Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2022

TRAO ĐỔI VỀ BÀI THƠ “TÌNH YÊU KHÔNG LỜI” / Phạm Đức Nhì

 

 



MỘT KỊCH BẢN THƠ “XẠO”

Kịch Bản Thơ

Có một số bài thơ ngắn, đơn giản, bày tỏ một “mảnh nhỏ” tâm trạng của tác giả trước một khung cảnh, một tình huống nào đó của cuộc sống. Nhưng cũng có những bài thơ dài hơn, bề thế hơn, nói về một “nỗi lòng” phức tạp hơn, nhiều tình tiết hơn. Lúc ấy, bài thơ sẽ như một vở kịch đời và thi sĩ sẽ vừa là biên kịch vừa là đạo diễn, diễn viên… tất tật.



Vì là thơ nên tác giả sẽ dồn hết sự chú ý vào cảm xúc, những xao động của tâm hồn trước cảnh đời. Cảm xúc muốn có cơ hội phát triển, lớn mạnh cần nương theo dòng chảy của tứ thơ. Và tứ thơ muốn chảy đúng hướng cần phải dựa vào kịch bản của bài thơ.

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.

Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được.

Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Xin mời độc giả đọc bài thơ Tình Yêu Không Lời của Phạm Trung Dũng sau đây.


TÌNH YÊU KHÔNG LỜI

Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái nhành tim tím sang nhà em chơi
Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu...

Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi
Lặng yên... Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ.
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao thì cháy hết mình vẫn trao.

Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?
Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy, em ngồi lặng im.
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm.
Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ.

Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi.
                    (Phạm Trung Dũng)

Thật Hay Xạo?


Lần theo tứ thơ tôi đoán khoảng thời gian từ lúc cô gái đến thuê trọ cạnh nhà chàng trai cho đến khi có cuộc ân ái giữa hai người, ít nhất cũng phải mấy tháng (mấy mùa cây khế trổ hoa) và chàng trai hái hoa sang nhà thăm cô, ngồi uống trà với cô cũng vài ba lần. Thử hỏi từng ấy thời gian, từng ấy cơ hội tiếp xúc mà chàng trai không nhận ra cô gái câm điếc thì thật lạ lùng.


Rồi còn bà con lối xóm khác, ra vào trông thấy nhau hàng ngày, mà hàng mấy tháng trời, không ai nhận ra cái tật câm điếc của cô gái để loan truyền đến tai chàng trai thì quả là “lạ hết chỗ nói”.

 

Phải chờ đến khi hai người “tò tí” xong, đọc mẩu giấy nàng đưa, chàng trai mới biết được sự tình và ôm cô gái mà bàng hoàng thương cảm, thì thật không thể nào tin nổi.


Khi nhận ra chi tiết chính trong kịch bản của bài thơ không phải chỉ “không hợp tình hợp lý” mà còn xạo một cách trắng trợn, cảm xúc có được qua việc đọc thơ chỉ là thứ cảm xúc giả tạo, độc giả cảm thấy bẽ bàng vì bị xúc phạm. Bài thơ thất bại một cách ê chề.


Kết Luận


Gặp bài thơ như thế mà dám cầm bút viết lời bình thì cô giáo Diên Hồng Dương (trường Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh) quả là vô cùng can đảm. Người chuyển bài thơ và lời bình có đoạn giới thiệu rất bay bướm:


Nhiều người nói: “Phê bình nghệ thuật là cây Tầm Gửi sống nhờ cây Sáng Tạo. Tôi không nghĩ vậy. Theo tôi, phê bình nhiều lúc như gió nâng tác phẩm bay lên.”


Trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Bài thơ không những không bay lên mà còn kéo người bình thơ xuống hố.


      Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com

Cô Giáo Diên Hồng Dương Phản Biện




CÓ GÌ ĐÓ SAI SAI... TRONG BÀI PHÊ BÌNH "MỘT KỊCH BẢN THƠ XẠO"

Hôm nay là sinh nhật con gái tôi. Đang post ảnh, tình cờ lướt qua face book đọc được một bài bình khá thú vị của nhà phê bình Phạm Nhi. Vấn đề là bàn đến bài thơ của nhà thơ Phạm Trung Dũng và có liên quan đến một phần bài bình thơ của tôi cho tác phẩm rất hay: "Tình yêu không lời". 

 

Tôi xin phép anh Phạm Nhi cho tôi góp vài lời nhận xét. Nếu có chi không hài lòng mong anh bỏ qua. Chúng ta cùng nhau xác định: Góp ý là để tiến bộ cho việc cảm nhận văn chương trong sáng cả hai phía nhé!

Thứ nhất, tôi rất thích cách nói thẳng suy nghĩ của anh thể hiện ở tựa đề: "Một Kịch Bản Thơ Xạo". Tựa đề rất hút độc giả nha. Nếu ai đi qua mà không dừng lại thì đúng là vô cảm. Nó buộc người đọc phải tò mò đi vào bài viết và phải đọc đến hết bài xem kịch bản nào xạo? Tại sao xạo? Và xạo như vậy có hại ai không? 

 

Nhân nói chữ Xạo thì tôi cũng chợt nhớ Vũ Bằng. Ông có viết một quyển sách nói về nghề Văn và người viết Văn qua kinh nghiệm của mình: "Bốn Mươi Năm Nói Láo", không biết anh Phạm Nhi đã đọc quyển này chưa? Nếu nhìn chữ láo, hay xạo theo quan điểm của Vũ Bằng thì cũng không có gì quá đáng, bởi lẽ Vũ Bằng xem việc hư cấu trong nghệ thuật xét cho cùng là không giống y chang cuộc đời.

Thường một tác phẩm nghê thuật có giá trị cao bao giờ nó cũng gợi cho bạn đọc suy nghĩ, liên tưởng và có một cái nhìn đẹp và mở rộng về cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ mang lại cho người ta sự đơn điệu về vòng quay của thời gian 24h, hết ngày này qua ngày khác, hay đơn điệu về không gian theo kiểu đùa" Vân Tiên cõng mẹ trở ra... rồi cõng mẹ trở vô...", quanh quẩn đến chóng mặt... nên khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương (thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết về nỗi nhớ có câu:

" Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê"


Ba thu làm sao dọn lại trong một ngày? Thời gian này là thời gian phi lý tính, thời gian của tâm trạng, lấy ý từ một câu trong Kinh Thi: "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề". Hổng lẽ đọc Truyện Kiều đến đây, phán cho Nguyễn Du một câu là miêu tả xạo? Thơ vốn dĩ cô đọng, đâu cần phải nói chi tiết đến từng mi li mét để làm rõ tại sao tác giả viết thế này mà không viết thế kia cho logic.

Câu chuyện trong thơ cũng vậy, đâu phải nhất nhất phải theo kịch bản thực tế. Câu chuyện là cái cớ để bộc lộ tâm tình. Nó có thể hợp lý, có thể phi lý và lãng mạn đến bất thường vẫn chấp nhận được vì nó là nghệ thuật chứ không phải đời thực.

 

Xem tranh cách điệu hổng lẽ phán cho một câu: "Họa sĩ vẽ thiếu nét?" Xem một vở diễn trên sân khấu thấy diễn viên cầm cái roi mà bảo con ngựa không lẽ cho diễn viên bị tâm thần? Mọi sự quy ước nằm trong ý tưởng của nghệ thuật nhằm diễn tả một hiện thực cách điệu mang tính nhân văn đi kèm sắc thái biểu cảm có giá trị thẩm mỹ cao.

Quay trở lại "Tình yêu không lời" của Phạm Trung Dũng, những vấn đề mà nhà phê bình Phạm Nhi thắc mắc tôi thấy anh quá chi li và cảm nhận quá đơn giản theo kiểu máy móc của Toán học, một cộng một phải luôn bằng hai. Đó là sự áp đặt xúc phạm đến sáng tạo cá nhân của nhà thơ Phạm Trung Dũng.

 

Anh đã hiểu hết dụng ý người sáng tác chưa mà phán cho người ta là xạo? Bất kỳ ai khi họ viết một cái gì họ đều đủ trình độ phản biện những ai công kích họ. Tôi nghĩ về điều này nhà thơ Phạm Trung Dũng dư sức trả lời. Và cũng dễ trả lời bởi vì Phạm Trung Dũng rất giỏi về Lý luận văn chương.

  

Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo? Anh có chủ quan quá không vậy? Anh có nhớ một bài ca dao xưa: "Lổ mũi em mười tám gánh lông..." không? Trên đời có cái lổ mũi nào như vậy không? Vậy mà thơ cũng có vậy.

 

Chuyện yêu đương thi vị thì phải tạo cho chàng trai ở trọ cạnh nhà cô câm - sự ngờ nghệch, trong sáng đến phi lý để dẫn đến tình yêu lãng mạn là một thủ pháp vẽ mây nẩy trăng thôi. Nói vòng vo để tạo chất kịch tính, để thoát ly cái quy trình đời thường là chuyện thường thôi mà…
Thứ hai, anh cho rằng tôi dũng cảm khi bình bài thơ xạo là anh lại sai. Tôi yêu cái chất nhân văn của tình yêu không lời và tôi bình. Tôi hoàn toàn biết đó là kịch bản nghệ thuật mà anh. Và có lẽ anh không hiểu được nỗi khổ của người câm nên anh cho rằng bài thơ giống như chuyện yêu đương bình thường, chỉ khác chút nhân vật cô gái bị câm.

 

Tôi từng sống gần người câm một thời gian dài mà không biết họ câm. Tôi dạy ở nhà máy Việt Nam Mộc bài, gặp nhiều cô câm được nhận vào làm. Các cô chỉ cười không nói...  đến lúc sau này gọi đứng lên phát biểu thì mới bật ngửa... Họ không có tình yêu vì đâu có ai yêu người câm, dù họ rất đẹp, lại siêng nữa...

 

Nên khi đọc bài thơ, tôi xúc động ở tình cảm thánh thiện của chàng trai. Đưa một người ngố đến với một người câm, sự cách điệu nghệ thuật đã tạo ra một đôi lứa lý tưởng và hoàn hảo.

Vậy nên tôi vẫn khẳng định "Tình yêu không lời " là một bài thơ hay. Trong mắt anh Phạm Nhi có thể tôi bị sập hầm nhưng ngược lại trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai… về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ "Tình Yêu Không Lời."


Cảm ơn anh Phạm Nhi đã giúp tôi nhớ lại một bài thơ hay.

                         Diên Hồng Dương


Phạm Đức Nhì Trả Lời

 
LẠI BÀN VỀ KỊCH BẢN XẠO TRONG THƠ

Bài viết Một Kịch Bản Thơ "Xạo" - mới xuất xưởng được hơn nửa ngày thì tôi nhận được tin nhắn qua Messenger của cô giáo Diên Hồng Dương:

“Anh Nhi Pham kết bạn em đi rồi đọc bài phản hồi ạ. Cảm ơn anh. Có gì đừng buồn nha.”

Chưa biết bài phản hồi mạnh bạo đến cỡ nào, nhưng đọc tin nhắn lịch sự dễ thương như thế tôi đã có cảm tình. Sau khi đọc bài Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ ‘Xạo’” của cô giáo, tôi càng có cảm tình hơn vì thái độ hiền dịu, lời lẽ nhẹ nhàng, nhã nhặn, và đặc biệt, một tấm lòng yêu mến văn chương tha thiết.

Vì thế tôi viết bài này không để tranh biện thắng thua mà chỉ để làm rõ một số khác biệt trong cách nhận xét, đánh giá thơ ca giữa cô giáo và tôi. Và dĩ nhiên kết luận sau cùng sẽ là của độc giả.

Sự Xuất Hiện Của Kịch Bản

Đã làm thơ, khi chữ nghĩa cùng với cảm xúc tuôn ra, chúng phải “chảy” về một hướng nào đó, bằng một “con kênh” nào đó. Con kênh có thể có trước, cũng có thể xuất hiện cùng thời điểm lúc chữ nghĩa và cảm xúc tuôn ra. (Trường hợp sau thì thơ dễ có hồn hơn). Trong thực tế, ít ai từ lúc cầm bút viết những chữ đầu tiên của bài thơ cho đến khi buông bút là có “đứa con tinh thần” chào đời.

 

Có khi ngày hôm sau, tuần sau, nhiều trường hợp còn lâu hơn nữa, phải quay trở lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Lúc ấy, đoạn sau phải viết sao cho ăn khớp với đoạn trước và phải phù hợp với bức tranh toàn cảnh của bài thơ.

Có điều chắc chắn rằng khi bài thơ hoàn tất, cả thi sĩ và người đọc sẽ nhận ra – có thể độ hiển thị khác nhau - hình ảnh của con kênh đó. Đó chính là bố cục mà riêng tôi có khi gọi là thế trận chữ nghĩa, hoặc kịch bản của bài thơ. Để bạn đọc mới tiện theo dõi, tôi xin lập lại một đoạn trong bài viết trước:

Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.

 

Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch, điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được.

Nhưng đôi khi có những kịch bản bị xê dịch quá nhiều, đi đến chỗ không hợp tình, hợp lý. Độc giả sẽ cho rằng thi sĩ “xạo”, và bài thơ thất bại.

Một Số Trường Hợp Xạo Gần Giống Kịch Bản “Tình Yêu Không Lời”

Bài Học Đầu Cho Con

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ...

              (Đỗ Trung Quân)


Ngay ở đoạn đầu tác giả cho đứa bé hỏi mẹ 2 câu hỏi với giọng rất ngây thơ về một ý niệm khá trừu tượng: Quê hương.

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu?

và:

Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Người đọc có thể nhận ra ngay là nhà trường đã cố nhồi nhét quá sớm cái ý niệm “khó hiểu, khó cảm” ấy vào đầu óc ngây thơ của đứa bé mà không thành công. Vì thế đứa bé về nhà hỏi mẹ và người mẹ đã được tác giả nhờ cậy giải thích ý niệm về Quê Hương cho đứa bé.

 

Và bà đã giải thích rất hay, rất tuyệt. Dựa vào ngôn ngữ từ 2 câu hỏi tôi đoán đứa bé đang học một lớp nào đó ở bậc tiểu học. Như vậy lời giải thích của bà mẹ - rất hay, rất tuyệt ấy – có vẻ hơi cao, hơi xa so với tầm hiểu biết của đứa bé.

Nhưng nhìn lại cái tựa bài thơ thì tôi giật nẩy mình. “Bài Học Đầu Cho Con” - có nghĩa là đứa bé mới học bài học đầu tiên, mới vào lớp vỡ lòng, còn thấp hơn mẫu giáo một bậc.

Ở tuổi ấy làm sao có thể đặt một câu hỏi “nặng ký” như thế được. Rõ ràng câu hỏi của đứa bé đã được tác giả ngụy tạo một cách khá vụng về, và câu trả lời - tuy bà mẹ có thể đang nhìn thẳng vào mắt con để nói - đâu phải để giải thích cho đứa bé ngây thơ máu thịt của mình mà tâm hồn của bà đang nghĩ đến, nhắm đến những đối tượng khác, với mục đích khác.

Thơ là tiếng lòng, tiếng thổn thức của con tim mà ngay từ những giây phút ban đầu, từ cái tựa của bài thơ thi sĩ đã cho lý trí bước vào đạo diễn một kịch bản “ba xạo” thì thật là “không tâm lý” chút nào. Chắc người đọc có thể thấy ngay là cái tựa không thật đó đã kéo độ khả tín của bài thơ xuống gần mức Zero. (Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)

Chú thích

Tôi xin phép được lên tiếng “ca” cố nhạc sĩ Giáp Văn Thạch một câu. Khi phổ nhạc ông đã sáng suốt và tài tình bỏ cái tựa Bài Học Đầu Cho Con và bỏ luôn đoạn thơ có 2 câu hỏi của một “cụ non” nào đó mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã nặn ra để lấy cớ đưa vào bài thơ những bức tranh quê tuyệt đẹp.

 Bản nhạc phổ thơ của ông - với cái tựa Quê Hương – nghe “đã” hơn bài thơ gốc nhiều. 


Thư Cho Vợ Hiền

Nhạc sĩ Song Ngọc (trước năm 75) có sáng tác bản nhạc Thư Cho Vợ Hiền nói về tâm tình của một người lính VNCH – qua lá thư - gởi về người vợ ở một vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nỗi nhớ thương rất thật của người chồng, người cha khiến nhiều khán thính giả thời đó mủi lòng thương cảm. Nhưng trong lúc “điều chỉnh” nội dung câu chuyện của bản nhạc, nhạc sĩ đã đi quá lố khi ông viết:

“Còn nhớ con mình ngày đó tháng chưa tròn anh đặt tên chúng mình. Giờ con biết đọc hay chưa? Hay nhắc tên ba hoài để em nhớ thương thêm.”


Ở miền Nam lúc ấy ngoài địa phương quân, nghĩa quân – trú đóng ở địa phương, gần nhà, việc về phép thăm gia đình khá dễ dàng – còn có những đơn vị chủ lực – vùng hoạt động rộng lớn hơn, phép tắc cho binh sĩ hạn chế hơn (vì xa xôi, đi lại khó khăn).

 

Nhưng mỗi người lính, theo quy định, mỗi năm đều có phép thường niên – 7 ngày phép, 2 ngày đường. Ngoài ra, còn có phép thưởng, phép đặc biệt vào những dịp ốm đau, hiếu hỉ, tang chế trong gia đình. Cũng có khi vì chiến trận, hành quân, việc đi phép bị trì hoãn, nhưng sau đợt hành quân quyền lợi phép tắc của người lính lại được thực hiên.

Nhạc sĩ muốn kéo dài thời gian xa cách để nỗi nhớ thương thêm sâu nặng, bản nhạc thêm phần tha thiết. Nhưng từ lúc “tháng chưa tròn” cho đến khi “bìết đọc hay chưa?” dài khoảng 6, 7 năm – quá xa cách với thực tế. Ông đã mắc lỗi “xạo với khán thính giả”.

 

Nghe đến đoạn này một người bạn cùng đơn vị (với tôi) buột miệng nói đùa “Cũng may lão chỉ nói ‘biết đọc’ chứ nếu cũng vần ấy mà dùng chữ khác thì ‘bỏ mẹ’. Đúng là lão này muốn nâng bi chế độ mà nâng không khéo nên thành bóp dế.’” (Lời Bình Ngắn, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)


Cô giáo Diên Hồng Dương thấy đấy! Ngay cả những thi sĩ, nhạc sĩ nổi danh, nếu không cẩn thận, cũng mắc phải cái lỗi Xạo như nhà thơ Phạm Trung Dũng của chúng ta.

Về Bài Viết Của Diên Hồng Dương

Trở lại bài viết “Có Cái Gì Đó Sai Sai …” DHD, thể hiện chức năng cô giáo - chỉ ra rất nhiều điểm liên quan đến “kỹ thuật thơ” - đặc biệt trường hợp thi sĩ nói “khoa trương (thậm xưng)” không phải vì xạo mà vì thể hiện một biện pháp tu từ, một thủ pháp nghệ thuật nào đó.


“Khi sáng tạo nghệ thuật, người ta dùng các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, khoa trương (thậm xưng), nói giảm, ước lệ, tượng trưng... để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật”.

Sau đó cô giáo DHD đặt câu hỏi:


“Hà cớ gì anh Nhi lại xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục cho bài thơ anh Phạm Trung Dũng rồi bình là thời gian và tình tiết không hợp lý, nói nặng hơn là xạo ? Anh có chủ quan quá không vậy?”

Và đưa ra nhận xét:

“Trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai ... về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ”.

Trả Lời Câu Hỏi


Nhà thơ Phạm Trung Dũng, khi sáng tác Tình Yêu Không Lời, có toàn quyền sắp xếp bố cục bài thơ. Không ai, vì bất cứ lý do gì, có thể xía vào, xâm phạm cái quyền tự do ấy của anh. Nhưng khi bài thơ, bằng cách này hay cách khác, được ra mắt người đọc thì nó như một cô gái giữa chợ. Ông đi qua, bà đi lại đều có quyền ngắm nghía, buông lời bình phẩm.

 

Cô giáo Diên Hồng Dương thích bài thơ và đã viết một bài bình với những lời khen đầy ưu ái. Đó là quyền của cô giáo. Đến lượt tôi đọc bài thơ thấy ý chính của kịch bản thơ không hợp tình hợp lý - đến mức có thể nói là xạo – viết mấy lời nhận xét thì đó cũng là quyền của tôi.
Nhưng nhận xét của tôi đâu đã phải là kết luận chung cuộc. Tác giả hoặc những người đọc khác, nếu không đồng ý, có thể thoải mái nhảy ra lên tiếng. Cô giáo DHD chất vấn tôi, cho là tôi “chủ quan quá” khi “xâm phạm quyền tự do sắp xếp bố cục của bài thơ” là cô đã hơi bị sai – không, phải nói là sai rất lớn – vì đã không nắm vững điểm sơ đẳng nhất nhưng là then chốt trong mối tương quan giữa Sáng Tác và Phê Bình.


Có Thủ Pháp Ẩn Dụ, Thậm Xưng, Ước Lệ, Tượng Trưng Trong Bài Thơ TYKL?


Theo cô giáo DHD thì trong khá nhiều trường hợp, nói quá lố, nói xạo trong thơ không những không thể bị chê trách mà còn đáng được tuyên dương vì đã sử dụng một biện pháp tu từ nào đó “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật.” Tôi hoàn toàn đồng ý với cô giáo về điểm này.

 Nhưng hình như cô giáo đã quên chỉ ra cái biện pháp tu từ nào đó được sử dụng trong bài thơ Tình Yêu Không Lời để chứng minh luận điểm của mình. Báo hại tôi đã phải đọc lại bài thơ một cách chậm rãi hai lần nữa đễ tìm giùm cô giáo. Nhưng đáng buồn là tôi đã phí công vô ích.

Tôi hoàn toàn không thấy bóng dáng của ẩn dụ, thậm xưng, ước lệ, tượng trưng… trong bài thơ.


Tôi chỉ thấy đây là một bài thơ tự sự. Tác giả đã kể lại lớp lang mối tình lãng mạn của mình (đại danh từ Tôi) với cô gái câm điếc. Có điều khi tứ thơ đang tuôn chảy chàng đã vô tình để kịch bản của bài thơ xô lệch đến chỗ bất hợp tình hợp lý.

 
Cũng như cô giáo, tôi ngưỡng mộ cái lãng mạn, dễ thương của tứ thơ trong Tình Yêu Không Lời. Nhưng khác với cô giáo, kịch bản thơ xạo, với tôi, là một lỗi rất nặng của thi sĩ, làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều – và trong trường hợp này, bài thơ không những thất bại thảm hại mà lại còn ít nhiều có tính xúc phạm vì đã xạo một cách trắng trợn, xem thường người đọc.


Với Bài Học Đầu Cho Con, chỉ cần thay cái tựa (như nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã làm khi phổ nhạc bài thơ) là bóng dáng của chữ Xạo biến mất và bài thơ trở thành những bức tranh thơ tuyệt đẹp.

Với Thư Cho Vợ Hiền, chỉ cần thay chữ “đọc” bằng chữ “bò” hoặc quá lắm là chữ “chạy” thì chúng ta sẽ có một bản nhạc tình đằm thắm thiết tha.


Nhưng trường hợp Tình Yêu Không Lời thì khác. Nhà thơ Phạm Trung Dũng đã sử dụng gần như toàn bộ bài thơ (24 trên tổng số 26 câu) để tạo nên cái kịch bản xạo đó. Nó đã trở thành cái giá chống của bài thơ. Đụng đến cái giá chống đó bài thơ sẽ sụp đổ hoàn toàn.

Về Nhận Xét Của Cô Giáo

Cô giáo viết:

“Trong mắt tôi thì anh có vẻ ác cảm với bài thơ của Phạm Trung Dũng và nhận xét có gì sai sai… về cách viết của nhà thơ lẫn cô giáo phê bình cho bài thơ.”

Tôi không biết nhà thơ Phạm Trung Dũng là ai và bài thơ Tình Yêu Không Lời tôi chỉ được đọc mới đây qua bài viết của cô giáo. Sau khi đọc bài thơ, nhận ra cái kịch bản xạo trắng trợn của nó, tôi không có chút ấn tượng và nghĩ sớm muộn gì nó sẽ đi vào quên lãng.

 

Nhưng đọc lời bình rồi lại xem qua tiểu sử, học vấn và nghề nghiệp của cô giáo, tôi bắt đầu thấy… sợ. Một người có kiến thức rộng, được làm việc đúng chuyên môn lại hết lòng yêu thích văn chương như cô giáo mà lại lẫn lộn giữa sự giả trá bình thường và cách nói thậm xưng (khoa trương)  đầy nghệ thuật, rồi đem “vòng nguyệt quế” trao cho Tinh Yêu Không Lời thì nguy hiểm quá.

 

Càng nguy hiểm hơn nữa là cô giáo đã dùng khả năng diễn đạt và nhiệt tình của mình – qua bài bình - truyền cái sự lầm lẫn ấy cho lớp trẻ.


Đọc Một Kịch Bản Thơ “Xạo” của tôi trên FB, bạn Le Tran đã viết một bình luận như sau:

Đúng là một kịch bản thơ vụng về. Tác giả bài thơ cố ý gây 'bất ngờ" trong thi phẩm "cô gái câm" này nhưng hoàn toàn thất bại khi người đọc đã soi đôi mắt "chiếu yêu" vào câu chuyện tình. Cám ơn chú Nhi Pham đã vạch rõ chân tướng kỹ xảo 'đà đao' vô lối của bài thơ mà rất ít người đọc để ý.


Kết Luận


Khi cô giáo Diên Hồng Dương - người đã học ngữ văn tại Đại Học Sư Phạm TPHCM và giảng dạy tại CĐSP Tây Ninh – viết:

“Vậy nên tôi vẫn khẳng định Tình Yêu Không Lời là một bài thơ hay”

 tôi hiểu ngay đó không phải là lời phát biểu hời hợt, thiếu chín chắn. Cô đã có lý do, có chỗ dựa vững chắc nào đó, để tin như thế. Bởi vậy tôi xin dùng phần kết luận – cũng là mục đích của bài viết này - để nhắn với các bạn trẻ yêu thơ mấy lời tâm huyết.

Tôi có đứa cháu họ lấy phải thằng chồng “nói dối như cuội” lại có tính trăng hoa, có lần dan díu với người đàn bà khác bị vợ bắt gặp. Nó tâm sự: Cháu chán lắm, muốn bỏ ngay lập tức nhưng lại sợ khổ lây đến con cái. Rồi còn tài sản, công việc làm ăn đang thuận lợi…, chia tay là đổ xuống sông, xuống biển hết.

Bỏ rơi một bài thơ dở không nhiêu khê và đau đớn như cắt đứt một cuộc tình. Nếu bạn có đủ kiến thức để nhận biết bài thơ mình đã một thời hết lòng yêu mến là bài thơ dở, hãy mạnh dạn “nghỉ chơi” với nó.

 

Hãy dành chỗ trống trong tâm hồn – thường là có giới hạn - để chứa những bài thơ hay hơn, đẹp hơn, độc đáo hơn đang chờ bạn ở phía trước. Trình độ thưởng thức thơ của bạn qua mỗi lần “nghỉ chơi” như vậy sẽ được tăng tiến và tâm hồn bạn, nhờ thế, sẽ tự bay lên một tầm cao mới.

           Phạm Đức Nhì
    
nhidpham@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com

  

MỘT NĂM SAU

  

Thư Của Cô Giáo Diên Hồng Dương

Một năm đã trôi qua, đọc lại bài này, DHD thấy không khí tranh luận hồi ấy vui quá! Nếu đừng để sân si lấn sâu thì đâu có gì buồn phiền đâu phải không anh Phạm Nhì?

 

Bằng chứng là cho đến hôm nay, cô giáo DH, người hay làm trò khỉ khọn, hay cảm nhận thơ trên mạng vẫn là em gái được nhà phê bình Phạm Nhì gửi tài liệu cho đọc, cho học qua đám mây "Phê tê bóc" đều đều phải không ạ? kkkaaa...


Cảm ơn anh về thái độ hành xử rất đàn anh trong học thuật ạ.
Chúc nhà phê bình Nhi Pham luôn thăng hoa trong cảm hứng phê bình sáng tạo và luôn phát triển những nét rất riêng trong bút pháp phê bình của mình.


Rất trân trọng già làng "Phê tê bóc" ạ!

 

Diên Hồng Dương – Giáo Viên môn Văn Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh

  

 Thư Của Phạm Đức Nhì

 

Cô giáo Diên Hồng Dương thân mến,

Đọc hồi tưởng của cô giáo sau cuộc tranh luận về bài thơ Tình Yêu Không Lời rồi đọc lại cả 4 bài viết của anh em mình tôi thấy rất vui. Vui không phải vì chuyện đúng sai, phải trái; chuyện ấy đã có độc giả công tâm phán xét. Niềm vui của tôi là cái cách tranh luận và ngôn ngữ tranh luận của chúng ta.

 

Là người hăm hở bước vào bãi chiến trường và bắn phát súng đầu tiên mở đầu trận chiến nhưng cô giáo vẫn giữ được nét lịch sự trong cách đặt vấn đề và đặc biệt là ngôn ngữ tranh luận. Tôi đã đem lòng cảm mến cô giáo từ dạo ấy và đã cùng cô giáo tiếp tục “giao lưu” để cùng thăng tiến trong lãnh vực văn chương.

 Hôm nay nhận được một bình luận mới dưới bài viết cũ tôi lại càng quý mến và kính trọng cô giáo nhiều hơn. Cách hành xử của cô giáo như một nụ cười thân ái, giúp tôi mạnh dạn hơn khi bước vào các cuộc tranh luận văn chương.

Chúc cô giáo luôn vui khỏe và yêu đời.

       Phạm Đức Nhì

 

Cô Giáo Diên Hồng Dương Bình Thơ Phạm Trung Dũng


LỜI YÊU TRONG "TÌNH YÊU KHÔNG LỜI"

Lần đầu tiên đọc thơ anh, tôi may mắn gặp ngay đề tài mình thích. Đề tài này ít người viết, ấy vậy mà vẫn rất thơ trong cõi thiếu thơ.

"Tình yêu không lời” của nhà thơ Phạm Trung Dũng là một khúc hát đồng quê, gợi hương nồng nàn, tim tím màu hoa khế của một mối tình hy hữu. Ngay nhan đề “Tình yêu không lời” đã có sức gợi, kích thích sự tò mò, khám phá của người đọc về một nét mới, cách nhìn mới trong thơ tình: Khoảng lặng ngôn ngữ tình yêu giữa trùng trùng những lời nói có cánh, những ồn ào, sến sẩm khi đôi lứa bày tỏ cảm xúc trái tim trong những cung bậc âm thanh thơ nhạc.

Giao thoa với tự sự, bài thơ kể lại một kỷ niệm đẹp - mối tình trong sáng và thuần khiết của một chàng trai với cô hàng xóm dễ thương. Nàng ấy xuất hiện với nét đẹp của một cô gái không lời. Chính cái không lời, e ấp ban đầu là sức hút kỳ lạ đưa hai tâm hồn nên thơ tiếp cận, hữu duyên.

Câu chuyện thơ vào đề gợi nhớ môtip mở đầu của bài thơ "Cô hàng xóm" của Nguyễn Bính:

 "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn".

 

Nhưng ở đây hoàn cảnh khác, không gian khác, và cách xưng hô cũng khác, chỉ có cái hồn chung thú vị là dư ba ngọt ngào ngàn đời trong cách phối thanh của luật thơ lục bát:

"Em thuê trọ cạnh nhà tôi
Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa
Mấy mùa cây khế trổ hoa
Hái chùm tim tím sang nhà em chơi"

Em và tôi, tuy gần mà xa. Không gian đâu có ngăn cách vậy mà trong "tôi" có cảm nhận giữa hai người là hai thế giới. Em chân quê, quen thuộc với hương mộc mạc của đồng nội ướp trong hơi thở của gió làm "tôi" ngất ngây. Nhưng em thu mình lại trong một khoảnh trời. Và "tôi " chỉ cảm nhận được em qua hơi thở xa xôi, mang máng, mát lành như cơn gió chợt đến, chợt đi... rất mơ hồ!

 

Câu thơ

 

"Hương đồng gió thở khoảnh trời cách xa"

 

là câu thơ đẹp và lạ, minh chứng cho nguồn thơ lục bát của tác giả dồi dào. Đồng thời cho thấy thể thơ lục bát tuy cổ điển, nhưng vẫn mênh mông khoảng trời sáng tạo cho nhiều cung bậc cảm xúc của người đương đại.

Thơ Phạm Trung Dũng rất cô đọng. Chỉ mới đọc khổ đầu, độc giả đã có thể mở ra trong suy tưởng những hình ảnh, những ý tình sâu sắc.

 

Tình yêu là chuyện muôn đời nhưng nói về tình yêu, mỗi nhà thơ có điểm tựa riêng. Phạm Trung Dũng chọn điểm tựa mộc mạc, chân quê, gắn với mạch nguồn của dân tộc nhưng hồn thơ sắc sảo và hiện đại. Hình ảnh cây khế mấy mùa trổ hoa và "hái chùm tim tím" làm cớ sang chơi nhà nàng vừa cụ thể nhưng vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nó không chỉ gợi nhắc, khái quát tâm lý mà dân gian đúc kết: "Giả đò mua khế bán chanh...", mà còn cho thấy thời gian "em" đến thuê trọ vẫn chưa quá lâu:


 "Chanh chua thì khế cũng chua

Chanh chỉ một mùa, khế có cả ba".

 

Tâm lý của tình yêu thường bắt đầu bằng sự rụt rè. Tác giả cũng không ngoại lệ. Anh đã tạo một lực nén cho câu thơ và sức nén đó khiến người đọc thấy thú vị khi tiếp cận thơ Phạm Trung Dũng.


Bài thơ dẫn người đọc đi vào câu chuyện một cách tự nhiên, lời kể liền mạch theo cấu trúc lục bát:

 
"Em hào phóng ban nụ cười
Pha trà rót nước rồi ngồi lặng im.
Hồn tôi như mảnh trăng chìm
Bao lời thông thái nằm im trong đầu.”

Những từ "hào phóng", " thông thái" hoàn toàn là ngôn ngữ thành thị kết hợp với những cụm từ bình dị "pha trà rót nước", "nằm im trong đầu" rất hài hòa, có chút ngộ nghĩnh, phóng túng trong cách diễn đạt. Thế mà hay, cái hay của một hồn thơ không câu nệ, cũng không cần màu mè trang nhã để thi vị hóa tình yêu.

 

Bản chất tình yêu vốn đẹp. Và trong tình yêu, con người càng chân thật thì càng đẹp bởi cái đẹp là sự gắn kết hài hoà của Chân- thiện - mỹ. Điều thú vị chính là trong cách diễn đạt tự nhiên vẫn tồn tại những ánh trăng lung linh huyền ảo, ẩn sâu nhiều điều không lời.

 

Người đọc rất thích lối ví von: "Hồn tôi như mảnh trăng chìm". Hình tượng "mảnh trăng chìm" đẹp mong manh và tạo cảm giác "chới với" khi đắm mình trong biển tình. Còn hơn bị sét đánh. Nó khiến trái tim hoảng loạn đến nỗi mất luôn ngôn ngữ, mất sự thông thái. Và có lẽ chính sự im lặng đã tạo nên mối đồng cảm cho tình yêu của em? Câu chuyện tình dễ thương cứ hút người đọc. Và tiếp tục hấp dẫn cho đến khi tình huống bất ngờ xẩy ra trong không gian đặc nén, mọi việc tưởng như bế tắc:

"Một lần trời đổ mưa mau
Bỗng dưng em tới gục đầu vai tôi"

Hành động quá bất ngờ. Không chỉ nhân vật "anh" trong bài thơ, mà người đọc cũng thấy vậy. Cái tình cảm bùng lên như lửa rơm ấy liệu có bền được không? Sẽ dẫn đến đâu? Người con gái ấy sao hành động khác lạ vậy? Tình yêu và tình dục đôi khi rất khó phân biệt ranh giới. Nó vừa bản năng vừa lý trí; vừa thánh thiện vừa hoang dại. Tác giả đã mô tả khéo léo quy luật phát triển tâm lý cái phần "người" và phần "con" trong những câu thơ tiếp:

"Lặng yên. Cứ lặng yên thôi
Làn môi khoá chặt làn môi bất ngờ
Bồng bềnh nửa thực, nửa mơ
Cùng em lạc giữa mịt mờ phiêu linh
Sông mê - bến lú - thuyền tình
Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao".

Thơ mà cứ như tiểu thuyết! Rất hấp dẫn trong lối kể, cách tả. Tác giả dắt người đọc đi vào chuyện tình bằng những rung động hồn nhiên, chân thực và cuốn hút mạnh. Nếu cách đây một thế kỷ mà viết như vậy thế nào cũng bị người đời đóng cho con dấu: "Dâm thư". Nhưng đến thời điểm này mà kể chuyện yêu chỉ như vậy thì quá trong sáng, tế nhị.

 

Cách diễn đạt đẹp, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tác giả không tả những hình ảnh cụ thể mang vẻ đẹp nhục cảm của em mà người đọc cảm nhận em rất đẹp trong bài thơ rất đời, rất người qua các hình ảnh gợi rất sâu: "Làn môi khóa chặt làn môi", "bồng bềnh”, "Sông mê- bến lú- thuyền tình", "cháy hết mình"... Dường như ở đây có một chút "lạc trôi" trên sông mê, bến lú mất rồi...

Tôi thích câu: “Đã trao dẫu cháy hết mình vẫn trao" bởi nó mang ngữ điệu của một tính cách quyết liệt. Tình yêu thật sự là cháy bỏng, đam mê, trao dâng và bất chấp, dẫu biết thuyền tình chông chênh, đầy trắc trở trên bến lú sông mê nhưng nếu không cháy, không phiêu hết mình, có lẽ đó chỉ là nửa vời, sống không thật lòng với chính mình và với người yêu. Có thể bản năng con người khi yêu phải vậy, nhưng không hẳn, ai sống trong bản năng cũng biết cháy đúng nghĩa. Nhận phần “cháy” cho mình, quả là yêu đương thật mãnh liệt!


Sau cơn mưa tình ái, một khoảng lặng vô thanh xuất hiện. Cái nhu cầu được trao đổi bằng ngôn từ để sẻ chia, gắn kết trở nên hết sức cần thiết. Thế mà, chờ đợi mãi, em vẫn im lặng. Im lặng đến khó hiểu:


"Một lời chẳng nói là sao?
Một từ cũng chẳng... Lẽ nào, người ơi?"


Hai chữ "người ơi" chưa hẳn đã là trách móc, hờn dỗi. Nhưng khao khát đợi chờ được nghe, được xác tín thì đã rõ. Thật bất ngờ:


"Gương trăng nhoà nước mắt rơi
Đưa tôi mẩu giấy em ngồi lặng im
Hồn tôi lại mảnh trăng chìm
Lời vô nghĩa hết! Trái tim khóc thầm".

Bốn câu thơ chỉ 28 chữ mà chứa bao tâm trạng, cảm xúc như những đợt sóng ngầm trong tâm hồn hai trái tim yêu. Nó dẫn dắt người đọc từ cực này sang cực khác. Chưa kịp hiểu vì sao "em" khóc, lại phải đặt câu hỏi trong mẩu giấy ấy nàng viết gì mà chàng trai buồn đến vậy? Chẳng lẽ không có tình yêu? Chàng trai vừa khát khao được nghe "em" nói đến cháy lòng, đã chuyển sang khẳng định: "Lời vô nghĩa hết!". Sự diễn biến tâm lý mang đầy kịch tính: Thắt - mở, mở - thắt, được đẩy lên tới cao trào trước một sự thật nghiệt ngã, bất ngờ:

"Thương em vừa điếc lẫn câm
Tai ương từ tuổi mười lăm tới giờ".

"Tình yêu không lời" đã được lý giải, nhưng không dừng lại ở nhục cảm tầm thường. Hai câu vĩ thanh mới là điểm nhấn, thông điệp chính của bài thơ, giống như tiếng đàn Thạch Sanh vang lên hóa giải sự ngăn cách giữa tình yêu của người không lời và người nói được mà phải nghẹn lời bằng hai câu thơ đẹp và đằm sâu:

"Trần nhà cánh nhện buông tơ
Tôi ghì em giữa đôi bờ vai tôi".

Hình ảnh “Trần nhà cánh nhện buông tơ” vừa ước lệ, tượng trưng vừa phác họa một bức tranh tả thực của không gian tĩnh lặng. Cảm xúc tình yêu dâng lên tuyệt đỉnh trong giờ phút giao hoan là nước mắt. Tôi yêu những giọt nước mắt hạnh phúc của sự cho và nhận. Động từ "ghì" được tác giả sử dụng đúng chỗ, đúng thời điểm, vì vậy nó có sức lan toả, truyền cảm, tạo nên điểm sáng mang tính hài hoà, đồng điệu giữa tình yêu và lòng nhân ái.

Bằng chất liệu lục bát, ngôn từ giản dị mà tinh tế, "Tình yêu không lời" của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tính nhân văn, mở cho ta một góc nhìn sâu trong cuộc sống. Giữa vô vàn những cuộc tình có hương hoa sắc lá, có tiếng chim mê đắm của vườn xuân thánh thót, ta vẫn bắt gặp những tình yêu lạ và đẹp. Trong cái lặng thầm của thế giới không lời là cả một bầu trời vô ngôn đầy ắp thương yêu.

         Diên Hồng Dương

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét