cởi mở, ông Trần Xuân Bách tỏ ra rất vui và bảo là ông đã
gặp được một nhà thơ có tính trung thực thẳng thắn đòi hỏi cần có ở người cầm
bút chân chính mọi thời.
Trong
buổi gặp gỡ lần đầu giữa chính khách Trần Xuân Bách và nhà thơ Hải Như có một
kỷ niệm khó quên. Nhà thơ Hải Như hôm nay nhớ lại:
“Khi
Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách tới, tôi mời lên gác nhà con mình ngồi chờ
để mình pha nước đem lên mời khách. Sau khi nghe Trần Xuân Bách tự giới thiệu
thân mật, tôi nghĩ thầm: Mình từng được tiếp xúc các vị lãnh tụ như đồng chí
Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng... nhưng do các đồng chí đó cho thư ký
riêng đến nhà mời. Với Trần Xuân Bách, từ lâu tôi đã ngưỡng mộ. Giới trí thức
ngày ấy coi anh như một ngôi sao sáng trong bầu trời chính trị bắt đầu cởi mở
qua thái độ trân trọng các trí thức của anh.
Tỏ ra cởi mở ngay phút đầu gặp gỡ, tôi chủ động nói:
- Tôi thật sự bất ngờ! Xin cảm ơn Ủy viên Bộ Chính trị đã “vi hành” vào ngõ hẻm khi được tin tôi ở thành phố Hồ Chí Minh mới ra. Vừa rồi cháu gái nội tôi năm nay lên 9 tuổi khi nghe tôi nói có ông khách Trung ương đến nhà, cháu hồn nhiên hỏi: “Ông ơi! Ông ấy ở Trung ương sao lại không béo ạ? Con thấy trên ti vi ông nào ở Trung ương cũng bệ vệ cũng béo mà!” Tôi xin phép được nói lại với anh ý nghĩ của trẻ thơ.
Trần Xuân Bách rất vui đáp lại:
- Mình không béo à?
Tôi hỏi:
- Anh có biết giai thoại về nhà điêu khắc Thorwaldsen người Đan Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh không?
Trần Xuân Bách lắc đầu. Tôi xin phép được kể:
- Nhà điêu khắc Thorwaldsen người Đan Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh là những danh nhân nổi tiếng thế kỷ 19. Khi nhà thơ Lord Byron đến thăm xưởng của nhà điêu khắc Thorwaldsen, nhà điêu khắc xin được tạc tượng nhà thơ danh tiếng nước Anh để thể hiện ý tưởng và tư duy của nhà thơ mà ông khâm phục. Sau một giờ say sưa tạc tượng bán thân của thi hào Lord Byron, Thorwaldsen dừng tay xin nhà thơ cho biết cảm nhận về tác phẩm của mình. Nhà thơ Lord Byron nói: “Bạn không tạc tôi mà tạc một anh chàng yên ổn. Tôi không hề giống bức tượng này!”. Thorwaldsen phản ứng: “Có gì xấu nếu người ta sung sướng!”. Thi hào Lord Byron tái mặt đi vì tức giận: “Hạnh phúc và sự yên ổn khác nhau như đá hoa và đất sét. Chỉ những kẻ ngu và những người tâm hồn thấp kém mới tìm sự yên ổn trong thế kỷ còn nhiều bất công xã hội mà chúng ta đang sống này! Chẳng lẽ trên khuôn mặt tôi lại không có nét nào nói lên sự đắng cay, lòng can đảm và đau khổ của suy nghĩ ư?”. Thorwaldsen cúi đầu trả lời: “Ngài nói rất đúng! Con dao khắc đã phản tôi. Được gặp thi hào tôi vui quá nên con mắt tôi đã sai lệch.”
Nghe tôi kể xong câu chuyện, ông Trần Xuân Bách ôm lấy vai tôi:
- Hải Như, anh đã “minh họa” lời nhận xét của cháu nội anh về tôi một cách khá thú vị!
Trước khi ra về, ông Trần Xuân Bách ôm chặt tôi một lần nữa, xúc động nói:
- Hải Như ơi! Chúng ta bắt đầu trở thành tri kỷ!”
Tỏ ra cởi mở ngay phút đầu gặp gỡ, tôi chủ động nói:
- Tôi thật sự bất ngờ! Xin cảm ơn Ủy viên Bộ Chính trị đã “vi hành” vào ngõ hẻm khi được tin tôi ở thành phố Hồ Chí Minh mới ra. Vừa rồi cháu gái nội tôi năm nay lên 9 tuổi khi nghe tôi nói có ông khách Trung ương đến nhà, cháu hồn nhiên hỏi: “Ông ơi! Ông ấy ở Trung ương sao lại không béo ạ? Con thấy trên ti vi ông nào ở Trung ương cũng bệ vệ cũng béo mà!” Tôi xin phép được nói lại với anh ý nghĩ của trẻ thơ.
Trần Xuân Bách rất vui đáp lại:
- Mình không béo à?
Tôi hỏi:
- Anh có biết giai thoại về nhà điêu khắc Thorwaldsen người Đan Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh không?
Trần Xuân Bách lắc đầu. Tôi xin phép được kể:
- Nhà điêu khắc Thorwaldsen người Đan Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh là những danh nhân nổi tiếng thế kỷ 19. Khi nhà thơ Lord Byron đến thăm xưởng của nhà điêu khắc Thorwaldsen, nhà điêu khắc xin được tạc tượng nhà thơ danh tiếng nước Anh để thể hiện ý tưởng và tư duy của nhà thơ mà ông khâm phục. Sau một giờ say sưa tạc tượng bán thân của thi hào Lord Byron, Thorwaldsen dừng tay xin nhà thơ cho biết cảm nhận về tác phẩm của mình. Nhà thơ Lord Byron nói: “Bạn không tạc tôi mà tạc một anh chàng yên ổn. Tôi không hề giống bức tượng này!”. Thorwaldsen phản ứng: “Có gì xấu nếu người ta sung sướng!”. Thi hào Lord Byron tái mặt đi vì tức giận: “Hạnh phúc và sự yên ổn khác nhau như đá hoa và đất sét. Chỉ những kẻ ngu và những người tâm hồn thấp kém mới tìm sự yên ổn trong thế kỷ còn nhiều bất công xã hội mà chúng ta đang sống này! Chẳng lẽ trên khuôn mặt tôi lại không có nét nào nói lên sự đắng cay, lòng can đảm và đau khổ của suy nghĩ ư?”. Thorwaldsen cúi đầu trả lời: “Ngài nói rất đúng! Con dao khắc đã phản tôi. Được gặp thi hào tôi vui quá nên con mắt tôi đã sai lệch.”
Nghe tôi kể xong câu chuyện, ông Trần Xuân Bách ôm lấy vai tôi:
- Hải Như, anh đã “minh họa” lời nhận xét của cháu nội anh về tôi một cách khá thú vị!
Trước khi ra về, ông Trần Xuân Bách ôm chặt tôi một lần nữa, xúc động nói:
- Hải Như ơi! Chúng ta bắt đầu trở thành tri kỷ!”
Sau
buổi gặp gỡ này, không một lần nào vào Sài Gòn mà Trần Xuân Bách không cùng phu
nhân đến thăm nhà thơ Hải Như tại nhà riêng ở đường Nguyễn Hữu Cảnh, Quận 1.
Hai người đàm đạo tâm đầu ý hợp, cùng trăn trở về Di chúc của Bác Hồ không được
thực hiện, cùng chia sẻ về nhận thức xã hội, về văn học Cách mạng hiện trong
tình trạng như Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nhận xét là “Văn học phải đạo”.
Trước
khi bị kỷ luật Đảng, vào ngày Rằm tháng Giêng âm lịch (sau Tết Nguyên Đán)
1990, đồng chí Trần Xuân Bách vào Sài Gòn họp Bộ Chính trị đã tới số nhà 27H
đường Nguyễn Hữu Cảnh, Quận 1 thăm Nhà thơ Hải Như. Tại đây, nhà chính khách đã
đọc cho nhà thơ nghe bài thơ của mình làm và nhờ góp ý. Bài thơ như sau:
BÀI
THƠ KHAI BÚT 1990
Bách
Xuân
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương
Cố nhân chính trực đồng hương
nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói
dân
Lấy dân làm gốc phải nghe dân
Trí khôn thiên hạ không hề
thiếu
Chỉ sợ người ngu thích kẻ
đần!
Ngay
ngày hôm sau, nhà thơ Hải Như đã đến Nhà khách thành ủy T78 nơi nghỉ của đồng
chí Trần Xuân Bách góp ý với tác giả nên thay từ “người” ở câu “Chỉ sợ người
ngu thích kẻ đần!” bằng từ “mình”. Nhà chính khách Trần Xuân Bách tiếp thu ngay
nhưng lấy làm tiếc vì đã đọc cho nhiều trí thức ở Hà Nội và Sài Gòn chép cả
rồi.
Đồng
chí Trần Xuân Bách nhận thức sâu sắc rằng cuộc sống vốn đa nguyên, cách mạng
muốn thắng lợi phải đi con đường hợp quy luật. Ông từng nói: “Chúng ta đã thực
hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chinh trị, bước tới bằng
hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”. (Trích Hồi ký Làm báo của Tống Văn Công).
Chính tư tưởng đi trước thời đại này đã khiến ông “lâm nạn”. Ngày 27 – 3 - 1990
Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa 6 đã quyết định cách chức Ủy viên Bộ chính
trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí
Trần Xuân Bách. “Chỉ có hai ủy viên Bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn
Kiệt (thiểu số) cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, Trần Xuân Bách muốn
công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” thì đất nước mới phát triển...” (Trích Hồi
ký Làm báo của Tống Văn Công).
Nhiều
người không dám tiếp xúc với đồng chí Trần Xuân Bách khi ông lâm nạn vì sợ liên
quan. Nhưng với nhà thơ Hải Như, tình bạn giữa hai người – nhà làm chính trị và
nhà làm văn học coi như không có chuyện “cắt đứt”. Bạn bè can ngăn đừng đến
Trần Xuân Bách vội nhưng nhà thơ Hải Như vẫn cứ đến thăm bạn đang gặp hoạn nạn.
Trong Hồi ký Làm báo của Tống Văn Công có đoạn viết: “Mình biết, rất nhiều anh
nhờ anh Bách mà leo lên “quyền cao chức trọng”, nhưng sau khi anh bị kỷ luật,
suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thày cũ của họ đâu! Cũng đừng trách họ
hèn, bởi chúng ta phải sống “một thời vô luân” mà!”
Nhà thơ Hải Như kể: “Ngày 20 tháng 5 năm 2002 tôi viết bài thơ ngắn biểu dương người bạn đời của ông Trần Xuân Bách những năm dài sóng gió đã làm điểm tựa cho chồng...”. Nguyên văn bài thơ như sau:
TRẦN
XUÂN BÁCH
Chắc chắn lịch sử sau này sẽ
giành một trang về anh - khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai
đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi
nhưng còn cái được tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống
đời anh
Có một người đàn bà nguyện
làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão
(Chúng ta từng sống một thời
vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo)
Trần Xuân Bách. Anh là nạn
nhân và cũng là tác giả tội ác. Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con
chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm hồn vẫn sáng trong không
rũ buồn vì khép cánh
Từ Sài Gòn mỗi lần ra ghé
thăm – tôi vui làm nhân chứng Một tình yêu...
Hà
Nội – Trung Tự, ngày 20 tháng 5 năm 2002
Ông
Trần Xuân Bách không viết hồi ký mà làm thơ. Xin giới thiệu một bài thơ của
Bách Xuân Trần Xuân Bách do tác giả đọc cho nhà thơ Hải Như ghi:
TRONG MƠ GẶP CỤ
NGUYỄN DU
Một cơn giông chiều
Một đêm mưa đá
Có lạnh những tình yêu?
Có chân nào trượt ngã?
Bạn hỏi tôi vì sao
Nguồn thơ vẫn dạt dào
Khi tiếng sóng ồn ào
Khi trời giông sấm động
Vì lòng tôi không trống một
niềm tin!
Trong một giác mơ
Được tiếp chuyện nhà thơ
Cùng Nguyễn Du bất tử...!
Bên lành bên dữ
Phải chăng phân giới bởi
quyền uy?
Biết nói năng chi
Sau câu hỏi bất ngờ
Của nhà thơ
Thay cho câu trả lời
Tôi xin phép nhà thơ
Được sửa đôi dòng bất hủ:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
QUYỀN”
Cụ Nguyễn Du mỉm cười rơi
nước mắt
Ngâm câu kiều “lẩy”:
“Nợ đời chưa trả cho ai
Khối tình giữ trọn cho đời
chưa tan
Nỗi riêng không chút bàng
hoàng
Tình dân nghĩa nước vẹn toàn
trước sau
Thiện căn ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà
chi!”
Ôi giấc mơ thần kỳ
Một đêm mưa đá
Giữa bầu trời Thủ Đô...
(Hà Nội đêm 29 tháng 03
năm 1990)
Ngày
01 tháng 01 năm 2006 chính khách Trần Xuân Bách qua đời. Trên báo Nhân Dân có
bài đánh giá những cống hiến của Trần Xuân Bách trong hoạt động cách mạng. Cuối
cùng thì Trần Xuân Bách đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành
riêng cho các vị đại công thần của chế độ… Chưa phải là tất cả, nhưng như vậy,
người ta đã phải thừa nhận tư tưởng đổi mới đi trước của Trần Xuân Bách.
Từ
thành phố Sài Gòn, nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ vĩnh biệt nhà chính trị lỗi
lạc của Cách mạng Việt Nam,
một nhân cách lớn được giới sĩ phu mến mộ tài năng. Bài thơ này ghi trong sổ
tay của nhà thơ. Được nhà thơ nhân chuyến mùa thu (2012) về thăm quê Nam Định cho
phép, nay blog tranmygiong xin công bố rộng rãi:
VĨNH
BIỆT NGƯỜI BẠN CÙNG QUÊ
Hải Như
(Thay một nén nhang tưởng
niệm Bách Xuân – Trần Xuân Bách)
Ngồi trên ghế quyền lực cao
nhất Anh tìm đến ngõ Hòa Bình 5 đường Minh Khai gặp nhà thơ
Anh và tôi cùng huyện nhưng 2
vị trí khoảng cách xa nhau – chưa giáp mặt bao giờ
Tôi ngạc nhiên khi thấy Anh
lẫn trong đám đông và... không có 2 cằm(?)
Nghe tôi từ Sài Gòn ra Anh
tới thăm ngay để trả lời bài thơ gởi Trung Ương tôi kiến nghị
Ngừng xây dựng Bảo Tàng Hồ
Chí Minh nhường cho công trình phúc lợi Người dân
Có cả một văn phòng – có thư
ký riêng nhưng Anh đích thân “vi hành” vào ngõ hẻm
Tôi nhớ tới câu thơ hôm nào
Anh ghi tặng tôi:
“Bác Hồ là chúng ta khi chúng
ta thật sự là chúng ta...”
Ngày Anh đi xa trên báo Nhân
Dân bạn đọc thấy Những – gì – thuộc – về - Anh đều được trả lại
Tôi bỗng liên hệ đến có kẻ
nhất định đòi “treo cổ” Anh ngày ấy
Chẳng biết sẽ nghĩ gì khi cầm
tờ báo sáng xuân nay
TRẦN XUÂN BÁCH. Tôi biết Anh
“dám tin riêng mình đúng số đông sai” như câu thơ tôi viết về Kim Ngọc
Chúng ta từng nói với nhau:
Chân lý nằm trên mặt phẳng
Nhưng nhiều khi đến được Chân
lý con người bị “loạn thị” đã đi vòng...
(Sài
Gòn, ngày 6/1/2006)
H.
NH
Tình
bạn tâm giao giữa chính khách Trần Xuân Bách với Nhà thơ Hải Như đã trở thành
giai thoại của một thời Cách mạng gặp khúc quanh.
Thành Nam, 01 - 12 - 2012
TRẦN MỸ GIỐNG
TRẦN MỸ GIỐNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét