Trần Ích Tắc (1253-1329) là Hoàng tử con vua Thái Tông Trần Cảnh, do bà Vũ Phi (Vũ Thị Vượng, quê Nam Định) sinh ra. Bà Vũ Thị Vượng là bà Phi thứ 5 của Thái Tông Trần Cảnh. Văn bia làng Miễu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cho ta biết thông tin rất quan trọng, mà sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) và các sách sử khác không thấy chép. Đó chính là thông tin có từ tấm bia ở miếu cổ làng Miễu, chép rằng bà Vũ Thị Vượng là người đã sinh ra Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Chưa có tư liệu về hành trạng Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, nhưng hai người con thứ Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật đều xứng đáng được xếp vào bậc thiên tài.
Sách ĐVSKTT chép việc Trần Ích Tắc đem cả
gia quyến chạy sang “hàng” nhà Nguyên, vào ngày 15.3 năm 1285, tức khi giặc
Nguyên Mông tấn công Đại Việt lần thứ 2. Tuy nhiên, theo Lê Quý Đôn, “một tài liệu lịch sử, cho dù có hoàn hảo đến
mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được”. Theo nghiên cứu của chúng
tôi, thì Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đã theo kế sách trá hàng, chạy sang hàng
ngũ quân Nguyên để trở thành nhà tình báo chiến lược vĩ đại. Điều này khá bất
ngờ, là bởi lâu nay người đời cứ tin tưởng vào sách vở, mà không hề biết thực tế
như thế nào. Số phận của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc không khác gì những nhà
tình báo chiến lược ngày nay. Họ phải hy sinh rất nhiều, đặc biệt là về tiếng
tăm, danh dự cá nhân.
Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng,
Trần Ích Tắc có công lao rất lớn, cực lớn với nhà Trần và với nước Đại Việt ta.
Những hiểu biết sai lầm của “người trần mắt thịt”, rồi sẽ được giải tỏa. Lịch sử
sẽ lại viết những trang tươi đẹp về cuộc đời nhân vật lịch sử Chiêu Quốc Vương
Trần Ích Tắc. Điều này tôi tin là chắc chắn!
Tác phẩm của Trần Ích Tắc còn thấy CÙNG CỰC
LẠC NGÂM TẬP (gồm 5 quyển). Lê Quý Đôn chép vào sách TOÀN VIỆT THI LỤC 15 bài.
Thế đủ biết rằng Lê Quý Đôn không hề tin rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là
“một tên phản quốc”, như những lời bình luận, cáo buộc của “người trần mắt thịt”
ngày nay!
Chúng tôi đã để khá nhiều thời gian để giải
mã cuộc đời Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc qua những biện giải, đối chiếu các tư
liệu lịch sử, để chứng minh rằng Trần Ích Tắc không phải là kẻ phản bội, tham sống
sợ chết mà đầu hàng giặc Nguyên Mông. Đặc biệt là việc nghiên cứu, giải mã hơn
chục bài thơ còn lại của Trần Ích Tắc, được học giả Lê Quý Đôn đưa vào sách
TOÀN VIỆT THI LỤC, một tác phẩm vô giá của Quế Đường tiên sinh.
Một
dân tộc mất thơ ca, là mất tất cả. Thơ phóng chiếu lịch sử chính xác nhất.
Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu nội dung và nghệ thuật thơ Trần Ích Tắc, để chứng
minh rằng, Trần Ích Tắc đã “diễn” trọn vai nhà tình báo chiến lược vĩ đại như
thế nào. Tấm lòng son chói sáng của ông với triều Trần và đất nước Đại Việt như
thế nào. Chính ông, bằng cách nào đó, đã góp phần khiến vua mới (Nguyên Thánh
Tông Thiết Mộc Nhi), cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, đã quyết định ban chiếu
bãi binh. Nước Đại Việt đã may mắn thoát khỏi một cuộc chiến tranh đẫm máu lần
thứ 4. Tâm trạng Trần Ích Tắc sung sướng như chưa bao giờ sung sướng đến như vậy.
Còn đây là bài thơ XUẤT QUỐC, xem như bản di chúc của Trần Ích Tắc để lại cho đời
sau. Chúng tôi xin phân tích đầy đủ cả bài, để bạn đọc suy ngẫm.
XUẤT QUỐC
Đương
niên trượng nghĩa xuất Nam bang,
Cảnh
cảnh đan trung đối bi thương.
Bất
vị Văn Công đào Tấn nạn,
Thử
ky Vi Tử kế Ân vương (vong).
Cơ
cừu vị mẫn tiên nhân chí,
Giản
sách ưng lưu vạn cổ phương.
Hoàn
vũ xa thư hội đồng nhật,
Cố
gia tông tự Việt sơn trường.
Dịch nghĩa:
RỜI ĐẤT NƯỚC
Năm đó, vì trọng nghĩa mà rời
khỏi nước Nam,
Tấc lòng son canh cánh (của
ta) chỉ trời xanh mới biết.
Chẳng phải (như) Văn Công bỏ
nhà Tấn lúc nguy nan,
(Mà) ngõ hầu (như) Vi Tử nối
dõi nhà Ân đã mất.
Chí nối nghiệp cũ của cha ông
vẫn không hề tiêu tan,
Nên để sử sách lưu lại tiếng
thơm ngàn đời.
Đến ngày bờ cõi thống nhất
cùng gặp gỡ,
Thì dòng dõi cha ông nối tiếp,
lâu bền như núi non nước Việt vậy!
Dịch thơ
Trọng
nghĩa, nên ta rời Đại Việt,
Trời
xanh mới biết tấm lòng son.
Chẳng
phải Văn Công rời Tấn quốc,
Mà
như Vi Tử muốn Ân còn.
Chí
nối nghiệp xưa luôn tạc dạ,
Tiếng
thơm truyền mãi sử không mòn.
Một
mai thống nhất giang sơn ấy,
Dòng
dõi cha ông vững Việt non.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Chỉ
cần hiểu kỹ nội dung bài thơ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người đọc ngày
nay mới có thể hiểu rõ tâm sự của ông, muốn nhắn gửi đến muôn đời sau sự thật về
cuộc đời phải hy sinh vì lợi ích lâu dài cho đất nước. Nếu hiểu được nội dung
bài thơ, chúng ta sẽ hiểu ngay rằng, Trần Ích Tắc không phải là kẻ “phản quốc”
như cái tiếng xấu ông phải mang vác nó, đeo đẳng nó theo suốt cuộc đời ông. Đó
chính là một sự hy sinh vĩ đại của một nhà tình báo chiến lược vĩ đại.
Mở
đầu bài thơ, Chiêu Quốc Vương viết:
Đương
niên trượng nghĩa xuất Nam bang,
Cảnh
cảnh đan trung đối bi thương.
Năm
ấy (đương niên), là vì trọng nghĩa (với triều Trần, đồng nghĩa với nước Đại Việt),
cho nên, ta mới phải rời Nam bang, tức nước Đại Việt của ta. Chứ đâu phải là ta
bỏ mặc quê nhà trong lúc nguy khốn mà chạy sang nương náu cửa người, để kiếm
chút lợi nhỏ. Tấm lòng trung nghĩa của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!
Đó là một sự khẳng định. Đương nhiên, đó
cũng là điều hết sức bí mật. Có lẽ, lúc bấy giờ chỉ có Thượng Hoàng Trần Thánh
Tông, vua Trần Nhân Tông, Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Thái sư Thượng
tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Tung, biết chuyện
này.
Lãnh
đạo triều Trần đã bí mật tổ chức một cuộc đào tẩu, trá hàng một cách tinh vi,
hoàn hảo đến mức ngoạn mục như vậy. Trong khi những nhà chép sử thì cứ vô tư
chép đại ý: “Trần Ích Tắc cực kỳ thông
minh. Ông tự cho mình là thông minh tài giỏi hơn tất cả các vị Hoàng tử nhà Trần.
Mới 14 tuổi, Ích Tắc đã được phong tước Chiêu Quốc Vương. Khi 15 tuổi đã muốn
được làm vua. Không thỏa chí thì sinh ra bất bình, bèn đem theo cả gia quyến, bỏ
nước chạy sang nhà Nguyên”. Đó là ngày 15-3-1285. Một cuộc tẩu thoát không
hề có ai ngăn chặn. Thế là sao?
Chuyện “năm ấy” là vậy. Nhưng tấm lòng “vì
nghĩa” lớn của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!
Tác
giả viết tiếp:
Bất
thị Văn Công đào Tấn nạn,
Thử
ky Vi Tử kế Ân vương (vong).
Thế
là sao? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nói rằng, ta không phải là kẻ như Văn
Công bỏ nhà Tấn trong lúc nguy nan đâu. Mà ta như ngài Vi Tử kia, muốn nối dõi
nhà Ân đã mất.
Rõ
là hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đời xưa, tình cảnh đối lập nhau. Tấn Văn
Công (697 TCN – 628 TCN), chính là công tử Trùng Nhĩ. Hồi nước Tấn loạn, các vị
công tử tranh đoạt ngôi báu. Công tử Trùng Nhĩ bèn đem theo một số tùy tùng bỏ
nước Tấn chạy sang lánh nạn ở nước ngoài. Được nước ngoài giúp đỡ, công tử
Trùng Nhĩ đem quân về giành được ngôi báu. Đó chính là Tấn Văn Công. Tấn Văn
Công là thế đấy. Nhưng ta tuyệt nhiên không phải như Tấn Văn Công, thấy nước
nguy nan mà bỏ nước ra đi, để sung sướng lấy một mình!
Ngược
lại, ta như ngài Vi Tử kia, muốn nhà Ân còn mãi, tức là ta muốn nhà Trần còn
mãi, cho nên phải bỏ nước ra đi, gánh vác nhiệm vụ mới vô cùng nặng nề và cũng
vô cùng nguy hiểm. Vậy Vi Tử là ai? Vi Tử, tức Cơ Tử (là anh của vua Trụ (có
sách nói là chú vua Trụ nhà Ân (Thương). Vua Trụ tàn ác lắm. Vi Tử khuyên can,
nhưng Trụ chẳng nghe, còn sai bắt Vi Tử giam vào ngục, chờ giết. Vi Tử phải giả
điên, mới thoát chết. Kịp khi Chu Vũ Vương diệt Trụ, Vi Tử không chết theo nhà
Ân. Ông nhận tước phong của Chu Vũ Vương. Vũ Vương cho Cơ Tử (Vi Tử) làm vua nước
Triều Tiên. Chính Vi Tử là người đem chữ Hán và văn hóa Trung Hoa truyền sang
Triều Tiên, tương tự như Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang truyền bá ở Giao Châu, mà
các nhà Nho nước ta tôn vinh Sĩ Nhiếp là NAM GIAO HỌC TỔ vậy.
Nhắc điển này, Trần Ích Tắc muốn nói điều
gì? Tất nhiên là ông muốn nói rằng, cái việc ra đi của ông là khác hẳn Tấn Văn
Công, chỉ muốn nhờ thế lực ngoại bang để quay về làm vua nước Đại Việt (Nam
bang) đâu! Ông muốn như Cơ Tử, xây dựng thế lực mới, mở rộng lãnh thổ nhà Trần
về phương Bắc. Vậy đấy. Trần ích tắc thông minh mưu lược như vậy, đương thời,
ngoài mấy vị lãnh đạo chủ chốt, thì ai biết? Các nhà chép sử nước ta, ai biết?
Họ cứ thấy hiện tượng như vậy thì chép như vậy, chứ đâu biết thực chất câu chuyện
bí mật kia nó như thế nào? Cũng không thể trách cứ được họ.
Thực tế thì sao? Với cương vị rất Cao mà Hốt
Tất Liệt trao cho ông (chức Hồ Quảng Bình chương Chính sự - Tể tướng) Trần Ích
Tắc đã cùng con trai của mình âm thầm xây dựng được một lực lượng quân sự hùng
mạnh, chủ yếu là người Bách Việt. thuộc Lưỡng Quảng ngày nay. Nhà Nguyên suy yếu
dần. Một số thế lực mới nổi dậy tranh giành đất đai, ai cũng muốn làm chủ Trung
Nguyên. Nhà Nguyên phải rút chạy lên phía bắc, thành lập nhà Bắc Nguyên. Vùng
Trung Nguyên chỉ còn ba thế lực tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau.
Thế
lực của Trần Hữu Lượng mạnh mẽ nhất. Ông lấy quốc hiệu là Đại Hán, treo cờ Hán.
Lực lượng quân đội có tới sáu bảy chục vạn tinh binh, chiếm lĩnh phủ Thái Bình
(Quảng Tây) và cả vùng trung lưu sông Trường Giang. Sau đó là thế lực của Chu
Nguyên Chương. Còn lại là Trương Sĩ Thành. Tình thế chiến cuộc giống như thời
Tam Quốc vậy. Có tài liệu Trung Quốc chép rằng Trần Hữu Lượng không phải là con
trai Trần Ích Tắc. Nhưng đó chỉ là tài liệu ngụy tạo mà người Trung Quốc muốn
làm méo mó sự thật lịch sử mà thôi. Cái mẹo “khôn khéo” này, người Trung Quốc vốn
là bậc thầy. Thế nên, các thế hệ người Việt bị lừa bịp, hoang mang, nghi ngờ. Họ
lừa bịp cả thế giới, chứ chả phải chỉ mấy anh người Việt hiền lành chất phác
đâu!
Ví thử nếu muốn trở về Đại Việt chiếm lấy
ngôi vua, Trần Hữu Lượng (con trai Trần Ích Tắc – ĐVSKTT) với sáu bảy chục vạn
tinh binh, thủy quân gồm nhiều hạm đội lớn, thì việc đoạt lấy ngai vàng nhà Trần,
bấy giờ là Vua Trần Dụ Tông hèn kém, chắc dễ như trở bàn tay. Nhưng mà, “Ta chẳng
phải như Tấn Văn Công” hèn hạ thế đâu! Nhưng trời không giúp Trần Hữu Lượng.
Chu Nguyên Chương lực lượng chỉ bằng một phần ba Trần Hữu Lượng, nhưng nhờ có
quân sư lưu Bá Ôn rất giỏi mưu lược, cuối cùng, Chu Nguyên Chương đã chiến thắng.
Lưu Bá Ôn tài năng chả kém gì Khổng Minh, đã dùng kế hỏa công đánh bại hạm đội
hùng hậu của Trần Hữu Lượng trong trận quyết chiến chiến lược trên hồ Bà Dương.
Bị một mũi tên lạc trúng vào đầu, Trần Hữu Lượng hy sinh tại trận. Quân sĩ mất
vua, mất tướng chỉ huy, tan rã sau hơn hai tháng chiến đấu quyết liệt trên hồ
Bà Dương, còn gọi là hồ Bành Lãi, thông ra sông Trường Giang.
Chu
Nguyên Chương sau đó tiếp tục đánh bại Trương Sĩ Thành, thống nhất thiên hạ, lập
ra nhà Đại Minh. Ví thử, Trần Hữu Lượng chiến thắng trong trận quyết chiến chiến
lược trên hồ Bà Dương, thì làm gì còn có nhà Minh nữa? Đất đai nhà Trần sẽ rộng
lớn thế nào? Chẳng phải là không thua kém gì sự nghiệp của Triệu Vũ Đế, vua nước
Nam Việt hay sao?
Chiêu
Quốc Vương khẳng định:
Chí
nối nghiệp cũ cha ông (của ta) vẫn không hề tiêu tan,
Nên
để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.
Và
Chiêu Quốc Vương mơ ước cái ngày thắng lợi:
Đến
ngày bờ cõi thống nhất, (chúng ta) cùng gặp gỡ,
Thì dòng dõi (cha ông) nối tiếp,
lâu bền như núi non nước Việt vậy!
Một
niềm tin tưởng sáng tươi!
Bài
thơ XUẤT QUỐC của Chiêu Quốc Vương như một di cảo vô giá, để lại tâm sự và ước
nguyện của ông cho đời sau. Những văn bản đã được viết ra ở mọi thể loại, mọi
thời đại sau, đều chỉ là những điều trông thấy, những điều nghĩ của những người
ngoài cuộc. Thực chất của vấn đề là ở phía sau hiện tượng trông thấy cho một kịch
bản trà trộn vào đối phương, leo cao chui sâu để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng
quan trọng. Con cháu đời sau như chúng ta, cần phải tỉnh táo, suy ngẫm cho thấu
đáo, không phải chỉ để vén lên bức màn huyền bí của lịch sử, mà còn chiêu tuyết
cho một nhân vật lịch sử, một người con anh hùng của đất nước phải cam lòng
gánh chịu oan khuất mấy trăm năm.
TRIỀU TRẦN VÀ CHIẾN LƯỢC TÌNH BÁO
Một
nhà quân sự bình thường, ít nhất, ai cũng phải hiểu câu “Biết địch biết ta,
trăm trận trăm thắng”!
Để làm rõ thêm nội dung bài thơ XUẤT QUỐC của
Trần Ích Tắc, chúng tôi xin nêu thêm một số lý do cụ thể:
1
Ngay từ cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ
lần thứ nhất, triều Trần, dưới sự lãnh đạo tài giỏi của tầng lớp quý tộc tinh
hoa, đứng đầu là Thống soái tối cao Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ (1194 - 1264).
Triều đình đã nhân việc Mông Cổ yêu sách An Nam (Đại Việt) 6 điều, trong đó có
yêu sách triều Trần phải đưa Thái tử sang Mông Cổ làm con tin. Nhân việc này,
triều Trần đã tiến hành tổ chức đoàn tình báo chiến lược đầu tiên.
Trần
Thủ Độ là cháu ngoại của nhà Hậu Lý. Cha ông là Trần Thủ Huy, Phò Mã nhà Lý. Mẹ
ông là công chúa Đoan Nghi. Trần Thủ Độ được sinh ra trên đất khách, ở một bến
đò, cho nên ông được cha mẹ đặt tên là ĐỘ (bến đò). Ông lớn lên ở Mông Cổ, chơi
rất thân với Ngột Lương Hợp Thai, viên Thái sư Mông Cổ sau này đã đem quân xâm
lược Đại Việt năm 1258. Quân Mông Cổ bị bao vây ở Thăng Long. Ngột Lương Hợp
Thai phải viết thư nhờ Trần Thủ Độ nể tình xưa nghĩa cũ, mở vòng vây, cho phép
quân Mông Cổ được rút khỏi Thăng Long an toàn. Trần Thủ Độ, bấy giờ là Thống
soái tối cao, đã bàn bạc với triều đình, để tránh việc vì tình cảm riêng mà coi
nhẹ việc nước. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Đại Việt đã quyết định chấp nhận đầu
hàng, mở vòng vây để quân Mông Cổ được về nước trong an toàn và danh dự.
Cuộc
kháng cự của quân Mông Cổ chỉ diễn ra được vẻn vẹn trong vòng 1 tháng, đúng như
Thái sư Trần Thủ Độ đã nói với vua và triều đình. Bởi chính ông đã nắm chắc phần
thắng trong tay. Thế là sao? Là vì ông đã sống trên đất Mông Cổ, đã hiểu biết rất
rõ Mông Cổ về mọi mặt. Ông phát hiện, chỉ ra chỗ yếu, chỗ mạnh của quân Mông Cổ.
Họ rất mạnh về kỵ binh. Lính kỵ binh Mông Cổ vô địch trên các chiến trường bằng
phẳng. Họ còn chế ra máy bắn đá để công thành. Họ đánh bại cả châu Âu, châu Á.
Họ đang gặm nhấm con mồi to béo nhưng rất yếu ớt là nhà Tống. Nhưng họ thất thế
trên chiến trường đồng lầy, nhiều sông ngòi và lam chướng ở Đại Việt. Kỵ binh họ
sẽ không phát huy được tác dụng. Ta không xây thành trì vững bền, cho nên máy bắn
đá của họ cho dù rất ghê gớm, nhưng cũng chẳng để làm gì. Thành trì của ta là
lòng dân, là làng xóm phân tán. Chỉ trong khoảng một tháng, quân Mông Cổ nhất định
sẽ bị đánh tan. Đó chính là chỉ đạo của Thái sư Trần Thủ Độ với các quan chức
triều Trần, phần đông đều là con cháu của ông cả.
Chẳng
thế mà khi quân Mông Cổ tiến như vũ bão, quân Trần rút lui chiến lược, phải bỏ
lại Thăng Long. Vua Trần chèo thuyền đến hỏi ý kiến Trần Nhật Hạo, ông này sợ
vãi đái, miệng méo không nói được, phải chấm ngón tay vào nước viết lên mạn
thuyền hai chữ “Nhập Tống”, nghĩa là chạy sang nước Tống. Thất vọng quá, vua Trần
Cảnh lại chèo thuyền đến hỏi ý kiến Thái sư, rằng nên hàng hay nên đánh? Trần
Thủ Độ, Thống soái tối cao bình tĩnh trả lời, rằng “ĐẦU TÔI CHƯA RƠI XUỐNG ĐẤT,
XIN BỆ HẠ ĐỪNG LO”. Đấy, không biết địch biết ta, không có tầm nhìn chiến lược
rộng lớn, không có ý chí quyết thắng, thì tại sao Trần Thủ Độ lại có niềm tin
chắc thắng như vậy! Sử ta chép “Trần Thủ
Độ ít học, nhưng là người mưu lược”, là bởi các vị ấy không biết gì nhiều về
nhân vật vĩ đại này. Họ chỉ biết Trần Thủ Độ là dân đánh cá ở Hải Ấp, Thái
Bình, cháu Trần Lý. Họ đâu biết Trần Thủ Độ là cháu ngoại nhà Lý, nhà quân sự
và chính trị đại tài, chuyên gia hàng đầu về Mông Cổ!
Quả nhiên, sự thật cuộc chiến đã diễn ra
như kế hoạch tác chiến. Chỉ đáng tiếc một điều là ông Thái úy Trần Nhật Hạo đã
không tuân lệnh của Tiết Chế Trần Quốc Tuấn. Trần Nhật Hạo đã đem quân tinh nhuệ
đối đầu trực tiếp với quân Mông Cổ trên cánh đồng Văn (Vĩnh Phúc), bị quân Mông
Cổ đánh cho tơi tả. Ba bốn hiệu quân tinh nhuệ do Trần Nhật Hạo chỉ huy gần như
bị quân Mông Cổ tiêu diệt.
Chính
sử nước ta chỉ biết về giai đoạn Trần Thủ Độ ở với Trần Lý trở về sau, chứ các
nhà chép sử không hề có thông tin gì về Trần Thủ Độ trước đó. Cha ông (Trần Thủ
Huy) giận nhà Lý đối xử với ông quá tệ bạc. Triều Lý sau đó đã hối hận, cử sứ
đoàn sang mời vợ chồng Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi về nước. Trần Thủ
Huy cho vợ con về, còn ông ở lại Mông Cổ. Bà Đoan Nghi trên đường về quê hương
xa vạn dặm, rất gian khổ, nên ốm chết dọc đường. Trần Thủ Độ theo sứ đoàn nhà
Lý về nước. Không còn mẹ, lại không có cha, cho nên Thủ Độ phải ở với Trần Lý.
Lại
nói về cụm tình báo chiến lược đầu tiên ở triều Trần.
Triều
Trần đã dùng kế “tát nước theo mưa”, để tổ chức đoàn tình báo chiến lược đầu
tiên (1258). Đoàn người hộ tống “Thái tử” Đại Việt sang Mông Cổ gồm 55 người cả
thảy, đứng đầu là Hoàng tử, con trưởng của Thái Tông Trần Cảnh là Uy Vũ Vương
Trần Nhật Duy và hai nhân vật không thể thiếu, đó là bà công chúa Trần Ý Ninh
(vợ Nhật Duy) và ông Vũ Sơn Hầu Tạ Quốc Ninh, bộ óc tuyệt hảo, cố vấn của “cống
đoàn”. Tạ Quốc Ninh quê Sơn Tây, được ban tước Hầu, chức Thượng tướng quân (cao
hơn Đại tướng), hàm Thái tử Thiếu bảo, Hiệp Biện Đại học sĩ, Đồng Tri Khu mật
viện. Ông vừa là cố vấn, vừa tranh thủ dạy tiếng Mông Cổ, tiếng Hán cho các
thành viên trong đoàn.
Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy là con trưởng của
Trần Cảnh, do bà Tuyên Phi Mai Đông Hoa, quê ở làng Thụy Khuê, Tây Hồ sinh ra.
Nhật Duy bằng tuổi Trần Quốc Khang, do Thuận Thiên Hoàng hậu sinh ra. Nhưng Quốc
Khang thực chất là con Trần Liễu (anh trai Trần Cảnh). Vậy nên, Trần Quốc Khang
chỉ được phong tước Đại Vương. Trần Nhật Duy được thay Thái tử Hoảng (Trần
Thánh Tông) sang Mông Cổ làm con tin, vừa hợp lý, thuận tình. Mông Cổ không bắt
bẻ được.
Nhật
Duy là Hoàng tử rất thông minh tài giỏi. Lại thêm có sự giúp đỡ của cố vấn Tạ
Quốc Ninh và người bạn đời là công chúa Trần Ý Ninh. Đoàn người theo giúp Trần
Nhật Duy đã hoàn thành nhiệm vụ tình báo chiến lược xuất sắc, vô cùng xuất sắc,
mà Thái sư Trần Thủ Độ, vua Trần Cảnh và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đã giao cho. Đó chính là nhiệm vụ thăm dò, chia rẽ nội bộ Hoàng tộc
Mông Cổ, khiến họ nghi ngờ nhau, đánh nhau, càng lâu càng tốt. Đồng thời, phải
giúp nhà Tống đánh nhau với Mông Cổ càng lâu càng tốt. Để làm gì? Để họ không
có thời gian rảnh rỗi suy nghĩ đến việc đem quân trả thù nước Đại Việt dưới triều
Trần chứ sao! Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy và các cộng sự, đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ đặc biệt khó khăn của mình. Thực tế, Mông Kha Đại Hãn đã nghi ngờ Hốt
Tất Liệt. Họ đấu đá sống mái với nhau suốt nhiều năm. Thực tế thì nước Đại Việt
ta đã có khoảng 30 năm yên ổn để ra sức củng cố lực lượng, xây dựng đất nước vững
mạnh, để có thể sẵn sàng đương đầu với quân xâm lược Mông Cổ lần thứ 2, thứ 3
và có thể là lần thứ 4 nữa. Tuy nhiên, chính sử nước ta không thấy chép câu nào
về Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy cả. Tất nhiên rồi!
Trên
đường đi, bà Trần Ý Ninh đã sinh ra một người con trai rất anh dũng, tài giỏi,
đó chính là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Trần Quốc Toản được cha mẹ đưa về nước,
khi nhà Tống đã bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt. Một số quý tộc nhà Triệu Tống, trong
đó có Hoàng tử nhà Triệu Tống và cô em gái, công chúa Triệu Ngọc Hoa, đã chạy
sang nương nhờ Đại Việt. Đoàn người nhà Tống đã được Chiêu Văn Vương Trần Nhật
Duật, tướng chỉ huy trấn giữ vùng biên cương phía Bắc thu nạp. Trần Quốc Toản nằm
trong biên chế của đội quân do Trần Nhật Duật chỉ huy. Và cơ duyên trời định,
cô công chúa nhà Triệu Tống là Triệu Ngọc Hoa đã trở thành vợ Hoài Văn Hầu Trần
Quốc Toản.
Hoài
Văn Hầu Trần Quốc Toản lại kế nghiệp cha làm tình báo chiến lược. Ông được lãnh
đạo nhà Trần tổ chức bí mật sang nhà Nguyên, giúp Tống. Sử nhà Nguyên chép việc
Trần Quốc Toản cùng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đánh nhau với tướng Trương Văn
Hổ ở vùng cửa biển An Bang, khi Trương Văn Hổ quay lại với ý đồ cướp lại số
lương thảo đã bị Trần Khánh Dư tịch thu trước đó. Sử Nguyên chép rằng Trần Quốc
Toản bị thương nặng và mất tích. Thế thôi. Còn như về sau thì họ cũng không biết
gì để chép thêm. Sử nước ta thì chép rằng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản hy sinh
trên trận tuyến sông Cầu (Như Nguyệt), khi ông mới 18 tuổi. Thực tế thì, viên
tướng hy sinh trên trận tuyến Như Nguyệt lại là một viên tướng trẻ khác, thuộc
tôn thất nhà Trần…
Những
tư liệu tôi vừa nói đây, là nguồn từ sách ĐÔNG A DI SỰ, do bà Huệ Túc Phu Nhân
(Hoàng Chu Linh), bà vợ người nước Tống của vua Trần Cảnh ghi chép. Bà Huệ Túc
Phu Nhân theo cha là ông Hoàng Bính, một quan chức cao cấp của nhà Tống. Ông
Hoàng Bính xem thiên văn, đoán biết nhà Tống sẽ bị Mông Cổ diệt, mà phương Nam
khí đang vượng, cho nên Hoàng Bính đã đem theo cả gia quyến gồm 1200 người, chạy
sang nương nhờ Đại Việt vào mùa xuân năm 1257. Bà Hoàng Chu Linh khi ấy mới 16
tuổi, rất giỏi bói toán, xem số tử vi. Tháng 6 năm 1257, bà Hoàng Chu Linh được
tiến cung, làm vợ vua Trần Cảnh, được phong là Huệ Túc Phu Nhân. Chính bà Huệ
Túc Phu Nhân đã khuyên vua Trần Cảnh và Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ giao chức
Tiết Chế (Tổng chỉ huy quân đội) cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ngay từ cuộc
kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất (1258). ĐVSKTT chỉ ghi có một câu rất ngắn,
viết về chi tiết này. Phần đông chúng ta đều đoán rằng Trần Quốc Tuấn chỉ được
phong Quốc Công Tiết Chế trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1285) và thứ 3
(1288) mà thôi.
Ở
cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3 (1288), nhà Trần lại dùng kế trá
hàng. Người thực hiện việc này, lại chính là Hưng Ninh Vương Trần Tung (anh
trai Trần Quốc Tuấn). Trần Tung đã tự nguyện sang đại bản doanh của Thoát Hoan,
Tổng chỉ huy quân Nguyên Mông để “xin hàng”. Lý do chắc sẽ là việc ông bất mãn
với vua Trần. Thoát Hoan hoàn toàn tin theo. Trần Tung hứa sẽ về làm nội ứng
cho Thoát Hoan. Nhưng ngay đêm đó, Trần Tung đã đem quân tinh nhuệ bất ngờ tấn
công vào doanh trại Thoát Hoan. Quân Nguyên tan vỡ nhanh chóng. Nhưng Thoát
Hoan thoát chết. Hắn cay đắng tức giận, nhưng đành phải thu vén toàn quân rút
chạy về Bắc. Sự kiện này, sách ĐVSKTT của ta có ghi chép.
Trở
lại câu chuyện Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, để các bạn thấy rằng, triều Trần
đã lại tiến hành một vụ tình báo chiến lược thứ 2, thành công rực rỡ như thế
nào. Đấy là chưa kể đến câu chuyện công chúa An Tư được đưa sang làm vợ Thoát
Hoan, được giao nhiệm vụ gì. Nhưng tình riêng và việc chung đều tốt cả. Công
chúa An Tư đã sinh hạ cho Thoát Hoan 2 người con.
Nhân
đây, cũng lại phải kể thêm câu chuyện công chúa Trần Huyền Trân được gả cho vua
Chiêm là Chế Mân. Công chúa Trần Huyền Trân về làm Hoàng hậu vua Chiêm. Đoàn
tùy tùng theo hầu Hoàng hậu, có hầu nữ và có cả nam giới. Họ đều ở lại bên cạnh
Huyền Trân ở thành Đồ Bàn, để giúp bà
trong sinh hoạt đời thường theo nếp sống của người Việt. Nhưng mà không chỉ có
thế. Họ còn được giao thêm nhiệm vụ khác nữa. Chẳng cần nói ra thì các bạn cũng
hiểu rồi. Hai vị đại quan có trách nhiệm bảo vệ, đưa tiễn Huyền Trân về Chiêm,
chính là danh sĩ Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung (tên thật là Đỗ Khắc Chung).
Thông tin cụ thể này, chúng ta chỉ được biết sau khi tư liệu chỉ viết về Hoàng
tộc nhà Trần, là sách ĐÔNG A DI SỰ, do chính bà Huệ Túc Phu Nhân khởi thảo, tiếp
nữa là Đoàn Nhữ Hài, đệ tử thân tín của Bà Huệ Túc. Cuối cùng là Tư Đồ Trần
Nguyên Đán, đồng tác giả. Các tài liệu về nội bộ nhà Trần lưu lạc bên Trung Quốc,
do cô Vũ Khánh Ngọc, du học sinh ở Phúc Kiến sưu tầm được. Gia phả dòng họ Trần
Ích Tắc và Trần Quốc Toản được người đời sau biết đến từ đây…
BIỆN GIẢI VỀ CÂU CHUYỆN ĐẦU HÀNG CỦA TRẦN
ÍCH TẮC
Trần
Ích Tắc cho rằng mình thông minh tài giỏi hơn các vị Hoàng tử khác. Trần Ích Tắc
muốn được lên ngôi Hoàng Đế. Sử sách chép như vậy. Nhưng thử nghĩ mà xem. Trần
Ích Tắc trước khi sang nhà Nguyên, ông còn giữ chức “Phiêu kỵ Đại tướng quân”,
trấn giữ tuyến phòng thủ thứ 2, ở mạn Bạch Hạc (Việt Trì), trong khi em trai
ông là Trần Nhật Duật trấn giữ tuyến đầu, biên giới phía Bắc. Khi quân Nguyên
tiến công như vũ bão, Ích Tắc còn đứng bên cạnh vua, tham mưu tác chiến. Có lẽ,
lãnh đạo nhà Trần đã phải tính đến cái kế đánh địch từ bên trong lòng địch, xây
dựng lực lượng lâu dài để đối phó với kẻ thù lâu dài. Thế nên, phải cử Trần Ích
Tắc làm việc này. Không phải người tài giỏi như Trần Ích Tắc, không ai lúc bấy
giờ hội tụ được các tiêu chí cần thiết, để có thể đảm đương được cái việc cực kỳ
khó khăn này. Ví thử như một người nào đó kém tài, Hốt Tất Liệt cũng chỉ cho họ
một chức quan nhỏ, để họ đủ sống được mà thôi. Phải có tài lớn, Hốt Tất Liệt mới
ban cho chức quan lớn, đủ tầm để tiếp cận gần ông ta, tham mưu cho ông ta những
quyết sách lớn. Tất nhiên rồi!
Sử ta chép, rằng Trần Ích Tắc muốn làm vua.
Không được thì sinh ra bất mãn, bèn đem gia quyến chạy sang hàng nhà Nguyên.
Tôi đã nói ở trên rằng, tất cả những tài liệu được viết ra, người đọc đời sau
phải tư duy để xem xét, mới có thể tiếp cận được sự thật ẩn giấu ở bên trong.
Muốn làm vua ư? Điều này là
phi lý và bất khả thi. Tại sao? Là vì thể chế nhà Trần rất rõ ràng, chắc như
đinh đóng cột. Triều đình lúc nào cũng có hai vua (Nhị Thánh). Vua cha nhường
ngôi cho vua con, lên ngồi ghế Thượng hoàng, nhưng vẫn có quyền phế truất vua
con. Xem sử ta ghi câu chuyện vua Trần Anh Tông mới lên ngôi, uống rượu say
sưa, mất cả thể diện. Có người tố cáo, đến tai Thượng Hoàng Nhân Tông. Ngài
đang nghỉ ở hành cung Thiên Trường. Khi tỉnh rượu, Anh Tông vô cùng hoảng sợ.
May gặp được anh học trò Đoàn Nhữ Hài đi qua, Anh Tông bảo Nhữ Hài viết cho tờ
biểu tạ tội. Anh Tông cùng Đoàn Nhữ Hài vội vã về Thiên Trường đội sớ tạ tội.
Thượng Hoàng Nhân Tông mắng Anh Tông như tát nước. Ngài bảo rằng, ta còn những
Hoàng tử khác có thể làm vua. Nếu ngươi (Anh Tông) không ra gì, ta sẽ phế truất
ngay đấy!
Ngôi
chủ ổn định, chặt chẽ. Chỉ có con bà chính thất (Hoàng hậu) mới được phong Thái
tử, kế vị ngai vàng. Người con trưởng không đủ tài làm vua, thì sẽ có một Hoàng
tử khác con bà Hoàng hậu được chọn thay thế. Còn như các vị Hoàng tử con các bà
Phi, thì LÀM GÌ CÓ CỬA mà sinh lòng nhòm ngó ngôi báu kia chứ? Trần Ích Tắc là
con bà Phi thứ 5, dám đâu mơ ước hão huyền, cho dù ông thực sự là người rất tài
giỏi. Trường hợp bất khả kháng, ví như Hoàng hậu không sinh được con nối dõi, bấy
giờ triều đình mới tính đến việc chọn một Hoàng tử, con một bà Phi nào đó kế vị.
Vậy nên cái câu chữ của sách sử, chúng ta đủ cơ sở để cho nó vào sọt rác, để hướng
tới một cách nhìn, cách nghĩ chuẩn xác hơn, lấp ló ở phía sau.
2
Vậy
tai sao Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đem theo cả gia quyến ngựa xe kềnh càng
phức tạp, lại không bị chặn đánh ở biên giới, kể cả đường bộ và đường thủy? Trần
Ích Tắc còn “nguy hiểm” hơn Trần Kiện rất nhiều, sao lại tẩu thoát dễ dàng như
vậy? Câu hỏi này đặt ra để các bạn suy nghĩ cho thấu đáo.
Thêm
nữa, nên biết rằng Thượng Hoàng Trần Thánh Tông nghiêm khắc đến thế nào, các bạn
nghe tôi kể đây. Khi ông Thiếu sư Trần Trọng Trưng người nước Tống đem cả gia
quyến chạy sang nương nhờ Đại Việt (tương tự ông Hoàng Bính năm 1257), các vua
Trần đối xử rất tốt với ông Trần Trọng Trưng (Lê Quý Đôn ghi là Trần Trọng Vi).
Vua Trần còn phong chức tước cho ông Trần Trọng Trưng và cả con trai ông ấy là
Trần Tôn. Khi Trần Trọng Trưng chết, vua Trần rất thương xót. Thánh Tông đã viết
bài thơ khóc thương ông Trần Trọng Trưng rất cảm động. Tôi đã bình giải kỹ bài
thơ này, để thấy được tấm lòng chân thành, nhân ái của các vua Trần.
Thế
nhưng, khi Thoát Hoan tiến công mãnh liệt xuống Đại Việt từ hướng biên giới
phía Bắc, thì Trần Tôn, con ông Trần Trọng Trưng (người Tống) lại đầu hàng. Hắn
còn dẫn đường cho Thoát Hoan tấn công vào Vạn Kiếp, khiến quân Trần bị bất ngờ,
thiệt hại khá lớn, phải bỏ căn cứ Vạn Kiếp rút lui bảo toàn lực lượng. Thượng
Hoàng Thánh Tông rất tức giận. Ngài sai đào mả Trần Trọng Trưng (cha Trần Tôn),
bổ quan tài hắn ra, để cho hả cơn giận. Kẻ phản bội nào cũng phải bị trừng trị
nghiêm khắc như vậy. Tôi dẫn chuyện này, đã viết bài về chuyện này, để biết vua
Trần nghiêm khắc như thế nào. Nhưng với “kẻ phản bội” Trần Ích Tắc thì khác đấy.
Bạn nghĩ sao?
3
4
Sử ta còn chép, sau chiến thắng Nguyên Mông
lần thứ 3, có người đem những bức thư đầu hàng của người này người khác, trong
đó có cả thư xin hẹn đầu hàng của Trần Ích Tắc, cho Thượng Hoàng Thánh Tông
xem, để trừng trị những kẻ đó. Thượng Hoàng sai đốt đi, để yên lòng dân. Bạn có
suy nghĩ rằng, những thư từ của Trần Ích Tắc, nếu có, chẳng phải cũng chỉ là
nghệ thuật phản gián, để đối phương hoàn toàn tin tưởng vào Tràn Ích Tắc, để Hốt
Tất Liệt tin tưởng, phong cho ông ấy chức AN NAM QUỐC VƯƠNG, rồi cả chức Tể tướng
(Bình chương chính sự) bên cạnh vua Nguyên nữa, chứ sao? Đối phương không tin
tưởng tuyệt đối, thì làm sao có thể “leo cao chui sâu” được? “Người trần mắt thịt”
sao thấy được điều này? Nhưng Thượng Hoàng Thánh Tông thì đương nhiên, chắc ông
ấy sẽ nheo mắt mỉm cười độ lượng…
5
Trong cuộc chiến lần thứ 3 (1288), vua Trần
hỏi Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, rằng năm nay đánh giặc thế nào? Hưng
Đạo Đại Vương bình thản trả lời, rằng “năm nay đánh giặc nhàn”! Phải chăng, tin
tức về giặc Nguyên Mông cũng thường xuyên được cập nhật về đại bản doanh của vị
Tổng Tư lệnh tối cao? Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng. Binh pháp đã đúc
kết thành nguyên lý trong chiến tranh là vậy! Bạn nghĩ sao?
6
Tóm lại, tình báo chiến lược trong chiến
tranh, thì bên nào cũng tổ chức. Ngày nay, việc ấy lại càng tinh vi hơn nhiều.
Nhưng cách nay đã gần ngàn năm, nhà Trần đã rất thành công trong tổ chức tình
báo. Chúng ta phải thoát ra khỏi suy nghĩ đơn giản, một chiều, thoát ra khỏi những
sách vở này nọ, để có tư duy khoa học, sáng suốt mới có thể tiếp cận được sự thật.
Và cũng phải có cái “phông” văn hóa nhất định nào đó, mới có thể cảm thấu được
CÁI KHÔNG NHÌN THẤY, vừa bí ẩn, vừa rất giàu hàm lượng thông tin. Sự đầu hàng của
Trần Di Ái, của Trần Kiện, của Lê Tắc, là đầu hàng thật, rõ rồi. Việc đầu hàng
của Trần Ích Tắc là việc đầu hàng theo kịch bản đã được thiết kế. Sao có thể
đem ra để so sánh theo kiểu cơ học thông thường được?
KÍNH
MỜI QUÝ BẠN ĐỌC TIẾP LOẠT BÀI VỀ CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC
Thông
qua việc giải mã một số bài thơ của Trần Ích Tắc, các bạn hãy liên kết với các
bài viết khác của tôi, để xâu chuỗi, kết nối các chi tiết, để phân tích, tự suy
ngẫm về câu chuyện lịch sử vô cùng bí ẩn này.
TRẦN ÍCH TẮC
Phiên âm:
HỒI QUỐC
Kỷ niên xuất quốc diểu vân
sa,
Thân ký nhung an tạm đáo gia.
Thốc thốc lâu đài không nhật ảnh,
Doanh doanh châu thúy các
thiên nha (nhai).
Chân thành Đông Hải quy Liêu
hạc,
Cảm vọng Nam Môn nhập Trịnh
xà.
Nhân vật vô hương vô xứ vấn,
Giang phong xuy lão lệ chi
hoa.
Dịch nghĩa:
VỀ NƯỚC
Mấy năm xa nước, mờ mịt như
mây trên trời, cát dưới đất,
Thân gửi ngựa trận tạm ghé
nhà.
Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,
Những thiếu nữ yêu kiều,
trang sức bằng châu ngọc đều ở mỗi phương trời cách biệt.
Lòng thành muốn trở về biển
Đông, giống như chim hạc muốn quay về đất Liêu.
Đâu dám mong thành con rắn Trịnh
để vào thành Nam Môn?
Nhân vật quạnh hiu (cho nên)
chẳng biết chốn nào mà hỏi,
Gió sông thổi mãi hoa lệ chi.
Dịch thơ
Mấy năm lìa nước cách xa vời,
Nhà cũ nương yên tạm tới nơi.
Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,
Yêu kiều châu ngọc cách
phương trời.
Hạc Liêu cột cũ về quê cũ,
Dám đâu rắn Trịnh ý giành
ngôi.
Nhân vật thê lương không chốn
hỏi,
Gió lay hoa vải úa vàng phơi.
(TTNCQH dịch)
Mấy năm xa nước mịt mờ,
Gửi thân lưng ngựa, tạm nhờ
thăm quê.
Lâu đài trơ bóng nắng huê,
Yêu kiều thiếu nữ bạt về nơi
đâu?
Lòng chim hạc muốn quay đầu,
Nam Môn rắn Trịnh dám đâu
tranh giành.
Hỏi ai giữa chốn vắng tanh,
Gió sông vi vút lay cành lệ
chi.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Đây
là thời điểm quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ 3 (1288). Hốt Tất Liệt trước
đó đã phong phong tước AN NAM QUỐC VƯƠNG, rồi chức “HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH
SỰ” cho Trần Ích Tắc. VÂN NAM VƯƠNG Thoát Hoan (của nhà Nguyên) lại được cử làm
Chủ tướng, Tổng chỉ huy quân Nguyên, đem đại binh thủy bộ khoảng 50 vạn quân
các loại, hùng hổ tiến sang quyết làm cỏ Đại Việt.
Hốt
Tất Liệt sai Trần Ích Tắc cùng đi với Thoát Hoan, mượn danh nghĩa đưa AN NAM QUỐC
VƯƠNG về nước. Không thể chối từ, cho nên Trần Ích Tắc phải “thân gửi ngựa trận
tạm ghé nhà”, sau “mấy năm xa nước, mờ mịt xa xôi như mây trên trời, cát dưới đất”.
Đó cũng là tâm lý thông thường của kẻ lữ thứ. Vả chăng, có lẽ, Trần Ích Tắc đã
chuyển xong những thông tin cần thiết về tình hình quân Nguyên cho Quốc Công Tiết
Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Tổng chỉ huy lực lương kháng chiến của Đại
Việt chăng? Chẳng thế mà khi vua Trần hỏi Hưng Đạo Đại Vương rằng năm nay đánh
giặc thế nào, Hưng Đạo Đại Vương đã đã ung dung trả lời “Thế giặc năm nay dễ phá”!
hoặc “Năm nay đánh giặc nhàn”, như một số tài liệu khác đã ghi.
Có
thể Trần Ích Tắc cũng rất tin tưởng rằng cuộc chiến lần thứ 3 này, quân Nguyên
Mông nhất định sẽ đại bại, thế nên, ông cũng muốn nhân dịp hiếm hoi này, theo
chân quân Nguyên về thăm lại quê nhà, để thỏa lòng khắc khoải mong nhớ bấy lâu
nay…Lê Tắc, Lê An tướng người Việt đầu hàng, chỉ huy 5 ngàn quân hộ vệ Trần An,
con trai Trần Ích Tắc mới 9 tuổi về nước. Đạo quân này bị tướng Nguyễn Thế Lộc
chặn đánh. Nhưng Nguyễn Thế Lộc vẫn bỏ ngỏ hướng Bắc cho Lê Tắc hộ vệ Trần An 9
tuổi có cơ hội chạy về bên kia biên giới, đúng vào ngày Tết Nguyên đán năm Mậu
Tý (1288). Người đọc sử ngày nay, liệu có ai suy nghĩ về chi tiết có vẻ bình
thường, mà không bình thường này chăng?
Tránh thế giặc đang mạnh, nhà Trần lại dùng
kế “Thanh dã”, (vườn không nhà trống), rút khỏi Thăng Long, chờ cơ hội phản
công tiêu diệt đối phương binh hùng tướng mạnh. Trần Ích Tắc theo chân Thoát
Hoan (chỉ huy mũi chủ lực) từ châu Tư Minh, vượt qua biên giới vào Thăng Long mà
không phải giao chiến với quân Trần. Đúng hơn là chỉ phải gặp sức kháng cự
không đáng kể của quân Đại Việt. Trần Ích Tắc có dịp trở lại Thăng Long thăm
nhà cũ. Đó là thời điểm cuối tháng 12 năm 1287.
Quang
cảnh hiện ra trước mắt, chỉ thấy:
Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,
Những
thiếu nữ yêu kiều trang sức bằng châu ngọc (nay) đều ở mỗi phương trời cách biệt.
Chỉ
thấy kinh thành Thăng Long hoang vắng, lâu đài trơ vơ dưới ánh nắng chiều. Những
cung nữ yêu kiều, bây giờ không biết họ đang ở nơi đâu. Quang cảnh hoang lương
buồn bã. Cho nên, không thể không bùi ngùi, xa xót...
Thi
nhân tha hương lâu ngày than thở:
Lòng
thành muốn trở về biển Đông giống như chim hạc quay về đất Liêu,
Đâu
dám mong thành con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn.
Thế
là sao? Đất Liêu là đất nào vậy? “Liêu hạc”, tức lấy ý từ câu thành ngữ “Hạc
quy hoa biểu”, để biểu thị sự biến thiên chìm nổi ở cõi người. Lâu đài thành
quách vẫn như xưa, mà nay thế sự đã thay đổi. Nhưng mà ta “đâu dám mong thành
con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn”! Chả là “Trịnh xà” tức con rắn ở thành Nam
Môn nước Trịnh. Truyền thuyết, nước Trịnh có con rắn ở ngoài thành vào cắn con
rắn ở trong thành. Rắn trong thành là yêu tinh, bị cắn chết, đó là điềm Lệ Công
sẽ được về nước. Sách AN NAM CHÍ LƯỢC của Lê Tắc chép như vậy.
Tác giả Trần Ích Tắc khẳng định rằng, ông
không phải là con rắn nước Trịnh, vào thành Thăng Long để làm vua nước AN NAM
(AN NAM QUỐC VƯƠNG). Ông còn có nhiệm vụ khác, quan trọng hơn rất nhiều, ai biết?
Vậy
nên:
Hỏi
ai giữa chốn vắng tanh,
Gió
sông vi vút lay cành lệ chi…
Thật
là ngổn ngang tâm sự, khó nói thành lời…
Lại
nhớ lại rằng, Trần Ích Tắc theo chân quân Nguyên Mông về nước, tại sao Hưng Đạo
Đại Vương không sai phục binh giết chết ông ấy từ cửa biên giới, hoặc trên đường
vào Thăng Long, như nhà Trần đã từng thi hành “án tử” với AN NAM QUỐC VƯƠNG Trần
Di Ái? Chẳng phải là một chi tiết người đời sau phải nghĩ ngợi, phải tự lý giải
để trả lời cho thắc mắc của chính mình? Tại sao Nguyễn Thế Lộc chặn đánh Lê Tắc
và Lê An, lại để hướng Bắc cho Lê Tắc và Lê An ôm đứa con 9 tuổi của Trần Ích Tắc
được sống, để trở về phủ Tư Minh đúng vào ngày Tết Nguyên đán? Liệu đã có chủ
trương bí mật gì đó hay chăng? KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ!
HÃY XEM ĐÂY, TRẦN ÍCH TẮC LÀ
AI?
KHI
ĐÃ THÀNH CÔNG TRONG VIỆC THUYẾT PHỤC THIẾT MỘC NHI (NGUYÊN THÁNH TÔNG) QUYẾT ĐỊNH
BAN CHIẾU BÃI BINH, TRẦN ÍCH TẮC VÔ CÙNG SUNG SƯỚNG. ÔNG VIẾT LIỀN CHÙM THƠ 5
BÀI, THỂ HIỆN NIỀM VUI BẤT TUYỆT CỦA ÔNG.
Kính
mời quý bạn đọc bài thứ Nhất
Phiên
âm:
TẠ THANH CUNG TỨ TỬU
Hoàng
phong tinh sứ khống kỳ lân,
Đằng
đạp cao phong phất lộ trần.
Tiên
lễ nhưỡng thành thiên thượng lộ,
Cung
hồ phân tứ lạp tiền xuân.
Ân
triêm Nam ký ba đào nhuận,
Khí
chuyển Đông hoàng thảo mộc tân.
Bái
biệt ung dung ca “Ký túy”,
Dao
chiêm Hạc cấm hỉ tân tân.
Dịch
nghĩa:
TẠ ƠN ĐƯỢC BAN RƯỢU Ở
THANH CUNG
Sứ
giả được (Thái tử) ban rượu Hoàng phong cưỡi con kỳ lân đến,
Phóng
như bay đạp lên gió cao, rũ tung bụi đường.
Rượu
tiên chưng cất thành mưa móc trên trời,
Rượu
ngự phân ban để tế thần trước mùa xuân.
Ơn
vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,
Chúa
xuân chuyển khí xuân làm cỏ cây tươi tốt.
Bái
lạy xong, thong thả hát bài “Ký Túy”,
Ngửa
mặt trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào.
Dịch
thơ
Cưỡi
kỳ lân đến Thanh Cung,
Đạp
gió cao, sứ rũ tung bụi đường.
Rượu
tiên mưa móc khác thường,
Phân
ban ngự tửu trước xuân tế thần.
Ơn
vua Nam Quốc thấm nhuần,
Chúa
xuân chuyển khí muôn phần tốt tươi.
Bái
xong, “Ký Túy” say lời,
Ngửa
trông cung cấm, niềm vui đang trào.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Đây
là bài thơ Trần Ích Tắc thể hiện rất rõ tâm trạng vui sướng của ông, khi được
Thái tử (Đông cung) mới lên ngôi vua, ban rượu quý ở Thanh Cung. Có lẽ, trong
thời gian giữ chức quan HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, Trần Ích Tắc có dịp gần
gũi Thái tử Thiết Mộc Nhi, người sẽ kế vị Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.
Chúng
ta không thể biết Trần Ích Tắc đã dùng những lời lẽ gì để tác động đến ngài
Thái tử, dẫn đến việc Thiết Mộc Nhi khi đăng quang, đã lập tức ban chiếu bãi
binh. Cho nên, việc ông được Thái tử (vua mới) ban rượu “Hoàng Phong” đặc biệt ở
Thanh Cung, chẳng phải là một đặc ân hiếm có đấy sao? Chẳng phải là niềm vui bất
tuyệt hay sao?
Thế
nên, tác giả viết:
Sứ
giả được vua ban rượu Hoàng Phong, cưỡi con kỳ lân đến,
Phóng
như bay, đạp lên gió cao, dũ tung bụi đường.
Theo
quan niệm của người xưa, Kỳ Lân là loài vật quý trong thần thoại Trung Hoa và ở
cả một số nước phương Đông. Kỳ lân xuất hiện thường đem lại điềm lành. Một khi
Kỳ Lân xuất hiện, đó chính là điềm đất nước thái bình.
Trần
Ích Tắc tự xem mình là sứ giả của nước An Nam (Đại Việt) được vua Nguyên Thiết
Mộc Nhi mới lên ngôi ban rượu “Hoàng Phong”, một loại rượu rất quý, vua ban cho
các quan đại thần ở Thanh Cung. Thế thì thời thiên hạ thái bình đã đến. Tin vui
cực vui, cho nên tác giả mới vội vã “phóng như bay”, mới mạnh mẽ cưỡi con kỳ
lân, xông pha “đạp lên gió cao”, “dũ tung bụi đường”. Quả là một hình ảnh hoành
tráng phi thường, được phóng đại lên, thể hiện niềm vui vô giá, bất tuyệt.
Không thể không vội vã trong tình huống, trong sự kiện trọng đại có một không
hai này.
Thực
ra, làm gì có con Kỳ Lân nào mà cưỡi. Chẳng qua chỉ là cưỡi con tuấn mã mà vội
vã phi đến, bay đến Thanh Cung đấy thôi. Nhưng thi nhân đã không ngại dùng nghệ
thuật khoa trương mà thơ hóa lên, tạo ra một hình ảnh thẩm mỹ kỳ vĩ rất ấn tượng.
Làm sao phải vội vã như thế? Là bởi vì vua nhà Nguyên đã ban chiếu bãi binh. Trần
Ích Tắc cũng chả cần giấu đi cảm xúc chân thật của mình. Ông viết:
Ơn
vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,
Chúa
xuân chuyển khí xuân, làm cỏ cây tươi tốt.
Tại
sao ư? Khi vua Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi lên ngôi, ngài đồng thời ban chiếu
bãi binh, đại xá thiên hạ, cũng có nghĩa rằng nước Nam ta không phải tiến hành
thêm một cuộc chiến tranh chống xâm lược, mà chắc chắn sẽ là vô cùng khốc liệt
nữa. Nói rằng “Ơn vua thấm khắp nước Nam như sóng cả” chẳng phải là hồng phúc của
dân tộc Đại Việt hay sao? Chẳng phải là hạnh phúc của sinh linh trăm họ hai nước
hay sao?
Thế
nên, tác giả cho rằng:
“Ơn
vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,
Chúa
xuân chuyển khí xuân, làm cỏ cây tươi tốt”
Đó
là những hình ảnh ẩn dụ, đều liên quan đến việc Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi
ban chiếu bãi binh. Có thể nói rằng, niềm vui trong lòng Trần Ích Tắc là bất
tuyệt. Ông có cảm giác như “rượu tiên vua ban xuống như mưa móc kết tinh từ
trên trời”. Hay là “rượu Hoàng Phong của vua ban, kết tinh thành sương móc trên
trời”. Thêm nữa, “Chúa xuân chuyển khí xuân làm cho cỏ cây tươi tốt”. Tất cả đều
như tươi mới, sáng trong, ngập tràn hạnh phúc. Ngày vui của nhà vua, cũng chính
là ngày vui của chính tác giả, của muôn dân nước Nam (Đại Việt) là vậy!.
Cho
nên, tâm trạng Trần Ích Tắc vô cùng sung sướng. Một sự sung sướng vô bờ, không
bút mực nào tả hết được.
Tác
giả viết:
Bái
lạy xong, thong thả hát bài “Ký Túy”,
Ngửa
trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào.
“Ký
Túy” là một bài thơ trong “Kinh Thi”, ở phần “Đại nhã”. Nội dung thể hiện cảm hứng
vui say bất tuyệt. Chiêu Quốc Vương như
đang hát vang lên bài ca “Ký Túy”. Hiện thực như trong mơ, như một giấc mơ tuyệt
hảo. Và đặc biệt câu “Ngửa trông về nơi cung cấm xa vời, niềm vui dâng trào”.
Cung cấm mà Trần Ích Tắc nói ở đây, có thể hiểu là cung cấm của vua Nguyên,
nhưng cũng có thể hiểu là cung cấm của triều đình nước Đại Việt ở phương Nam? Ở
quê nhà, nào ai biết được sự kiện rất đặc biệt quan trọng, liên quan đến vận mệnh
quốc gia này, cùng tâm trạng vui sướng của kẻ lữ thứ đã từng phải chịu đựng biết
bao đau khổ, phải vào luồn ra cúi bao năm nay, phải đeo cái tiếng xấu là kẻ
“hàng thần lơ láo” này được. Cho nên, giờ đây, ta phải hát vang lên cho thỏa
thích, là bởi vì niềm vui của ta đang dâng trào như sóng biển, không sao kiềm
chế được!
Bài thơ âm điệu tươi vui, thể hiện tâm trạng
vô cùng sảng khoái của tác giả. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đã bao năm lao
tâm khổ tứ, nghĩ suy, hành động, khôn khéo, vừa để bảo vệ được chính mình, gia
quyến của mình, vừa hoàn thành được sứ mệnh cao cả. Bằng trí tuệ tuyệt vời sẵn
có, bằng tài năng văn chương và ngoại giao đặc biệt, Chiêu Quốc Vương Trần Ích
Tắc chỉ tự xem mình là sứ giả của Đại Việt, đã ngăn chặn được một cuộc chiến
tranh chắc chắn là sẽ vô cũng đẫm máu của giặc Nguyên Mông lần thứ 4. Số phận một
dân tộc nhỏ bé đã được định đoạt. Sẽ không có cảnh xương chất thành núi, máu chảy
thành sông nữa. Công lao của ông, ai sánh được nào? Vinh quang của ông, ai sánh
được nào?
VẠN TUẾ SƠN THỊ YẾN
Bích
lạc minh loan cách thế trần,
Ngọc
kinh khai yến hội tinh thần.
Vũ
hồi ngao bối tam sơn tuyết,
Tửu
thướng long nhan vạn quốc xuân.
Vật
bị nhân phong vinh ngự uyển,
Thủy
hàm thánh trạch dạt Thiên Tân.
Việt
Nam ky lữ bồi tân liệt,
Chỉ
xích quang chiêm nhật nguyệt tân.
Dịch
nghĩa:
HẦU TIỆC Ở NÚI VẠN TUẾ
Từ
trời xanh vọng xuống tiếng chim loan, cách ngăn với trần thế,
Chốn
cửa ngọc mở tiệc hội tụ với các vì tinh tú.
Các
nàng tiên múa xong trở về nơi ở chỗ ba ngàn núi tuyết,
Rượu
dâng lên mặt rồng, rực rỡ màu xuân vạn nước.
Gió
lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển tươi tốt.
Ơn
thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.
Người
Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân khách,
Ngước
mắt nhìn ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng (vua) đang ở rất gần.
Dịch
thơ
Trời
xanh rót nhạc mừng xuân,
Cửa
vàng tiệc lớn quây quần tú tinh.
Múa
xong, tiên vút Thiên Đình,
Rượu
dâng vua, rực xuân tình vạn bang.
Tươi
vườn ngự, sáng muôn vàn,
Sông
Ngân như thể ngập tràn Thánh ân.
Tha
hương Việt quốc khách tân,
Ngước
nhìn vua mới rất gần đó thôi!
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Đây
là ngày đại khánh của vua Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi). Thiết Mộc Nhi lên
ngôi kế vị Hốt Tất Liệt. Đây cũng là thời điểm Hoàng Đế Thiết Mộc Nhi ban chiếu
bãi binh, đại xá thiên hạ.
Thường
thì triều đình Bắc phương vẫn tổ chức mừng ngày Đại khánh (vui lớn). Có khi là
chúc thọ nhà vua. Có khi là mừng vua mới đăng quang. Khi ấy, các nước chư hầu
phải đến dâng lễ chúc mừng. “Thiên triều” thường treo biển VẠN QUỐC LAI TRIỀU,
tức vạn nước phải đến triều đình dâng lễ chúc mừng. Ở đời nhà Đại Thanh thống
trị Trung Hoa, “Thiên triều” đã tổ chức đại lễ BÁT TUẦN ĐẠI KHÁNH, mừng thọ vua
Càn Long 80 tuổi. Nhà Tây Sơn nước Đại Việt ta cử sứ bộ 158 người mang lễ vật
lên Yên Kinh (Bắc Kinh) chúc mừng. Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn…
là những người lãnh đạo sứ đoàn quy mô, hoành tráng chưa từng có bao giờ trong
lịch sử bang giao Việt-Hồ. Nhà Thanh đã xuất kho 800 ngàn lạng bạc cho việc đón
tiếp sứ đoàn ta. Tất nhiên vua Càn Long đã chủ trương cực kỳ thâm hiểm, như tôi
đã viết bài ở THỰC HƯ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG, đăng trên trang mạng và cả
trên tạp chí VĂN HIẾN VIỆT NAM.
Xem tác giả tả quang cảnh hết sức linh đình được
diễn ra ở núi Vạn Tuế, chúng ta có thể hiểu được điều đó.
Tâm trạng thi nhân Trần Ích Tắc tất nhiên là rất
bộn bề. Ông rất vui, phải nói là vô cùng vui sướng, nhưng vẫn phảng phất một
chút tâm sự bùi ngùi. Cũng không thể khác. Bởi đó mới là tiếng lòng chân thật của
chính ông.
Tác
giả viết: “Người Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân
khách”.
Ngày
Đại khánh của vua nhà Nguyên, cả thiên hạ đều mừng vui khôn xiết. Tất nhiên là
tác giả cũng vô cùng vui sướng. Một niềm vui thầm kín, khôn tả, sen lẫn một
chút bùi ngùi. Sao vậy? Là vì tác giả vinh dự được cầm chiếc thẻ bài quan đại
thần, nhưng là quan đại thần của nước Nguyên. Dẫu ông không muốn, thiên hạ vẫn
coi ông là kẻ “hàng thần lơ láo”, vẻ vang gì nào? Nhưng thực chất, Trần Ích Tắc
vẫn cho rằng, ông chỉ là “Người Việt ở phương Nam tha hương” mà thôi!
Thế
đủ biết, Trần Ích Tắc vẫn khẳng định rằng mình chẳng qua chỉ là một người Việt ở
phương Nam tha hương ở xứ người. Ông vẫn là người Việt. Tổ quốc của ông là nước
Đại Việt ở phương Nam. Vua mới ở đây, chẳng phải là vua Nguyên Thánh Tông (Thiết
Mộc Nhi), người đã ban chiếu bãi binh, chấm dứt cái họa chiến tranh “núi xương
sông máu” phi nghĩa, phi nhân tính hay sao? Trần Ích Tắc, trong vai trò rất lớn,
ở vị thế Tể tướng (Bình chương Chính sự), được gần vua Nguyên Thánh Tông. Không
biết rằng ông với chức vụ rất lớn ấy, đã tham mưu khéo léo với vua Nguyên những
điều lợi hại gì đó, để Thiết Mộc Nhi quyết định ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc
xâm lăng chắc chắn là sẽ vô cùng khốc liệt với Đại Việt.
Đây
là bữa tiệc lớn vua Nguyên ban cho quần thần ở núi VẠN TUẾ. Quang cảnh cuộc vui
ở VẠN TUẾ SƠN, trong khu vực Cấm thành, được tác giả miêu tả rất hoành tráng.
Bích
lạc minh loan cách thế trần,
Ngọc
kinh khai yến hội tinh thần.
Các
nhà biên soạn ở TTNCQH cho rằng “cụm minh loan” không phải là “tiếng chim
loan”, mà là tiếng của một thứ nhạc cụ (gọi là “loan”) dùng để cầm nhịp, giữ
phách khi tấu nhạc xưa”. Trước đó, đã có sách chuyển ngữ câu “Bích lạc minh
loan cách thế trần” là “Tiếng chim loan hót vọng xuống từ không xanh”. Tôi tán
thành cách chuyển ngữ này. Hay hơn, thơ hơn. Cái đặc sắc tài hoa của thi sĩ Trần
Ích Tắc chính là ở chỗ đó. Còn như cách hiểu của TTNCQH, cũng là một cách hiểu,
nhưng câu thơ đã bị vật chất hóa đi rồi. “Tiếng chim loan hót vọng xuống từ khoảng
không xanh biếc”, mới là câu thơ hàm ẩn, mang tầm vóc vũ trụ, tương ứng với
quang cảnh được tác giả miêu tả ở những câu thơ tiếp sau, tràn đầy thi vị.
Quả là một đại yến tiệc, chỉ có ở chốn cung
vàng điện ngọc, hội tụ quây quần muôn ngàn tinh tú. Các nàng tiên bay xuống trần
gian từ trên trời. Múa hát xong, các tiên nữ yểu điệu thướt tha lại lả lướt bay
về trời. Rượu dâng lên vua, rạng rỡ màu xuân vạn nước. Quả đúng là “VẠN QUỐC
LAI TRIỀU”. Thế nên mới lại thấy:
Gió
lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển (của nhà vua) tươi tốt,
Ơn
thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.
Cả
đất trời dường như tươi tốt lại trong ngày Đại khánh. Đây chẳng phải là khi triều
đình nhà Nguyên tổ chức đại lễ, yến tiệc linh đình, để mừng vua mới Thiết Mộc
Nhi lên ngôi Hoàng đế đó sao? Vua lên ngôi, đồng thời ban chiếu bãi binh, đại
xá thiên hạ, để thiên hạ khắp bốn phương được vui với ấm áp thanh bình. Thế
nên, tác giả mới khẳng định rằng “Ơn thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy”.
Chẳng phải là niềm vui cực lớn cho tác giả, cho nước Đại Việt, cho cả bách tính
khắp gầm trời này hay sao?
Cho
nên:
Người
Việt ở phương Nam (là ta) vinh dự được xếp vào hàng tân khách,
Ngước
mắt nhìn vua mới, ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần.
Tâm
trạng của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nhìn chung là vô cùng sung sướng và tự
hào. Niềm vui của tác giả như đã nhuốm cả vào thiên nhiên, tạo vật. Lòng tác giả
như nở hoa, muôn ngàn hương sắc tốt tươi. Cả cái vườn ngự uyển của nhà vua, vốn
chỉ dành cho vua và các cung nữ đi dạo, vui chơi, bây giờ dường như nó cũng
đang chuyển động, đang rì rầm tốt tươi trở lại. Hỏi rằng không sung sướng,
không tự hào sao được. Bởi chính ông đã vừa lập được một chiến công vô cùng vĩ
đại, vô cùng hiển hách, là đã ngăn chặn được một cuộc xâm lăng được lên kế hoạch
từ tên bạo chúa Hốt Tất Liệt. Thế nên, tác giả thầm biết ơn ân đức của vua mới,
ngước nhìn vua mới như thể “mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần”!
Thơ thể hiện tầm vóc tư tưởng và tâm hồn tác
giả. Thơ phóng chiếu hình ảnh lịch sử, chính xác nhất, sinh động nhất. Người
xưa nói “Thi dĩ ngôn chí” là vậy!
SINH NHẬT TỰ THỌ
Đãng
đãng càn khôn nhất chuyển bồng,
Quang
âm vô hạn, lạc vô cùng.
Uyên
hồng hà xứ tam thiên khách?
Quy
hạc lưu hình lục thập ông.
Thúy
tiểu cấm trung do tạc nhật,
Bạch
tần giang thượng hựu thu phong.
Lưu
hà bản túy quỳnh lâu hiểu,
Thân
cận tằng vân Bắc Đẩu đông.
Dịch
nghĩa:
SINH NHẬT TỰ CHÚC THỌ
Đất
trời bao la bát ngát, (ta như) một cánh cỏ bồng chuyển xoay theo gió,
Thời
gian vô hạn, niềm vui vô cùng.
Ba
ngàn tân khách như hồng bay lạc nhạn, giờ ở nơi đâu?
Ông
lão sáu mươi tuổi như ta được sống lâu như loài rùa và hạc.
Khóm
trúc xanh xanh trong cung cấm hãy còn giống như ngày xưa không?
Lại
thêm gió thu thổi qua đám rau tần trắng ở bên sông (Lô).
Sáng
sớm ở lầu quỳnh uống rượu ngon say chếnh choáng,
Thân
mình như gần kề tầng mây phía đông chỗ sao Bắc Đẩu mọc.
Dịch
thơ
Cỏ
bồng theo gió bay xa,
Thời
gian vô hạn, vui ta vô cùng.
Ba
ngàn tân khách tưng bừng
Giờ
đâu? Sáu chục, ta mừng sống dai.
Trúc
xanh cung cấm xanh hoài?
Đám
rau tần trắng ở ngoài bãi sông?
Lầu
quỳnh chếnh choáng hương nồng,
Tưởng
bay lên mãi tận cùng Đẩu sao…
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Cứ
theo như tình ý bài thơ, thì thấy, năm Trần Ích Tắc tự chúc thọ mình 60 tuổi,
chính là năm 1313, hoặc 1314. Ông sinh năm 1253, cộng thêm 60 năm, đúng là năm
1313, hoặc 1314.
Ở
Đại Việt, đầu năm 1314, niên hiệu Đại Khánh năm đầu, triều vua Trần Minh Tông,
Nguyễn Trung Ngạn được cử làm Chánh sứ cùng quan Lang Trung Phạm Tông Mại sang
nhà Nguyên. “Niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 11, đời vua Trần Dụ Tông (1351), vua
ngự điện Thiên An, duyệt cấm quân ở sân rồng, cho Nguyễn Trung Ngạn mặc áo chiến
bào, đội mũ võ, đeo thẻ bài gỗ vuông bịt vàng, duyệt các cấm quân, định hạng
hơn kém” (ĐVSKTT). Năm thứ 15 (1355), gia phong chức Nhập nội Hành khiển, Thượng
thư hữu bật, kiêm Thị Kinh diên Tri khu Mật viện sự, Đại học sĩ, tước Trụ quốc
Khai huyện Bá, kiêm chức Kinh lược sứ trấn Lạng Giang” (ĐVSKTT) Bấy giờ, Nguyễn
Trung Ngạn đã 67 tuổi.
Đối
chiếu tiến trình lịch sử, ở thời điểm này, con trai thứ hai của Trần Ích Tắc là
Trần Hữu Lượng đang nổi dậy, tự xưng Hán Đế, treo cờ Hán, quốc hiệu là ĐẠI HÁN.
Lực lượng quân sự của Trần Hữu Lượng rất hùng hậu. Khoảng sáu chục vạn tinh
binh. Thủy binh gồm hạm đội lớn, thuyền to thuyền nhỏ rất nhiều. Trần Hữu Lượng
không dưới 3 lần sai sứ về Đại Việt yêu cầu Trần Dụ Tông giúp sức. Nhưng dưới
thời Dụ Tông, Đại Việt đã suy yếu. Dụ Tông ăn chơi xa đọa, dân tình khốn khổ,
không thể giúp gì cho Trần Hữu Lượng. Lần thứ 3, Dụ Tông chỉ cử Nguyễn Trung Ngạn,
bấy giờ đang kiêm chức Kinh lược sứ trấn Lạng Giang (khu vực biên giới phía Bắc)
sang xem xét tình hình bên kia biên giới, đồng thời đề phòng một số thế lực chống
Nguyên và chống nhau, có thể bất ngờ tràn sang Đại Việt. Nguyễn Trung Ngạn chỉ
quẩn quanh ở bên kia biên giới, rất buồn chán. Khoảng 4 tháng, vua mới có chiếu
lệnh triệu hồi về kinh. Thơ Nguyễn Trung Ngạn đã “khai rõ” điều này.
Trần
Ích Tắc tự mừng thọ 60 tuổi. Nghĩa là tự ông, một mình ông uống rượu mừng thọ
chính ông. Tác giả viết:
Đất
trời bao la bát ngát,(ta như) một cánh cỏ bồng chuyển xoay theo gió,
Thời
gian vô hạn, niềm vui (của ta) vô cùng.
Tác
giả vừa nâng chén rượu, vừa suy tư nghĩ ngợi nhiều bề, như để “kiểm toán” lại
các sự kiện, các việc lớn nhỏ ông đã từng phải làm. Ông cho rằng, giữa đất trời
bao la, mênh mông vô tận này, ông như “một lá cỏ bồng chuyển xoay theo gió”. Thế
nghĩa là ông tự xem mình như viên tướng ở ngoài biên ải, tự mình suy tư, tự lên
kế hoạch hành động, tự quyết định lấy cuộc đời của mình. Độc lập tất cả. Tùy cơ
mà ứng biến. Hoặc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Mục tiêu chiến lược bất biến là
phải làm tan rã triều đại Nguyên Mông. Từ việc ngoại giao khôn khéo thế nào, sắp
đặt kế hoạch thế nào, để đạt được mục đích chiến lược như thế nào, để bảo vệ
chính mình và gia quyến đông đúc hàng ngàn con cháu và tùy tùng…
Tác
giả cho rằng, “thời gian thì vô hạn”. Nó cứ bình thản vô tình trôi đi. Còn như
“niềm vui của ông thì vô hạn”. Việc lớn nhất mà ông đã hoàn thành, đó chính là
việc ông đã tác động để vua mới Thiết Mộc Nhi ban chiếu bãi binh. Nghĩa là cuộc
tấn công xâm lược Đại Việt lần thứ 4 đã bị bãi bỏ. Điều ấy khiến ông vô cùng
sung sướng. Cho nên mới khẳng định rằng, đó chính là “niềm vui vô hạn” của ông.
Chưa hết. Ông đã chiếm lĩnh được niềm tin tuyệt đối của vua Nguyên, được vua
Nguyên trao cho chức vụ rất quan trọng. Từ chức vụ này, ông được gần vua, lại
có nhiều thuận lợi trong kết giao bạn bè, để thực hiện kế hoạch phá địch từ bên
trong, bằng trí tuệ sắc sảo, bằng học vấn sâu rộng nhiều mặt và cả ý chí ngoan
cường.
Đọc
một số bài thơ khác, thì biết thêm Trần Ích Tắc đã kết thân với khá nhiều bạn
bè, cả người Nguyên, người Tống làm tay sai cho triều đình nhà Nguyên, người
triều Tiên và một số nước khác cũng đang làm quan cho triều đình nhà Nguyên. Ví
như ngài Nguyên Phục Sơ (Nguyên Minh Thiện), dòng họ Thác Bạt, hiện giữ chức Thừa
tướng của triều đình nhà Nguyên, cũng là người bạn tri âm tri kỷ của Trần Ích Tắc.
Kể cả ngài Hà Nam Vương dòng dõi qúy tộc Mông Cổ. Trong các mối quan hệ bạn bè
thân thiết ấy, ông đã kiên trì khôn khéo tác động đến tâm lý, đến tình cảm và
nhận thức của họ, khiến họ nhận ra chính mình, căm ghét nhà Nguyên, rồi âm thầm
chống lại nhà Nguyên. Đặc biệt là những người nước Tống bị mất nước, bây giờ
đang phải chịu luồn cúi dưới ách đô hộ của Mông Cổ. Nhục nhã lắm. Không thể biết
Trần Ích Tắc đã âm thầm hành động như thế nào, cụ thể ra sao, nhưng ta biết người
Tống đã nổi dậy chống Nguyên. Một viên Thái giám người Triều Tiên cũng góp phần
tha hóa triều đình nhà Nguyên. Cuối cùng thì triều đại Nguyên Mông đã sụp đổ. Sự
sụp đổ của triều đại Nguyên Mông, có vai trò rất lớn của cha con Trần Ích Tắc.
(Tất nhiên, những biến động xã hội lớn này diễn ra sau khi Trần Ích Tắc đã tuổi
cao sức yếu và qua đời).
Thế
thì chẳng vui sao được? Một niềm vui vô tận vô cùng!
Nhưng
giờ đây, nâng chén rượu tự chúc thọ mình, tác giả lại ngậm ngùi nhớ về quê nhà.
Một thuở xa xưa huy hoàng rực rỡ:
Ba
ngàn tân khách như hồng bay lạc nhạn, giờ ở nơi đâu?
(Thế
mà) ông lão sáu mươi như ta được sống lâu như loài rùa và hạc.
Thời
còn ở trong nước, Chiêu Quốc Vương tiếng thơm lừng lẫy. Phủ đệ của ông rất đông
đảo tân khách đến từ khắp nơi trong nước. Ông mở trường tư thục, bên cạnh QUỐC
TỬ GIÁM, để dạy bảo học trò. Người nào khó khăn thì ông tài trợ. Phủ đệ của ông
được ông ví như phủ đệ của Bình Nguyên Quân, Xuân Thân Quân, Tín Lăng Quân ở thời
Chiến Quốc bên Tàu. Người đời vinh danh Bình Nguyên Quân là “Mạnh Thường Quân”.
Ta có thua kém gì Bình Nguyên Quân đâu!
Trần
Ích Tắc tài hoa nhiều vẻ. Chính ông, khi làm quan ở triều đình nhà Nguyên, ông
đã họa chân dung của Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt, Thoát Hoan, Ô Mã Nhi.… để
làm món quà ngoại giao khôn khéo. Không biết bây giờ những tân khách và môn
khách và học trò của ông như Mạc Đĩnh Chi, Bùi Phóng, Nguyễn Trung Ngạn, Trương
Hán Siêu, “chúng nó” đang ở phương nào? Mấy cậu học trò xuất sắc này thi đỗ
cao, làm quan to trong triều Trần. Không biết
bây giờ “chúng nó” đang ở phương trời nào? Mà “Ông lão sáu mươi như ta lại
được sống dai như rùa như hạc”!
Lại
còn:
“Khóm
trúc xanh trong cung cấm (của ta) liệu có còn giống như ngày xưa hay không”?
Lại
thêm gió thu (heo hắt) thổi qua đám rau tần trắng bên dòng sông (Lô) lả lướt?
Quang
cảnh cuộc sống thanh bình những ngày xưa yêu dấu ở kinh thành Thăng Long cứ lũ
lượt hiện về trong tâm tưởng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. “Khóm trúc xanh” là
khóm trúc trong phủ đệ của ta. Đám rau tần trắng (bạch tần) là đám rau vật vờ lả
lướt bên sông Lô, (tức sông Hồng ngày nay) theo làn gió thu lành lạnh, ta thường
ra đó ngắm chơi. Không biết bây giờ quang cảnh ấy như thế nào. Ôi chao là nhớ.
Lòng nhớ quê cứ dào dạt dâng lên, khiến ta day dứt khôn nguôi.
Nhưng
trước mắt, hôm nay là ngày ta chúc thọ chính ta, Cụ Nam Tào cho ta sống đến hôm
nay là quý lắm rồi. Một mình ta uống với ta. Ta say với ta, với cái bóng của
ta, chếnh choáng, mơ màng. “Sáng sớm ở lầu Quỳnh, tự chuốc chén rượu ngon say
chếnh choáng”. Thế đấy! Thêm chén nữa nào. Ta ngất ngưởng say ta, say gió say
mây. Lầu Quỳnh (Quỳnh Lâu) nó là cái lầu chi nhỉ? Phải rồi, nó là cái lầu ở
cung điện trên cung trăng. Truyền thuyết của cái “thằng Tàu” nó chép như thế.
Ta đang uống rượu ngon ở cung tiên trên trời đây. Cho nên, ta cảm thấy “thân ta
như gần kề với tầng mây phía đông, ở chỗ sao Bắc Đẩu mọc”. Lòng ta sáng trong
như ngọc, điều ấy “chỉ có trời mới biết”. Ta đâu phải như Tấn Văn Công, chỉ muốn
mượn sức của ngoại bang về làm vua nước Tấn? Ta như ngài Vi Tử (Cơ Tử) muốn làm
vua ở nước khác, xây dựng cơ đồ ở nước khác. Đúng hơn là ta muốn đòi lại giang
sơn nước Nam Việt thời Triệu Vũ Đế huy hoàng. Ta muốn giành lại nước Lĩnh Nam
thời Hai Bà Trưng anh hùng liệt nữ. Ai biết cái chí lớn xoay trời chuyển đất của
ta nào! Cuộc đời vẻ vang của ta sẽ được sử sách lưu truyền mãi mãi.
Ấy
thế mà mấy trăm năm sau đã mấy người hiểu được tiếng lòng của ta, biết được
công lao vĩ đại của ta? Những kẻ có dăm ba chữ, cứ thấy chúng nó gào lên chửi
ta là đồ phản quốc. Chúng nó ngu si vô học thì cũng chả chấp làm gì. Nhưng có mấy
tay hàm vị cao ngất ngưởng, mà cũng ngu như lợn. Chúng cũng ông ổng tru lên chửi
ta là đồ phản quốc. Chỉ có mấy bài thơ của ta, mà chúng cũng không hiểu nổi,
thì thử hỏi rằng chúng làm được việc gì cho đất nước, hay chỉ làm cho con cháu
ta ngu muội dần đi? Lại còn con cháu họ Trần của ta, nhiều đứa giỏi giang lắm đấy.
Nhiều đứa được làm quan to, vàng bạc chất cao như núi. Ấy thể mà chúng chỉ ham
kéo bè kết cánh vun vén tư lợi, làm mất lòng dân. Một khi có giặc phương Bắc lại
kéo sang, thì dăm ba cái trò chọi gà, khoe mông khoe vú, liệu có thể dùng làm kế
đánh giặc được hay không? Nhà lầu dát vàng, vợ đẹp như tiên, liệu có bảo toàn
được trước sức mạnh của lũ giặc tham tàn hay không? A ha! Hừm! Rượu ngon làm
chén nữa đây.
Thôi
mặc! Tấc lòng son với đất nước Đại Việt của ta, trước sau rồi cũng được sáng tỏ
mà thôi. Ta say lắm rồi đây! Chếnh choáng rồi đây! Tạm biệt cái Lầu Quỳnh tràn
ngập hương thơm này nhé! Ta cắp be xuống chơi dưới trần gian, vừa đi, vừa gõ
be, vừa hát bài ca “Tương Tiến Tửu” của Trích tiên Lý Bạch. Lão ấy thơ quá hay.
Hừm! Tiên sư anh Tào Tháo!...
ĐẶC ÂN NHỎ, MÀ NIỀM VUI CỰC
LỚN CỦA TRẦN ÍCH TẮC
Kính
mời các bạn đọc, nghĩ tiếp về thơ Trần Ích Tắc!
(Tiếp
theo)
ĐẠI MINH ĐIỆN THỊ YẾN
Ban
bồi ngọc hốt thị hồng vân,
Nhật
biểu hi hi thụy khí ôn.
Vạn
phái triều tông thương hải khoát,
Chúng
tinh hoàn củng tử vi tôn.
Ung
dung “Trạm Lộ” ca thi thập,
Phảng
phất quân thiên nhập mộng hồn.
Cô
nghiệt thu hào giai để lực,
Nguyện
đàn trung xích báo thâm ân.
Dịch
nghĩa:
HẦU TIỆC Ở ĐIỆN ĐẠI MINH
Bầy
tôi cầm hốt ngọc vua ban đến hầu tiệc trước cửa cung vua,
Mặt
trời sáng rực, khí lành ấm áp.
Vạn
dòng nước triều chảy vào biển lớn,
Ngàn
sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm.
Ung
dung hát bài ca “Trạm Lộ”,
Phảng
phất trong hồn mộng thoáng nghe khúc nhạc “Quân Thiên”.
Chút
việc cỏn con của cô thần đều nhờ vào tài sức vua cả,
Nguyện
dốc hết lòng son báo đáp ơn sâu.
Dịch
thơ
Bầy
tôi hầu tiệc trước cửa cung,
Sáng
rực mặt trời, khí mát trong.
Vạn
nhánh nước triều vào biển lớn,
Ngàn
sao vây cạnh Tử Vi hồng.
Bài
ca “Trạm Lộ” ung dung hát,
Khúc
nhạc “Quân Thiên” thoảng cõi lòng.
Chút
việc cô thần nhờ vua cả,
Nguyện
dốc lòng son báo thánh ân.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Bài
thơ kể lại một sự việc có thực đương thời. Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt thống
trị Trung Hoa. Sau 3 lần thất bại nhục nhã trước Đại Việt nhỏ bé mà “bướng bỉnh”,
ông ta đã chuẩn bị kế hoạch chi tiết cho một cuộc tổng tấn công trả thù Đại Việt
lần thứ 4, với quy mô cực lớn. Lý do là vua Trần không chịu trực tiếp sang chầu.
Nguyên Mông sẽ dốc toàn lực của cả chín châu, tức cả nước Nguyên (tức cả Trung
Quốc), để quyết tiêu diệt tận gốc rễ của “tiểu quốc” khó bảo nhất, nhưng mà
cũng đáng sợ nhất, đó chính là cái “thằng cha” Đại Việt mà họ gọi là “nhược tiểu”
AN NAM.
Nhưng
mà Hốt Tất Liệt có lẽ là chưa uống đủ liều thuốc tiên, thuốc “Trường sinh bất
lão”, để có đủ sức mạnh kháng lại cái quy luật “sinh lão bệnh tử” của cõi người.
Thế nên, cuối cùng thì ông ta cũng già yếu rồi ốm chết. Đó chính là năm 1294.
Nhà Nguyên sai sứ đoàn do Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai dẫn đầu mang chiếu
thư sang Đại Việt thông báo việc vua mới lên ngôi. Vua mới ấy chính là Thiết Mộc
Nhi (Nguyên Thánh Tông), cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.
Thế
là cái mộng bành trướng của Hốt Tất Liệt chấm dứt từ đây. Mối lo của Đại Việt
và các nước chư hầu cũng theo đó mà vơi bớt. Người Trung Hoa cũng rất vui, là bởi
vì kẻ thống trị Trung Hoa tàn bạo nhất, đáng sợ nhất, cũng đã tiêu đời. Cháu Hốt
Tất Liệt là Thiết Mộc Nhi, sau thời gian ngồi ghế Đông cung Thái tử, đã được ngồi
lên ngai vàng.
Triều
đình nhà Nguyên đã sai sứ sang Đại Việt báo tin vua mới nhà Nguyên đã lên ngội.
Triều Trần sau đó cũng sai sứ sang đáp lễ.
Trần
Ích Tắc hiện đang là kẻ bề tôi của vua Nguyên. Ông cầm hốt (thẻ bàì của quan đại
thần) hầu tiệc vua Nguyên ở điện Đại Minh. Đây là tiệc lớn mừng ngày vui lớn (Đại
khánh) của vua Nguyên lên ngôi.
AN NAM QUỐC VƯƠNG Trần Ích Tắc, đã được Hốt Tất
Liệt phong chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, chẳng khác gì một sứ thần một nước
chư hầu, trong nhiều nước chư hầu vây quanh “thiên tử” (con trời), tựa như
“ngàn sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm”. Tác giả tỏ lòng ngợi ca vị vua
của các vị vua, mà chắc chắn vị quan nào, vị sứ thần nào cũng phải có lời ngợi
ca xã giao như thế, không thể khác. Và cũng không thể chê bai những con người
buộc phải diễn cho tròn cái vai mà mình phải sắm.
Quang cảnh ngày vui lớn (Đại khánh) được miêu
tả rất hoành tráng. Rất nhiều sứ thần các nước về kinh đô của “thiên triều” dự
lễ. Triều đình treo bảng VẠN QUỐC LAI TRIỀU (Vạn nước đến chầu). Trần Ích Tắc tỏ
ra rất vui mừng. Ông dùng ngôn ngữ khoa trương để tả cái cảnh yến tiệc linh
đình như chưa từng thấy, mà ông may mắn được tham dự.
Tác
giả viết:
Mặt
trời sáng rực, khí lành ấm áp.
Vạn
dòng nước triều chảy vào biển lớn,
Ngàn
sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm.
Toàn
là những hình ảnh ẩn dụ, để chỉ hình ảnh vua Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông)
và các quần thần, sứ thần đông đúc đang vây quanh nhà vua mới.
Tâm
trạng Trần Ích Tắc tỏ ra đặc biệt vui mừng.
Thi nhân “Ung dung hát bài ca “Trạm lộ”, tức bài thơ đầu tiên được chép trong
KINH THI, phần TIỂU NHÃ, miêu tả cảnh nhà vua ban yến tiệc cho quần thần. Và
tác giả thầm kín tâm sự với chính mình, như thấy “Phảng phất trong hồn mộng,
thoảng nghe khúc nhạc “Quân thiên”. Thực ra,“Quân Thiên” là chữ được rút gọn từ
“Quân Thiên quảng nhạc”, trong thần thoại của Trung Quốc, tức khúc hát trên
Thiên Đình. Chiêu Quốc Vương như đang lửng lơ ở trạng thái mơ và thực lẫn lộn,
cho thấy kích cỡ niềm vui thầm kín của ông, khi vừa hoàn thành một công việc có
ý nghĩa đại sự, với đất nước Đại Việt, và với cả chính ông. Không thể diễn tả
được chính xác trạng thái tâm lý này. Ông vui sướng đến mức như điên, vừa đi vừa
hát vang trời cái bài ca “Trạm Lộ”, tức bài ca vua ban yến tiệc cho quần thần
kia.
Hình như thi sĩ đang say sưa mơ màng, tưởng tượng
trong hồn mộng niềm sung sướng vô bờ, không thể tả được, không sao nói ra được.
Ông thầm nói với vua Nguyên, với cả chính lòng mình, rằng “Chút việc cỏn con của
cô thần, đều nhờ vào tài đức của vua cả”.
Thế là sao? Hình như Trần Ích Tắc muốn nói rằng,
cái “chút việc cỏn con” của ông, của một
kẻ “cô thần” như ông, ví như ông đã nhỏ to với Thiết Mộc Nhi thế nào đó, tham
mưu chính sự như thế nào đó, để vua Nguyên Thánh Tông đã đưa ra một quyết định
lớn, ban chiếu bãi binh chẳng hạn. Thực tế là, Thiết Mộc Nhi đã nghe lời khuyên
nên bãi binh của ông quan Tể tướng (Bình
chương Chính sự) Trần Ích Tắc. Chút việc “cỏn con” khiêm nhường của kẻ cô thần
chả đáng là gì, nhưng ông hiểu rằng đó là một sự kiện vô cùng lớn lao, liên
quan trực tiếp đến vận mệnh nước Đại Việt.
Theo
tác giả, đó chỉ là một “chút việc cỏn con” thôi. Nhưng đó lại là một đặc ân, với
tác giả và đồng nghĩa với nước Đại Việt. Một quyết định sáng suốt, có ý nghĩa lịch
sử vô cùng to lớn. Trần Ích Tắc đã lập được một chiến công vĩ đại. Bao nhiêu
năm kiên trì tô vẽ cho cái cái vỏ bọc là kẻ hàng thần, bây giờ ông đã thành
công mỹ mãn. Thì còn có niềm vui nào lớn hơn thế nữa đâu! Thiết Mộc Nhi đã nghe
lời khuyên của Trần Ích Tắc. Thế nên, ông mới chân thành, tự đáy lòng ông, nói
rằng thần sẽ đội ơn ngài, “Nguyện dốc tấc lòng son báo đáp ơn sâu”!
Bài thơ HẦU TIỆC Ở ĐIỆN ĐẠI MINH của Trần Ích
Tắc ẩn chứa nhiều thông tin huyền bí. Một bài thơ ẩn dụ toàn bài. Người đọc thơ
Trần Ích Tắc đời sau phải có cái tâm trong sáng, cái tuệ nhãn tinh tường, mới
có thể cảm thấu được!
BÀI CUỐI VÀ KẾT LUẬN VỀ
CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC
(còn
một số bài viết nữa về thơ Trần Ích Tắc, nhưng tôi tạm dừng ở đây)
Kính
mời quý bạn đọc và cùng suy nghĩ !
TRIỀU HỒI XUẤT ĐÔ THÀNH ĐẠO
TRUNG
Tây
phong mã hướng Vũ Xương thời,
Hà
niệm chanh hoàng giải chính phì.
Kim
điện trùng đồng ân vũ lộ,
Ngọc
đường chư lão cú châu ky.
Tiêu
tiêu đoản mấn xuy tàn tuyết,
Phất
phất quy tiên niểu tịch huy.
Bích
lạc vô vân nghi quyện hạc,
Thả
tùy thu nhạn cộng Nam phi.
Dịch
nghĩa:
VÀO CHẦU TRỞ VỀ, TRÊN ĐƯỜNG
RA KHỎI ĐÔ THÀNH
Khi
gió thu thổi, ta ruổi ngựa theo hướng Vũ Xương,
Xa
nhớ mùa cam chín vàng, mùa cua đang béo.
Ở
điện vàng, vua Thuấn ban ơn mưa móc,
Nơi
điện ngọc, chư lão cho lời ngọc châu.
Gió
thổi vù vù trên mái tóc còn đọng tuyết,
Roi
ngựa ve vẩy lay động cả ánh chiều.
Bầu
trời xanh biếc không mây, cánh hạc mỏi,
Hãy
theo chim nhạn mùa thu cùng bay về phương Nam.
Dịch
thơ
Gió
thu ruổi ngựa Vũ Xương,
Nhớ
quê cua béo, cam đường thơm ngon.
Điện
vàng, mưa móc ban ơn,
Ngự
tiền chư lão tặng thêm lời vàng.
Đầu
pha tuyết, gió quét ngang,
Vẩy
ve roi ngựa ánh vàng long lanh.
Mệt
nhoài cánh hạc trời xanh,
Hãy
theo chim nhạn bay nhanh về nhà.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Đây
là một bài, trong chùm thơ gần chục bài, Trần Ích Tắc thể hiện tâm trạng vui mừng
khôn tả của ông, khi vua Nguyên Thiết Mộc Nhi lên ngôi kế vị Hốt Tất Liệt. Khi
đã chính vị, Thiết Mộc Nhi bèn ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ. Chả là khi
còn sống, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị kế hoạch tổng tấn công quyết dốc toàn lực
tiêu diệt Đại Việt lần thứ 4,
Căn cứ vào nội dung chùm thơ Trần Ích Tắc viết
về sự kiện vô cùng quan trọng này, theo đó là tâm trạng vô cùng hứng khởi của
ông, người đọc thơ, không chỉ biết thưởng lãm cái hay, cái đẹp nghệ thuật của
tài thơ Trần Ích Tắc, mà còn phải suy ngẫm về nội dung tư tưởng, ngõ hầu tìm ra
những tình ý thầm kín ở phía sau câu chữ lạnh lùng. Hóa ra, Trần Ích Tắc đã bằng
cách nào đó, kiên trì, bền bỉ và khôn khéo tác động vào tư duy, vào ý chí của
Thiết Mộc Nhi (cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt), khiến ông ấy phải ban chiếu
bãi binh. Nghĩa là Thiết Mộc Nhi đã bãi bỏ kế hoạch tấn công Đại Việt lần thứ
4.
Xuất
xứ của bài thơ đã được nêu ở tên bài. Đó là khi “VÀO CHẦU TRỞ VỀ, TRÊN ĐƯỜNG RA
KHỎI ĐÔ THÀNH. Một khoảnh khắc quang cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Tâm trạng thi
nhân vô cùng vui vẻ, náo nức như chưa bao giờ ông được vui sướng đến như vậy.
Tác
giả viết:
Khi
gió thu thổi, ta gióng ngựa ruổi theo hướng Vũ Xương,
Xa
nhớ mùa cam chín vàng, mùa cua đang béo (ở quê nhà).
Ngồi
trên lưng ngựa rời khỏi Đại Đô (đô thành của nhà Nguyên), về hướng Vũ Xương,
lòng thi nhân nước Đại Việt bỗng nhớ quê nhà, với “mùa cam chín vàng” trải khắp
các vùng quê, từ trung du đến đồng bằng. Rồi thì bây giờ chính là thời điểm
“mùa cua đang béo” ở đồng bằng châu thổ sông Lô (sông Hồng). Xem thế đủ biết
lòng nhớ quê hương luôn thường trực, luôn day dứt cháy bỏng trong lòng kẻ lữ thứ
xa quê. Nhớ quê xa, lại bất chợt nhớ quang cảnh vừa mới diễn ra gần đây. Rằng “ở
nơi điện ngọc, các vị chư lão cho lời ngọc châu”…
Lời ngọc châu gì thế? Chả là ở cung điện triều
Nguyên, vua mới đăng quang là Thiết Mộc Nhi vừa ban chiếu bãi binh. Ta vui mừng
khôn xiết. Là bởi tờ chiếu bãi binh vừa được vua mới Thiết Mộc Nhi ban ra. Tờ
chiếu này có liên quan trực tiếp đến vận mệnh nước Đại Việt của ta. Không có cuộc
chiến tranh lần thứ 4 với Đại Việt nữa. Dân ta được sống trong hòa bình. Sinh
linh hai nước Việt Hồ không bị cuốn vào vòng xoáy binh lửa điêu tàn, núi xương
sông máu nữa.
Thế
thì quá vui rồi, quá sung sướng rồi. Lòng ta vui bất tuyệt. Bao nhiêu năm mong
chờ, điều ta ao ước, kiên tâm hành động và chờ đợi, nay đã thành công. Thế nên,
các vị chư lão, các quan đại thần khán chầu đều rất vui vẻ, hồ hởi tặng ta,
chúc mừng ta bằng những lời châu ngọc, quý báu vô cùng. Các vị chư lão đại thần,
có người Mông Cổ, có người Tống, có vị người Triều Tiên, Miến Điện, Nhật Bản và
nhiều nước khác. Họ chân thành tặng ta những lời tốt lành, đẹp đẽ như châu báu.
Là vì chỉ có ta là người đại diện cho nước Đại Việt ở đây, chẳng chúc mừng ta
thì còn ai nữa! Ta tự hào và sung sướng vô biên…
Bây giờ ta trở về Vũ Xương đường dài vất vả, mặc
cho “Gió thổi vù vù trên mái tóc cằn cỗi còn đọng tuyết sương”, nhưng lòng ta vẫn
chưa thôi cảm xúc tươi rói ở nơi cung điện vừa rồi. Ta vẫn vừa đi vừa nghĩ theo
cái cảm hứng bất tuyệt, cứ để cho chiếc “roi ngựa ve vẩy lay động cả ánh nắng
chiều”. Quả là một hình ảnh thơ rất giàu tính tạo hình, chứa chan mỹ cảm
Ô
kìa, ngẩng đầu lên, lại thấy:
“Bầu
trời xanh biếc, không một gợn mây, cánh
chim hồng hạc bay mỏi. Sau bao vất vả nhọc nhằn, bây giờ nhiệm vụ lớn đã
thành công, ta cũng tuổi cao rồi, mỏi mệt lắm rồi. Chúng ta không thể biết Trần
Ích Tắc đã lập ra kế hoạch gì, hành động như thế nào, cụ thể ra sao. Nhưng ta
biết người Tống đã nổi dậy chống Nguyên. Một viên Thái giám người Triều Tiên
cũng góp phần tha hóa triều đình nhà Nguyên. Cuối cùng thì triều đại Nguyên
Mông đã sụp đổ. Sự sụp đổ của triều đại Nguyên Mông, chắc chắn là có vai trò rất
lớn của cha con Trần Ích Tắc. (Tất nhiên, những biến động xã hội lớn này diễn
ra sau khi Trần Ích Tắc đã tuổi cao sức yếu và qua đời).
Thế
thì chẳng vui sao được? Một niềm vui vô tận vô cùng, không bút mực nào tả xiết.
Quả là:
Trời
còn để có hôm nay,
Tan
sương đầu ngõ, vén mây cuối trời!
KẾT LUẬN
Căn
cứ vào các tư liệu lịch sử, gạt bỏ những xác chữ bồng bềnh vô cảm ở sách này
sách kia, khiến người đọc đời sau chưa hiểu được chính xác và đầy đủ về nhân vật
lịch sử Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. Chúng tôi cho rằng, Trần Ích Tắc đã phải
cả đời hy sinh danh dự, để âm thầm thực hiện nhiệm vụ vô cùng cao cả, vì nghĩa
lớn, vì sự tồn vong của dân tộc Đại Việt, trước một thế lực ngoại bang hùng mạnh
nhất thế giới, cường bạo nhất thế giới, đó chính là đế quốc Nguyên Mông.
Đây
chính là vụ tổ chức tình báo chiến lược rất lớn, cực kỳ quan trọng, sau vụ tình
báo chiến lược của Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy, người anh em cùng cha khác mẹ của
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, do lãnh đạo nhà Trần đã kỳ công xây đắp, sau cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258).
Nếu như vụ tình báo chiến lược do Trần Nhật
Duy thực thi, thành công ở chỗ là đã khiến nội bộ Mông Cổ phải nghi ngờ lẫn
nhau, cụ thể là Mông Kha và Hốt Tất liệt, dẫn đến những cuộc chiến đẫm máu,
tranh đoạt lẫn nhau trong nội bộ Mông Cổ, đồng thời với cuộc chiến giữa nhà Tống
và Mông Cổ kéo dài, khiến Mông Cổ không rảnh tay để tiếp tục xâm lăng trả thù Đại
Việt ngay sau đó; thì trường hợp Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc trá hàng, thành
công ở chỗ, Trần Ích Tắc trong vai hàng thần, ông đã góp phần không hề nhỏ, làm
đế chế Nguyên Mông suy yếu. Đặc biệt, Trần Ích Tắc đã tác động tích cực, thông
qua Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi (cháu Hốt Tất Liệt), ngăn chặn được cuộc tấn
công xâm lược Đại Việt lần thứ 4, do Hốt Tất Liệt xây dựng kế hoạch từ năm
1293, trước khi Hốt Tất Liệt chết (1294). Đồng thời, Trần Ích Tắc đã cùng con
trai ông là Trần Hữu Lượng xây dựng được lực lượng vũ trang rất lớn mạnh, cùng
các tập đoàn nổi dậy khác như Chu Nguyên Chương, Trương Sĩ Thành, khuấy đảo
thiên hạ, khiến Nguyên Mông phải tan rã, rút chạy lên phía Bắc, thành lập triều
đại Bắc Nguyên. Đó chính là những điều đã sáng tỏ, không ai bác bỏ được.
Việc tiến hành nghiên cứu, giải mã thơ ca của
Trần Ích Tắc, chúng ta càng hiểu rõ thêm, tỏ tường hơn chân dung nhà tình báo
chiến lược vĩ đại Trần Ích Tắc. Theo đó là công lao không ai sánh nổi của ông,
trong việc đánh địch từ trong lòng địch, bảo vệ từ xa sự tồn vong của dân tộc Đại
Việt.
Hãy tưởng tượng mà xem, nếu không có sự ra đi
của Trần Ích Tắc, nhà Trần sẽ phải điêu đứng như thế nào, phải gồng mình lên chống
đỡ như thế nào, trước một tên đế quốc khổng lồ, cường bạo nhất thế giới trong lịch
sử nhân loại, nếu chúng được rảnh tay? Nhà văn Mỹ gốc Nga, từng đoạt giải
Nôbenl văn chương, đã viết: “Để hiểu được một con người, một dân tộc cả ngàn
năm trước, thì chỉ có thơ ca mới làm được điều đó mà thôi”. Với Chiêu Quốc
Vương Trần Ích Tắc, qua việc giải mã một số bài thơ còn lại của ông, cùng với
những chứng lý chúng tôi đã biện giải từ một số bài viết trước, đủ biết ông vĩ
đại đến chừng nào. Phải có con “mắt xanh”, có tầm và có cái tâm trong sáng, mới
cảm nhận được, mới đánh giá được đầy đủ và chính xác nhất về cuộc đời và sự
nghiệp vô cùng lớn lao của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.
Phải
trả lại sự thật cho lịch sử. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc phải được tôn vinh
là ANH HÙNG DÂN TỘC. Đó là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Đó chính là
lương tâm và trách nhiệm của tất cả chúng ta!
Hà
Nội ngày 6.11.2022
Nhà
văn VŨ BÌNH LỤC
THÊM MỘT TƯ LIỆU BỔ SUNG ĐỂ
HIỂU THÊM VỀ TRẦN ÍCH TẮC!
VĨNH BÌNH TRẠI SƠ PHÁT
Vương
sự thông mang cảm đạn lao,
Hiểu
phong suy lộ bát chinh bào.
Đẩu
Nam cung khuyết chiêm thiên cận,
Hán
Bắc quan san quá lĩnh cao.
Liệp
liệp Hán kỳ lăng thảo mãng,
Tiêu
tiêu Hồ mã kiết cung đao.
Tảo
tri thế lộ đa gian hiểm,
Tự
phụ bình sinh nại đắc lao.
Dịch
nghĩa:
MỚI RA KHỎI TRẠI VĨNH BÌNH
Việc
vua việc nước bận rộn đâu dám ngại khó nhọc,
Gió
sớm hắt sương thấm ướt chinh bào.
Từ
phía Nam sao Bắc Đẩu nhìn về cung khuyết nhà vua thấy còn gần,
Nơi
phương Bắc sông Ngân Hà vượt qua bao núi cao hiểm trở.
Gió
ù ù thổi, ngọn cờ nhà Hán phấp phới lướt dạt ngọn cỏ,
Nghe
tiếng ngựa rợ Hồ kêu khiến lòng rung rợn mà cung đao đeo bên mình (họ) dường
như phát tiếng kêu.
Nếu
sớm biết đường đời nhiều gian nan nguy hiểm như thế,
Thì
lúc còn trẻ tuổi đừng tự phụ cho rằng mình có thể chịu đựng nổi những nỗi gian
lao.
Dịch
thơ
Việc
vua đâu quản khó khăn,
Chinh
bào dường đã ướt đầm sương mai.
Trông
Bắc Đẩu, ngoảnh nhớ ai,
Ngước
sông Ngân, núi như dài cao hơn.
Tinh
kỳ quân Hán bay vờn,
Ngựa
Hồ lướt gió chập chờn cung đao.
Biết
đường đời lắm gian lao,
Bình
sinh chớ nói khó nào cũng qua!
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Theo
sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT), trại Vĩnh Bình thuộc Ung châu, giáp với
vùng Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn của nước ta. Thực ra, trại Vĩnh Bình thuộc đất Quảng
Tây, tức nước NAM VIỆT của dân Bách Việt ta, thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) dựng
lên, trong đó có tộc Lạc Việt nước Văn Lang, có nước Đại Việt ta thời nhà Trần.
Nước Nam Việt sau bị nhà Hán cướp mất. Năm 40 SCN, Hai Bà Trưng khởi nghĩa,
giành lại toàn bộ đất đai nước Nam Việt, bao gồm Lưỡng Quảng và quần đảo Hải
Nam ngày nay. Nhưng đến năm 43 SCN, nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng lại bị nhà
Hán cướp mất. Thời kỳ Bắc thuộc từ đó, kéo dài gần ngàn năm, nhưng cũng không hẳn
lúc nào nước ta cũng hoàn toàn bị “Bắc thuộc”.
Vĩnh
Bình là một trại lính kiêm trạm dịch dừng nghỉ của các sứ đoàn nước ta thời Trần
và của cả các sứ đoàn Đại Việt ở các thời kỳ Nguyên, Minh, Thanh sau đó. Trên
đường đi sứ, Nguyễn Trung Ngạn cũng ghé dừng nghỉ ở đây.
Mở
đầu bài thơ, thi nhân đã viết:
Việc
vua việc nước bận rộn đâu dám ngại khó nhọc,
Gió
sớm hắt sương thấm ướt chinh bào.
Hai
câu đầu, tả khái quát về một chặng hành trình mới, trên đường tiến lên phương Bắc.
Từ trại Vĩnh Bình (Quảng Tây), ra đi vào lúc sáng sớm, khi mà trời còn nhiều hơi
sương, khiến cho áo “chinh bào cũng phải thấm ướt”. Vị Chánh sứ cưỡi ngựa, hay
là đi kiệu? Không thấy mô tả kỹ ở đây, như ở bài VŨ DOANH ĐỘNG chẳng hạn. Hoặc
giả là tác giả bài thơ đã ví việc đi sứ, như là một cuộc chiến, cho dù đó là một
cuộc chiến ngoại giao? Dù thế nào, hai câu đầu cũng cho thấy rõ địa điểm xuất
phát, thời gian ra đi, và cả cái không gian cùng cảnh ngộ của người ra đi.
Cũng
chưa lấy làm thỏa mãn với giả định của mình, tôi phải đọc lại cuốn ĐẠI VIỆT SỬ
KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) thấy chép: “Mùa đông, tháng 11, vua (Dụ Tông) ngự điện
Thiên An, duyệt cấm quân ở Long Từ, cho Trung Ngạn (Nguyễn Trung Ngạn) mặc chiến
bào, đội mũ võ, đeo bài gỗ vuông bịt vàng…”. Có lẽ đó cũng là chiếc áo chiến
bào (chinh bào) mà Nguyễn Trung Ngạn mặc khi đi sứ lần này chăng? Mặc dù, theo
nghĩa chung, thì “chinh bào” là để chỉ chiếc áo mặc của những kẻ lữ thứ nói
chung…
Câu 3 và 4, tả thực. Mới là châu Ung, giáp với
biên giới Đại Việt, nên nhìn sao Bắc Đẩu, còn thấy xa vời vợi ở phương Bắc, do
vậy, “Nhìn về cung khuyết (của triều Trần), thấy trời còn đang ở rất gần”.
Thực ra, đó chỉ là khoảng cách về tâm lý, hơn
là khoảng cách về không gian cụ thể. Câu 3, vẫn là cảm giác tâm lý: “Nơi phương
Bắc sông Ngân Hà, vượt qua núi non, có cảm giác (như núi có vẻ) cao hơn”. Hai
câu thơ 3 và 4, đều tập trung tả cảm giác ở hướng nhìn lên cao. Đường lên Đại
Đô (sau gọi là Yên Kinh, tức Bắc Kinh) nhiều núi non sông ngòi hiểm trở, mỗi bước
đi, có cảm giác như núi non đang cao dần lên. Cảm giác về địa lý, cũng có thể
kèm theo là cảm giác tâm lý, khi mà mỗi bước tiến lên phương Bắc, là mỗi bước
thêm gian khổ, khó khăn, không ít hiểm nguy.
Hai
câu 5 và 6, vẫn tiếp tục tả thực.
Cờ
Hán phất phới lướt dạt ngọn cỏ,
Ngựa Hồ băng băng lăm le cung đao.
Đây
có lẽ chính là những đội quan quân của ai đó, mang cờ Hán, từ trại Vĩnh Bình, hộ
tống sứ đoàn về kinh đô chăng? Nhưng, sách ĐVSKTT cho hay, năm 1355, Nguyễn
Trung Ngạn được cử làm “Kinh lược sứ” trấn Lạng Giang, “Nhập nội Đại Hành khiển,
Thượng thư hữu bật, kiêm Tri khu Mật viện, thị Kinh diên Đại học sĩ”, tước “Trụ
quốc Khai huyện Bá”. Có thể, từ vị trí quản lý khu vực biên giới phía Bắc này,
Nguyễn Trung Ngạn được giao việc đi sứ chăng?
Được
biết, năm 1359, Chu Nguyên Chương đánh nhau với Trần Hữu Lượng, chưa phân thắng
bại. Trần Hữu Lượng là con của Trần Ích Tắc, theo cha chạy sang “hàng” quân
Nguyên. Cho đến thời điểm này, Trần Hữu Lượng đã giành được chính quyền, chiếm
phủ Thái Bình, mở rộng đến vùng trung lưu sông Trường Giang lúc bấy giờ. Trần Hữu
Lượng xưng Hán Đế (vua Hán), gọi tên nước là Đại Hán, đối địch với Chu Nguyên
Chương (người Hán). Đây là sách lược khôn khéo, hay là một cách thu phục sự ủng
hộ của người Hán, mà thực chất trong tay Trần Hữu Lượng là toàn bộ dân Bách Việt
ở Lưỡng Quảng, cùng với dân Hán ở phủ Thái Bình, bên kia biên giới hiện nay.
Trần
Hữu Lượng đã không dưới ba lần sai sứ sang Đại Việt yêu cầu Trần Dụ Tông hợp sức
đánh quân Nguyên, rồi đánh Chu Nguyên Chương, nhưng Dụ Tông không nghe. Thực
ra, thời vua Trần Dụ Tông, Đại Việt đã suy yếu lắm rồi. Muốn giúp, cũng không
thể. Trần Dụ Tông chỉ cho một sứ đoàn sang thăm dò tình hình bên kia biên giới
mà thôi. Vậy sứ đoàn do Nguyễn Trung Ngạn cầm đầu, được cử sang bên kia biên giới,
chỉ có nhiệm vụ xem xét tình hình chiến sự, thêm cả cái việc đề phòng có thể một
lực lượng vũ trang nào đó bất ngờ tràn qua biên giới? Nghiên cứu thơ Nguyễn
Trung Ngạn, thì thấy ở thời điểm này, đoàn quân của Nguyễn Trung Ngạn chỉ quẩn
quanh ở vùng núi non rất nhiều lam chướng, vô cùng khổ cực. Thế nên, tâm trạng
nhà thơ tỏ ra rất buồn chán. Bốn tháng sau, Nguyễn Trung Ngạn có chiếu thư triệu
hồi về Thăng Long.
Vậy
cờ Hán ở bài thơ này, chính là cờ Hán của quân Trần Hữu Lượng. Còn như “ngựa Hồ”,
là để chỉ quân Nguyên Mông chứ không phải chỉ là để đối với “Cờ Hán” cho chỉnh
câu văn. Thời điểm này, nhà Nguyên đã bị thất thế. Họ chuẩn bị rút chạy lên
phương Bắc, lập ra triều đại Bắc Nguyên. Ở Trung Nguyên, chỉ có ba tập đoàn mới
nổi dậy tranh chấp với nhau: Trần Hữu Lượng (người Việt), Chu Nguyên Chương
(người Hán) và Trương Sĩ Thành (người Hán).
Nhưng
qua miêu tả của tác giả, thấy rằng nước sở tại (Triều Đại Hán tự xưng của Trần
Hữu Lượng) đã có ý diễu võ giương oai trước mặt sứ đoàn, cốt chỉ để phô trương
thanh thế mà thôi.
Hai
câu kết, thể hiện nhận thức, sự tỉnh ngộ về con đường Danh của tác giả:
Nếu
sớm biết đường đời nhiều gian nan nguy hiểm thế này,
Lúc
bình sinh đừng tự cho rằng mình có thể bền bỉ chịu đựng được.
Đây
mới chỉ là những thử thách bước đầu. Đối chiếu hoàn cảnh lịch sử, tôi cho rằng
đây là lần đi sứ thứ hai của Nguyễn Trung Ngạn, dưới thời vua Trần Dụ Tông trị
vì. Cuộc đi sứ lần này của Nguyễn Trung Ngạn gặp rất nhiều khó khăn, khổ ải giữa
chốn núi non trùng điệp mênh mông, lam chướng nghìn trùng. Cho nên tâm trạng
nhà thơ rất buồn chán, thất vọng.
Một
số bài thơ khác, Nguyễn Trung Ngạn viết ở lần "đi sứ" thứ hai này,
tác giả cũng nói rõ thông tin về nhiệm vụ ông phải làm, như chúng tôi đã nói ở
trên. Ví như ở bài thơ NGHE THÁNH CHỈ TRIỆU VỀ, CÓ CẢM XÚC, tác giả viết:
Triều
đình giặc không mưu toan tiến đánh phương Nam,
Đành
để cho chàng Tô tóc trắng mới trở về.
(Lỗ
đình bất tác chinh Nam kế / Nhẫn sứ Tô Lang bạch phát hoàn)
Thế
nghĩa là, triều Đại Hán của Trần Hữu Lượng không có ý đánh xuống phương Nam hay
chăng? Hoặc giả là triều đình Nguyên Mông, hiện đang khốn quẫn vì các cuộc chiến
với một số thế lực mới nổi dậy, ví như Trần Hữu Lượng đã chiếm hết Lộ Thái Bình
và phần lớn Trung nguyên, cho nên, nhà Nguyên không có hơi sức đâu để nghĩ kế
đánh xuống nước ta nữa. Sau 4 tháng quan sát ở vùng biên giới biên kia, Nguyễn
Trung Ngạn mới được triệu hồi về Thăng Long...
Thực
tế này cho thấy một thông tin rất thú vị, rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc
sang “hàng” nhà Nguyên, chỉ là một cái mẹo trá hàng tinh vi. Con trai ông, Trần
Hữu Lượng là kết quả của nhiều năm kiên trì xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh,
đặt quốc hiệu Đại Hán, làm vua nước Đại
Hán. Nếu may mắn thì làm gì còn có nhà Minh nữa? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc
là một nhà tình báo báo chiến lược vĩ đại thế đấy!
VBL
Nguồn: FB Vũ Bình Lục và trang trannhuong.com
Cảm ơn nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống đã kỳ công sưu tầm tư liệu rất quý về họ Trần !
Trả lờiXóaLịch sử có những góc khuất mà hàng trăm, hàng nghìn năm sau mới sáng tỏ ! Những nhà tình báo chiến lược vĩ đại thường có số phận bi đát , vinh quang ít khi đến với họ khi còn sống vì họ hoạt động đơn tuyến và cấp trên của họ chỉ là 1 hoặc 2 người lãnh đạo tối cao !!!
Cám ơn nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống đã tìm và mở ra cổng thông tin mới cho hậu thế
Trả lờiXóa