Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

TRẦN ÍCH TẮC PHẢI ĐƯỢC TÔN VINH LÀ ANH HÙNG DÂN TỘC! / Vũ Bình Lục

 



Trần Ích Tắc (1253-1329) là Hoàng tử con vua Thái Tông Trần Cảnh, do bà Vũ Phi (Vũ Thị Vượng, quê Nam Định) sinh ra. Bà Vũ Thị Vượng là bà Phi thứ 5 của Thái Tông Trần Cảnh. Văn bia làng Miễu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cho ta biết thông tin rất quan trọng, mà sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) và các sách sử khác không thấy chép. Đó chính là thông tin có từ tấm bia ở miếu cổ làng Miễu, chép rằng bà Vũ Thị Vượng là người đã sinh ra Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Chưa có tư liệu về hành trạng Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, nhưng hai người con thứ Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật đều xứng đáng được xếp vào bậc thiên tài.

       Sách ĐVSKTT chép việc Trần Ích Tắc đem cả gia quyến chạy sang “hàng” nhà Nguyên, vào ngày 15.3 năm 1285, tức khi giặc Nguyên Mông tấn công Đại Việt lần thứ 2. Tuy nhiên, theo Lê Quý Đôn, “một tài liệu lịch sử, cho dù có hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được”. Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đã theo kế sách trá hàng, chạy sang hàng ngũ quân Nguyên để trở thành nhà tình báo chiến lược vĩ đại. Điều này khá bất ngờ, là bởi lâu nay người đời cứ tin tưởng vào sách vở, mà không hề biết thực tế như thế nào. Số phận của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc không khác gì những nhà tình báo chiến lược ngày nay. Họ phải hy sinh rất nhiều, đặc biệt là về tiếng tăm, danh dự cá nhân.

       Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Trần Ích Tắc có công lao rất lớn, cực lớn với nhà Trần và với nước Đại Việt ta. Những hiểu biết sai lầm của “người trần mắt thịt”, rồi sẽ được giải tỏa. Lịch sử sẽ lại viết những trang tươi đẹp về cuộc đời nhân vật lịch sử Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. Điều này tôi tin là chắc chắn!

       Tác phẩm của Trần Ích Tắc còn thấy CÙNG CỰC LẠC NGÂM TẬP (gồm 5 quyển). Lê Quý Đôn chép vào sách TOÀN VIỆT THI LỤC 15 bài. Thế đủ biết rằng Lê Quý Đôn không hề tin rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là “một tên phản quốc”, như những lời bình luận, cáo buộc của “người trần mắt thịt” ngày nay!

       Chúng tôi đã để khá nhiều thời gian để giải mã cuộc đời Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc qua những biện giải, đối chiếu các tư liệu lịch sử, để chứng minh rằng Trần Ích Tắc không phải là kẻ phản bội, tham sống sợ chết mà đầu hàng giặc Nguyên Mông. Đặc biệt là việc nghiên cứu, giải mã hơn chục bài thơ còn lại của Trần Ích Tắc, được học giả Lê Quý Đôn đưa vào sách TOÀN VIỆT THI LỤC, một tác phẩm vô giá của Quế Đường tiên sinh.

       Một dân tộc mất thơ ca, là mất tất cả. Thơ phóng chiếu lịch sử chính xác nhất. Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu nội dung và nghệ thuật thơ Trần Ích Tắc, để chứng minh rằng, Trần Ích Tắc đã “diễn” trọn vai nhà tình báo chiến lược vĩ đại như thế nào. Tấm lòng son chói sáng của ông với triều Trần và đất nước Đại Việt như thế nào. Chính ông, bằng cách nào đó, đã góp phần khiến vua mới (Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi), cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, đã quyết định ban chiếu bãi binh. Nước Đại Việt đã may mắn thoát khỏi một cuộc chiến tranh đẫm máu lần thứ 4. Tâm trạng Trần Ích Tắc sung sướng như chưa bao giờ sung sướng đến như vậy. Còn đây là bài thơ XUẤT QUỐC, xem như bản di chúc của Trần Ích Tắc để lại cho đời sau. Chúng tôi xin phân tích đầy đủ cả bài, để bạn đọc suy ngẫm.

              XUẤT QUỐC

       Đương niên trượng nghĩa xuất Nam bang,

       Cảnh cảnh đan trung đối bi thương.

       Bất vị Văn Công đào Tấn nạn,

       Thử ky Vi Tử kế Ân vương (vong).

       Cơ cừu vị mẫn tiên nhân chí,

       Giản sách ưng lưu vạn cổ phương.

       Hoàn vũ xa thư hội đồng nhật,

       Cố gia tông tự Việt sơn trường.

Dịch nghĩa:

              RỜI ĐẤT NƯỚC

Năm đó, vì trọng nghĩa mà rời khỏi nước Nam,

Tấc lòng son canh cánh (của ta) chỉ trời xanh mới biết.

Chẳng phải (như) Văn Công bỏ nhà Tấn lúc nguy nan,

(Mà) ngõ hầu (như) Vi Tử nối dõi nhà Ân đã mất.

Chí nối nghiệp cũ của cha ông vẫn không hề tiêu tan,

Nên để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.

Đến ngày bờ cõi thống nhất cùng gặp gỡ,

Thì dòng dõi cha ông nối tiếp, lâu bền như núi non nước Việt vậy!

Dịch thơ

       Trọng nghĩa, nên ta rời Đại Việt,

Trời xanh mới biết tấm lòng son.

Chẳng phải Văn Công rời Tấn quốc,

Mà như Vi Tử muốn Ân còn.

Chí nối nghiệp xưa luôn tạc dạ,

Tiếng thơm truyền mãi sử không mòn.

Một mai thống nhất giang sơn ấy,

Dòng dõi cha ông vững Việt non.

                           (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Chỉ cần hiểu kỹ nội dung bài thơ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người đọc ngày nay mới có thể hiểu rõ tâm sự của ông, muốn nhắn gửi đến muôn đời sau sự thật về cuộc đời phải hy sinh vì lợi ích lâu dài cho đất nước. Nếu hiểu được nội dung bài thơ, chúng ta sẽ hiểu ngay rằng, Trần Ích Tắc không phải là kẻ “phản quốc” như cái tiếng xấu ông phải mang vác nó, đeo đẳng nó theo suốt cuộc đời ông. Đó chính là một sự hy sinh vĩ đại của một nhà tình báo chiến lược vĩ đại.

       Mở đầu bài thơ, Chiêu Quốc Vương viết:

       Đương niên trượng nghĩa xuất Nam bang,

       Cảnh cảnh đan trung đối bi thương.

       Năm ấy (đương niên), là vì trọng nghĩa (với triều Trần, đồng nghĩa với nước Đại Việt), cho nên, ta mới phải rời Nam bang, tức nước Đại Việt của ta. Chứ đâu phải là ta bỏ mặc quê nhà trong lúc nguy khốn mà chạy sang nương náu cửa người, để kiếm chút lợi nhỏ. Tấm lòng trung nghĩa của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!

       Đó là một sự khẳng định. Đương nhiên, đó cũng là điều hết sức bí mật. Có lẽ, lúc bấy giờ chỉ có Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Thái sư Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Tung, biết chuyện này.

       Lãnh đạo triều Trần đã bí mật tổ chức một cuộc đào tẩu, trá hàng một cách tinh vi, hoàn hảo đến mức ngoạn mục như vậy. Trong khi những nhà chép sử thì cứ vô tư chép đại ý: “Trần Ích Tắc cực kỳ thông minh. Ông tự cho mình là thông minh tài giỏi hơn tất cả các vị Hoàng tử nhà Trần. Mới 14 tuổi, Ích Tắc đã được phong tước Chiêu Quốc Vương. Khi 15 tuổi đã muốn được làm vua. Không thỏa chí thì sinh ra bất bình, bèn đem theo cả gia quyến, bỏ nước chạy sang nhà Nguyên”. Đó là ngày 15-3-1285. Một cuộc tẩu thoát không hề có ai ngăn chặn. Thế là sao?

       Chuyện “năm ấy” là vậy. Nhưng tấm lòng “vì nghĩa” lớn của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!

       Tác giả viết tiếp:

Bất thị Văn Công đào Tấn nạn,

Thử ky Vi Tử kế Ân vương (vong).

Thế là sao? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nói rằng, ta không phải là kẻ như Văn Công bỏ nhà Tấn trong lúc nguy nan đâu. Mà ta như ngài Vi Tử kia, muốn nối dõi nhà Ân đã mất.

       Rõ là hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đời xưa, tình cảnh đối lập nhau. Tấn Văn Công (697 TCN – 628 TCN), chính là công tử Trùng Nhĩ. Hồi nước Tấn loạn, các vị công tử tranh đoạt ngôi báu. Công tử Trùng Nhĩ bèn đem theo một số tùy tùng bỏ nước Tấn chạy sang lánh nạn ở nước ngoài. Được nước ngoài giúp đỡ, công tử Trùng Nhĩ đem quân về giành được ngôi báu. Đó chính là Tấn Văn Công. Tấn Văn Công là thế đấy. Nhưng ta tuyệt nhiên không phải như Tấn Văn Công, thấy nước nguy nan mà bỏ nước ra đi, để sung sướng lấy một mình!

       Ngược lại, ta như ngài Vi Tử kia, muốn nhà Ân còn mãi, tức là ta muốn nhà Trần còn mãi, cho nên phải bỏ nước ra đi, gánh vác nhiệm vụ mới vô cùng nặng nề và cũng vô cùng nguy hiểm. Vậy Vi Tử là ai? Vi Tử, tức Cơ Tử (là anh của vua Trụ (có sách nói là chú vua Trụ nhà Ân (Thương). Vua Trụ tàn ác lắm. Vi Tử khuyên can, nhưng Trụ chẳng nghe, còn sai bắt Vi Tử giam vào ngục, chờ giết. Vi Tử phải giả điên, mới thoát chết. Kịp khi Chu Vũ Vương diệt Trụ, Vi Tử không chết theo nhà Ân. Ông nhận tước phong của Chu Vũ Vương. Vũ Vương cho Cơ Tử (Vi Tử) làm vua nước Triều Tiên. Chính Vi Tử là người đem chữ Hán và văn hóa Trung Hoa truyền sang Triều Tiên, tương tự như Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang truyền bá ở Giao Châu, mà các nhà Nho nước ta tôn vinh Sĩ Nhiếp là NAM GIAO HỌC TỔ vậy.

       Nhắc điển này, Trần Ích Tắc muốn nói điều gì? Tất nhiên là ông muốn nói rằng, cái việc ra đi của ông là khác hẳn Tấn Văn Công, chỉ muốn nhờ thế lực ngoại bang để quay về làm vua nước Đại Việt (Nam bang) đâu! Ông muốn như Cơ Tử, xây dựng thế lực mới, mở rộng lãnh thổ nhà Trần về phương Bắc. Vậy đấy. Trần ích tắc thông minh mưu lược như vậy, đương thời, ngoài mấy vị lãnh đạo chủ chốt, thì ai biết? Các nhà chép sử nước ta, ai biết? Họ cứ thấy hiện tượng như vậy thì chép như vậy, chứ đâu biết thực chất câu chuyện bí mật kia nó như thế nào? Cũng không thể trách cứ được họ.

       Thực tế thì sao? Với cương vị rất Cao mà Hốt Tất Liệt trao cho ông (chức Hồ Quảng Bình chương Chính sự - Tể tướng) Trần Ích Tắc đã cùng con trai của mình âm thầm xây dựng được một lực lượng quân sự hùng mạnh, chủ yếu là người Bách Việt. thuộc Lưỡng Quảng ngày nay. Nhà Nguyên suy yếu dần. Một số thế lực mới nổi dậy tranh giành đất đai, ai cũng muốn làm chủ Trung Nguyên. Nhà Nguyên phải rút chạy lên phía bắc, thành lập nhà Bắc Nguyên. Vùng Trung Nguyên chỉ còn ba thế lực tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau.

       Thế lực của Trần Hữu Lượng mạnh mẽ nhất. Ông lấy quốc hiệu là Đại Hán, treo cờ Hán. Lực lượng quân đội có tới sáu bảy chục vạn tinh binh, chiếm lĩnh phủ Thái Bình (Quảng Tây) và cả vùng trung lưu sông Trường Giang. Sau đó là thế lực của Chu Nguyên Chương. Còn lại là Trương Sĩ Thành. Tình thế chiến cuộc giống như thời Tam Quốc vậy. Có tài liệu Trung Quốc chép rằng Trần Hữu Lượng không phải là con trai Trần Ích Tắc. Nhưng đó chỉ là tài liệu ngụy tạo mà người Trung Quốc muốn làm méo mó sự thật lịch sử mà thôi. Cái mẹo “khôn khéo” này, người Trung Quốc vốn là bậc thầy. Thế nên, các thế hệ người Việt bị lừa bịp, hoang mang, nghi ngờ. Họ lừa bịp cả thế giới, chứ chả phải chỉ mấy anh người Việt hiền lành chất phác đâu!

       Ví thử nếu muốn trở về Đại Việt chiếm lấy ngôi vua, Trần Hữu Lượng (con trai Trần Ích Tắc – ĐVSKTT) với sáu bảy chục vạn tinh binh, thủy quân gồm nhiều hạm đội lớn, thì việc đoạt lấy ngai vàng nhà Trần, bấy giờ là Vua Trần Dụ Tông hèn kém, chắc dễ như trở bàn tay. Nhưng mà, “Ta chẳng phải như Tấn Văn Công” hèn hạ thế đâu! Nhưng trời không giúp Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lực lượng chỉ bằng một phần ba Trần Hữu Lượng, nhưng nhờ có quân sư lưu Bá Ôn rất giỏi mưu lược, cuối cùng, Chu Nguyên Chương đã chiến thắng. Lưu Bá Ôn tài năng chả kém gì Khổng Minh, đã dùng kế hỏa công đánh bại hạm đội hùng hậu của Trần Hữu Lượng trong trận quyết chiến chiến lược trên hồ Bà Dương. Bị một mũi tên lạc trúng vào đầu, Trần Hữu Lượng hy sinh tại trận. Quân sĩ mất vua, mất tướng chỉ huy, tan rã sau hơn hai tháng chiến đấu quyết liệt trên hồ Bà Dương, còn gọi là hồ Bành Lãi, thông ra sông Trường Giang.

       Chu Nguyên Chương sau đó tiếp tục đánh bại Trương Sĩ Thành, thống nhất thiên hạ, lập ra nhà Đại Minh. Ví thử, Trần Hữu Lượng chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược trên hồ Bà Dương, thì làm gì còn có nhà Minh nữa? Đất đai nhà Trần sẽ rộng lớn thế nào? Chẳng phải là không thua kém gì sự nghiệp của Triệu Vũ Đế, vua nước Nam Việt hay sao?

       Chiêu Quốc Vương khẳng định:

       Chí nối nghiệp cũ cha ông (của ta) vẫn không hề tiêu tan,

       Nên để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.

       Và Chiêu Quốc Vương mơ ước cái ngày thắng lợi:

       Đến ngày bờ cõi thống nhất, (chúng ta) cùng gặp gỡ,

Thì dòng dõi (cha ông) nối tiếp, lâu bền như núi non nước Việt vậy!

       Một niềm tin tưởng sáng tươi!

       Bài thơ XUẤT QUỐC của Chiêu Quốc Vương như một di cảo vô giá, để lại tâm sự và ước nguyện của ông cho đời sau. Những văn bản đã được viết ra ở mọi thể loại, mọi thời đại sau, đều chỉ là những điều trông thấy, những điều nghĩ của những người ngoài cuộc. Thực chất của vấn đề là ở phía sau hiện tượng trông thấy cho một kịch bản trà trộn vào đối phương, leo cao chui sâu để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Con cháu đời sau như chúng ta, cần phải tỉnh táo, suy ngẫm cho thấu đáo, không phải chỉ để vén lên bức màn huyền bí của lịch sử, mà còn chiêu tuyết cho một nhân vật lịch sử, một người con anh hùng của đất nước phải cam lòng gánh chịu oan khuất mấy trăm năm.

 

       TRIỀU TRẦN VÀ CHIẾN LƯỢC TÌNH BÁO

 

       Một nhà quân sự bình thường, ít nhất, ai cũng phải hiểu câu “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”!

       Để làm rõ thêm nội dung bài thơ XUẤT QUỐC của Trần Ích Tắc, chúng tôi xin nêu thêm một số lý do cụ thể:

 

       1

        Chỉ xét riêng về công việc tổ chức màng lưới tình báo chiến lược, trong lịch sử ngàn năm ở nước ta dưới thời phong kiến, không có triều đại nào có thể so sánh với triều đại nhà Trần. Đó là một sự khẳng định.

       Ngay từ cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, triều Trần, dưới sự lãnh đạo tài giỏi của tầng lớp quý tộc tinh hoa, đứng đầu là Thống soái tối cao Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ (1194 - 1264). Triều đình đã nhân việc Mông Cổ yêu sách An Nam (Đại Việt) 6 điều, trong đó có yêu sách triều Trần phải đưa Thái tử sang Mông Cổ làm con tin. Nhân việc này, triều Trần đã tiến hành tổ chức đoàn tình báo chiến lược đầu tiên.

       Trần Thủ Độ là cháu ngoại của nhà Hậu Lý. Cha ông là Trần Thủ Huy, Phò Mã nhà Lý. Mẹ ông là công chúa Đoan Nghi. Trần Thủ Độ được sinh ra trên đất khách, ở một bến đò, cho nên ông được cha mẹ đặt tên là ĐỘ (bến đò). Ông lớn lên ở Mông Cổ, chơi rất thân với Ngột Lương Hợp Thai, viên Thái sư Mông Cổ sau này đã đem quân xâm lược Đại Việt năm 1258. Quân Mông Cổ bị bao vây ở Thăng Long. Ngột Lương Hợp Thai phải viết thư nhờ Trần Thủ Độ nể tình xưa nghĩa cũ, mở vòng vây, cho phép quân Mông Cổ được rút khỏi Thăng Long an toàn. Trần Thủ Độ, bấy giờ là Thống soái tối cao, đã bàn bạc với triều đình, để tránh việc vì tình cảm riêng mà coi nhẹ việc nước. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Đại Việt đã quyết định chấp nhận đầu hàng, mở vòng vây để quân Mông Cổ được về nước trong an toàn và danh dự.

       Cuộc kháng cự của quân Mông Cổ chỉ diễn ra được vẻn vẹn trong vòng 1 tháng, đúng như Thái sư Trần Thủ Độ đã nói với vua và triều đình. Bởi chính ông đã nắm chắc phần thắng trong tay. Thế là sao? Là vì ông đã sống trên đất Mông Cổ, đã hiểu biết rất rõ Mông Cổ về mọi mặt. Ông phát hiện, chỉ ra chỗ yếu, chỗ mạnh của quân Mông Cổ. Họ rất mạnh về kỵ binh. Lính kỵ binh Mông Cổ vô địch trên các chiến trường bằng phẳng. Họ còn chế ra máy bắn đá để công thành. Họ đánh bại cả châu Âu, châu Á. Họ đang gặm nhấm con mồi to béo nhưng rất yếu ớt là nhà Tống. Nhưng họ thất thế trên chiến trường đồng lầy, nhiều sông ngòi và lam chướng ở Đại Việt. Kỵ binh họ sẽ không phát huy được tác dụng. Ta không xây thành trì vững bền, cho nên máy bắn đá của họ cho dù rất ghê gớm, nhưng cũng chẳng để làm gì. Thành trì của ta là lòng dân, là làng xóm phân tán. Chỉ trong khoảng một tháng, quân Mông Cổ nhất định sẽ bị đánh tan. Đó chính là chỉ đạo của Thái sư Trần Thủ Độ với các quan chức triều Trần, phần đông đều là con cháu của ông cả.

       Chẳng thế mà khi quân Mông Cổ tiến như vũ bão, quân Trần rút lui chiến lược, phải bỏ lại Thăng Long. Vua Trần chèo thuyền đến hỏi ý kiến Trần Nhật Hạo, ông này sợ vãi đái, miệng méo không nói được, phải chấm ngón tay vào nước viết lên mạn thuyền hai chữ “Nhập Tống”, nghĩa là chạy sang nước Tống. Thất vọng quá, vua Trần Cảnh lại chèo thuyền đến hỏi ý kiến Thái sư, rằng nên hàng hay nên đánh? Trần Thủ Độ, Thống soái tối cao bình tĩnh trả lời, rằng “ĐẦU TÔI CHƯA RƠI XUỐNG ĐẤT, XIN BỆ HẠ ĐỪNG LO”. Đấy, không biết địch biết ta, không có tầm nhìn chiến lược rộng lớn, không có ý chí quyết thắng, thì tại sao Trần Thủ Độ lại có niềm tin chắc thắng như vậy! Sử ta chép “Trần Thủ Độ ít học, nhưng là người mưu lược”, là bởi các vị ấy không biết gì nhiều về nhân vật vĩ đại này. Họ chỉ biết Trần Thủ Độ là dân đánh cá ở Hải Ấp, Thái Bình, cháu Trần Lý. Họ đâu biết Trần Thủ Độ là cháu ngoại nhà Lý, nhà quân sự và chính trị đại tài, chuyên gia hàng đầu về Mông Cổ!

       Quả nhiên, sự thật cuộc chiến đã diễn ra như kế hoạch tác chiến. Chỉ đáng tiếc một điều là ông Thái úy Trần Nhật Hạo đã không tuân lệnh của Tiết Chế Trần Quốc Tuấn. Trần Nhật Hạo đã đem quân tinh nhuệ đối đầu trực tiếp với quân Mông Cổ trên cánh đồng Văn (Vĩnh Phúc), bị quân Mông Cổ đánh cho tơi tả. Ba bốn hiệu quân tinh nhuệ do Trần Nhật Hạo chỉ huy gần như bị quân Mông Cổ tiêu diệt.

       Chính sử nước ta chỉ biết về giai đoạn Trần Thủ Độ ở với Trần Lý trở về sau, chứ các nhà chép sử không hề có thông tin gì về Trần Thủ Độ trước đó. Cha ông (Trần Thủ Huy) giận nhà Lý đối xử với ông quá tệ bạc. Triều Lý sau đó đã hối hận, cử sứ đoàn sang mời vợ chồng Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi về nước. Trần Thủ Huy cho vợ con về, còn ông ở lại Mông Cổ. Bà Đoan Nghi trên đường về quê hương xa vạn dặm, rất gian khổ, nên ốm chết dọc đường. Trần Thủ Độ theo sứ đoàn nhà Lý về nước. Không còn mẹ, lại không có cha, cho nên Thủ Độ phải ở với Trần Lý.

       Lại nói về cụm tình báo chiến lược đầu tiên ở triều Trần.

       Triều Trần đã dùng kế “tát nước theo mưa”, để tổ chức đoàn tình báo chiến lược đầu tiên (1258). Đoàn người hộ tống “Thái tử” Đại Việt sang Mông Cổ gồm 55 người cả thảy, đứng đầu là Hoàng tử, con trưởng của Thái Tông Trần Cảnh là Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy và hai nhân vật không thể thiếu, đó là bà công chúa Trần Ý Ninh (vợ Nhật Duy) và ông Vũ Sơn Hầu Tạ Quốc Ninh, bộ óc tuyệt hảo, cố vấn của “cống đoàn”. Tạ Quốc Ninh quê Sơn Tây, được ban tước Hầu, chức Thượng tướng quân (cao hơn Đại tướng), hàm Thái tử Thiếu bảo, Hiệp Biện Đại học sĩ, Đồng Tri Khu mật viện. Ông vừa là cố vấn, vừa tranh thủ dạy tiếng Mông Cổ, tiếng Hán cho các thành viên trong đoàn.

       Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy là con trưởng của Trần Cảnh, do bà Tuyên Phi Mai Đông Hoa, quê ở làng Thụy Khuê, Tây Hồ sinh ra. Nhật Duy bằng tuổi Trần Quốc Khang, do Thuận Thiên Hoàng hậu sinh ra. Nhưng Quốc Khang thực chất là con Trần Liễu (anh trai Trần Cảnh). Vậy nên, Trần Quốc Khang chỉ được phong tước Đại Vương. Trần Nhật Duy được thay Thái tử Hoảng (Trần Thánh Tông) sang Mông Cổ làm con tin, vừa hợp lý, thuận tình. Mông Cổ không bắt bẻ được.

       Nhật Duy là Hoàng tử rất thông minh tài giỏi. Lại thêm có sự giúp đỡ của cố vấn Tạ Quốc Ninh và người bạn đời là công chúa Trần Ý Ninh. Đoàn người theo giúp Trần Nhật Duy đã hoàn thành nhiệm vụ tình báo chiến lược xuất sắc, vô cùng xuất sắc, mà Thái sư Trần Thủ Độ, vua Trần Cảnh và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã giao cho. Đó chính là nhiệm vụ thăm dò, chia rẽ nội bộ Hoàng tộc Mông Cổ, khiến họ nghi ngờ nhau, đánh nhau, càng lâu càng tốt. Đồng thời, phải giúp nhà Tống đánh nhau với Mông Cổ càng lâu càng tốt. Để làm gì? Để họ không có thời gian rảnh rỗi suy nghĩ đến việc đem quân trả thù nước Đại Việt dưới triều Trần chứ sao! Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy và các cộng sự, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặc biệt khó khăn của mình. Thực tế, Mông Kha Đại Hãn đã nghi ngờ Hốt Tất Liệt. Họ đấu đá sống mái với nhau suốt nhiều năm. Thực tế thì nước Đại Việt ta đã có khoảng 30 năm yên ổn để ra sức củng cố lực lượng, xây dựng đất nước vững mạnh, để có thể sẵn sàng đương đầu với quân xâm lược Mông Cổ lần thứ 2, thứ 3 và có thể là lần thứ 4 nữa. Tuy nhiên, chính sử nước ta không thấy chép câu nào về Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy cả. Tất nhiên rồi!

       Trên đường đi, bà Trần Ý Ninh đã sinh ra một người con trai rất anh dũng, tài giỏi, đó chính là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Trần Quốc Toản được cha mẹ đưa về nước, khi nhà Tống đã bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt. Một số quý tộc nhà Triệu Tống, trong đó có Hoàng tử nhà Triệu Tống và cô em gái, công chúa Triệu Ngọc Hoa, đã chạy sang nương nhờ Đại Việt. Đoàn người nhà Tống đã được Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, tướng chỉ huy trấn giữ vùng biên cương phía Bắc thu nạp. Trần Quốc Toản nằm trong biên chế của đội quân do Trần Nhật Duật chỉ huy. Và cơ duyên trời định, cô công chúa nhà Triệu Tống là Triệu Ngọc Hoa đã trở thành vợ Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản.

       Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản lại kế nghiệp cha làm tình báo chiến lược. Ông được lãnh đạo nhà Trần tổ chức bí mật sang nhà Nguyên, giúp Tống. Sử nhà Nguyên chép việc Trần Quốc Toản cùng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đánh nhau với tướng Trương Văn Hổ ở vùng cửa biển An Bang, khi Trương Văn Hổ quay lại với ý đồ cướp lại số lương thảo đã bị Trần Khánh Dư tịch thu trước đó. Sử Nguyên chép rằng Trần Quốc Toản bị thương nặng và mất tích. Thế thôi. Còn như về sau thì họ cũng không biết gì để chép thêm. Sử nước ta thì chép rằng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản hy sinh trên trận tuyến sông Cầu (Như Nguyệt), khi ông mới 18 tuổi. Thực tế thì, viên tướng hy sinh trên trận tuyến Như Nguyệt lại là một viên tướng trẻ khác, thuộc tôn thất nhà Trần…

       Những tư liệu tôi vừa nói đây, là nguồn từ sách ĐÔNG A DI SỰ, do bà Huệ Túc Phu Nhân (Hoàng Chu Linh), bà vợ người nước Tống của vua Trần Cảnh ghi chép. Bà Huệ Túc Phu Nhân theo cha là ông Hoàng Bính, một quan chức cao cấp của nhà Tống. Ông Hoàng Bính xem thiên văn, đoán biết nhà Tống sẽ bị Mông Cổ diệt, mà phương Nam khí đang vượng, cho nên Hoàng Bính đã đem theo cả gia quyến gồm 1200 người, chạy sang nương nhờ Đại Việt vào mùa xuân năm 1257. Bà Hoàng Chu Linh khi ấy mới 16 tuổi, rất giỏi bói toán, xem số tử vi. Tháng 6 năm 1257, bà Hoàng Chu Linh được tiến cung, làm vợ vua Trần Cảnh, được phong là Huệ Túc Phu Nhân. Chính bà Huệ Túc Phu Nhân đã khuyên vua Trần Cảnh và Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ giao chức Tiết Chế (Tổng chỉ huy quân đội) cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ngay từ cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất (1258). ĐVSKTT chỉ ghi có một câu rất ngắn, viết về chi tiết này. Phần đông chúng ta đều đoán rằng Trần Quốc Tuấn chỉ được phong Quốc Công Tiết Chế trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1285) và thứ 3 (1288) mà thôi.

       Ở cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3 (1288), nhà Trần lại dùng kế trá hàng. Người thực hiện việc này, lại chính là Hưng Ninh Vương Trần Tung (anh trai Trần Quốc Tuấn). Trần Tung đã tự nguyện sang đại bản doanh của Thoát Hoan, Tổng chỉ huy quân Nguyên Mông để “xin hàng”. Lý do chắc sẽ là việc ông bất mãn với vua Trần. Thoát Hoan hoàn toàn tin theo. Trần Tung hứa sẽ về làm nội ứng cho Thoát Hoan. Nhưng ngay đêm đó, Trần Tung đã đem quân tinh nhuệ bất ngờ tấn công vào doanh trại Thoát Hoan. Quân Nguyên tan vỡ nhanh chóng. Nhưng Thoát Hoan thoát chết. Hắn cay đắng tức giận, nhưng đành phải thu vén toàn quân rút chạy về Bắc. Sự kiện này, sách ĐVSKTT của ta có ghi chép.

       Trở lại câu chuyện Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, để các bạn thấy rằng, triều Trần đã lại tiến hành một vụ tình báo chiến lược thứ 2, thành công rực rỡ như thế nào. Đấy là chưa kể đến câu chuyện công chúa An Tư được đưa sang làm vợ Thoát Hoan, được giao nhiệm vụ gì. Nhưng tình riêng và việc chung đều tốt cả. Công chúa An Tư đã sinh hạ cho Thoát Hoan 2 người con.

       Nhân đây, cũng lại phải kể thêm câu chuyện công chúa Trần Huyền Trân được gả cho vua Chiêm là Chế Mân. Công chúa Trần Huyền Trân về làm Hoàng hậu vua Chiêm. Đoàn tùy tùng theo hầu Hoàng hậu, có hầu nữ và có cả nam giới. Họ đều ở lại bên cạnh Huyền Trân ở thành  Đồ Bàn, để giúp bà trong sinh hoạt đời thường theo nếp sống của người Việt. Nhưng mà không chỉ có thế. Họ còn được giao thêm nhiệm vụ khác nữa. Chẳng cần nói ra thì các bạn cũng hiểu rồi. Hai vị đại quan có trách nhiệm bảo vệ, đưa tiễn Huyền Trân về Chiêm, chính là danh sĩ Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung (tên thật là Đỗ Khắc Chung). Thông tin cụ thể này, chúng ta chỉ được biết sau khi tư liệu chỉ viết về Hoàng tộc nhà Trần, là sách ĐÔNG A DI SỰ, do chính bà Huệ Túc Phu Nhân khởi thảo, tiếp nữa là Đoàn Nhữ Hài, đệ tử thân tín của Bà Huệ Túc. Cuối cùng là Tư Đồ Trần Nguyên Đán, đồng tác giả. Các tài liệu về nội bộ nhà Trần lưu lạc bên Trung Quốc, do cô Vũ Khánh Ngọc, du học sinh ở Phúc Kiến sưu tầm được. Gia phả dòng họ Trần Ích Tắc và Trần Quốc Toản được người đời sau biết đến từ đây…

 

       BIỆN GIẢI VỀ CÂU CHUYỆN ĐẦU HÀNG CỦA TRẦN ÍCH TẮC

 

Trần Ích Tắc cho rằng mình thông minh tài giỏi hơn các vị Hoàng tử khác. Trần Ích Tắc muốn được lên ngôi Hoàng Đế. Sử sách chép như vậy. Nhưng thử nghĩ mà xem. Trần Ích Tắc trước khi sang nhà Nguyên, ông còn giữ chức “Phiêu kỵ Đại tướng quân”, trấn giữ tuyến phòng thủ thứ 2, ở mạn Bạch Hạc (Việt Trì), trong khi em trai ông là Trần Nhật Duật trấn giữ tuyến đầu, biên giới phía Bắc. Khi quân Nguyên tiến công như vũ bão, Ích Tắc còn đứng bên cạnh vua, tham mưu tác chiến. Có lẽ, lãnh đạo nhà Trần đã phải tính đến cái kế đánh địch từ bên trong lòng địch, xây dựng lực lượng lâu dài để đối phó với kẻ thù lâu dài. Thế nên, phải cử Trần Ích Tắc làm việc này. Không phải người tài giỏi như Trần Ích Tắc, không ai lúc bấy giờ hội tụ được các tiêu chí cần thiết, để có thể đảm đương được cái việc cực kỳ khó khăn này. Ví thử như một người nào đó kém tài, Hốt Tất Liệt cũng chỉ cho họ một chức quan nhỏ, để họ đủ sống được mà thôi. Phải có tài lớn, Hốt Tất Liệt mới ban cho chức quan lớn, đủ tầm để tiếp cận gần ông ta, tham mưu cho ông ta những quyết sách lớn. Tất nhiên rồi!

       Sử ta chép, rằng Trần Ích Tắc muốn làm vua. Không được thì sinh ra bất mãn, bèn đem gia quyến chạy sang hàng nhà Nguyên. Tôi đã nói ở trên rằng, tất cả những tài liệu được viết ra, người đọc đời sau phải tư duy để xem xét, mới có thể tiếp cận được sự thật ẩn giấu ở bên trong.

Muốn làm vua ư? Điều này là phi lý và bất khả thi. Tại sao? Là vì thể chế nhà Trần rất rõ ràng, chắc như đinh đóng cột. Triều đình lúc nào cũng có hai vua (Nhị Thánh). Vua cha nhường ngôi cho vua con, lên ngồi ghế Thượng hoàng, nhưng vẫn có quyền phế truất vua con. Xem sử ta ghi câu chuyện vua Trần Anh Tông mới lên ngôi, uống rượu say sưa, mất cả thể diện. Có người tố cáo, đến tai Thượng Hoàng Nhân Tông. Ngài đang nghỉ ở hành cung Thiên Trường. Khi tỉnh rượu, Anh Tông vô cùng hoảng sợ. May gặp được anh học trò Đoàn Nhữ Hài đi qua, Anh Tông bảo Nhữ Hài viết cho tờ biểu tạ tội. Anh Tông cùng Đoàn Nhữ Hài vội vã về Thiên Trường đội sớ tạ tội. Thượng Hoàng Nhân Tông mắng Anh Tông như tát nước. Ngài bảo rằng, ta còn những Hoàng tử khác có thể làm vua. Nếu ngươi (Anh Tông) không ra gì, ta sẽ phế truất ngay đấy!

       Ngôi chủ ổn định, chặt chẽ. Chỉ có con bà chính thất (Hoàng hậu) mới được phong Thái tử, kế vị ngai vàng. Người con trưởng không đủ tài làm vua, thì sẽ có một Hoàng tử khác con bà Hoàng hậu được chọn thay thế. Còn như các vị Hoàng tử con các bà Phi, thì LÀM GÌ CÓ CỬA mà sinh lòng nhòm ngó ngôi báu kia chứ? Trần Ích Tắc là con bà Phi thứ 5, dám đâu mơ ước hão huyền, cho dù ông thực sự là người rất tài giỏi. Trường hợp bất khả kháng, ví như Hoàng hậu không sinh được con nối dõi, bấy giờ triều đình mới tính đến việc chọn một Hoàng tử, con một bà Phi nào đó kế vị. Vậy nên cái câu chữ của sách sử, chúng ta đủ cơ sở để cho nó vào sọt rác, để hướng tới một cách nhìn, cách nghĩ chuẩn xác hơn, lấp ló ở phía sau.

 

       2

        Trong suốt thời kỳ giao chiến với quân Nguyên Mông, Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn luôn bố trí lực lượng canh phòng bảo vệ biên giới. Mấy ai thoát khỏi quân binh nhà Trần phục kích ngăn chặn những kẻ đầu hàng? Ví như Chương Hiến Hầu Trần Kiện (con Trần Quốc Khang) chạy đến biên giới, liền bị phục binh quân Trần dùng tên độc bắn chết. Nguyễn Địa Lô đã bắn trúng đầu gối Trần Kiện bằng mũi tên độc. Lê Tắc (tác giả cuốn AN NAM CHÍ LƯỢC), gia thần của Trần Kiện phải kéo xác Trần Kiện sang bên kia biên giới để chôn cất.

       Vậy tai sao Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đem theo cả gia quyến ngựa xe kềnh càng phức tạp, lại không bị chặn đánh ở biên giới, kể cả đường bộ và đường thủy? Trần Ích Tắc còn “nguy hiểm” hơn Trần Kiện rất nhiều, sao lại tẩu thoát dễ dàng như vậy? Câu hỏi này đặt ra để các bạn suy nghĩ cho thấu đáo.

       Thêm nữa, nên biết rằng Thượng Hoàng Trần Thánh Tông nghiêm khắc đến thế nào, các bạn nghe tôi kể đây. Khi ông Thiếu sư Trần Trọng Trưng người nước Tống đem cả gia quyến chạy sang nương nhờ Đại Việt (tương tự ông Hoàng Bính năm 1257), các vua Trần đối xử rất tốt với ông Trần Trọng Trưng (Lê Quý Đôn ghi là Trần Trọng Vi). Vua Trần còn phong chức tước cho ông Trần Trọng Trưng và cả con trai ông ấy là Trần Tôn. Khi Trần Trọng Trưng chết, vua Trần rất thương xót. Thánh Tông đã viết bài thơ khóc thương ông Trần Trọng Trưng rất cảm động. Tôi đã bình giải kỹ bài thơ này, để thấy được tấm lòng chân thành, nhân ái của các vua Trần.

       Thế nhưng, khi Thoát Hoan tiến công mãnh liệt xuống Đại Việt từ hướng biên giới phía Bắc, thì Trần Tôn, con ông Trần Trọng Trưng (người Tống) lại đầu hàng. Hắn còn dẫn đường cho Thoát Hoan tấn công vào Vạn Kiếp, khiến quân Trần bị bất ngờ, thiệt hại khá lớn, phải bỏ căn cứ Vạn Kiếp rút lui bảo toàn lực lượng. Thượng Hoàng Thánh Tông rất tức giận. Ngài sai đào mả Trần Trọng Trưng (cha Trần Tôn), bổ quan tài hắn ra, để cho hả cơn giận. Kẻ phản bội nào cũng phải bị trừng trị nghiêm khắc như vậy. Tôi dẫn chuyện này, đã viết bài về chuyện này, để biết vua Trần nghiêm khắc như thế nào. Nhưng với “kẻ phản bội” Trần Ích Tắc thì khác đấy. Bạn nghĩ sao?

 

       3

        Trần Ích Tắc là một người tài giỏi vào bậc nhất đương thời. Chính ông là người đã mở trường tư thục đầu tiên ở nước ta, bên cạnh QUỐC TỬ GIÁM. Ông vừa bảo trợ, vừa là thầy dạy. Học trò ông nhiều người thành đạt, như Mạc Đĩnh Chi, Bùi Phóng, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu… Luật thời phong kiến rất nghiêm khắc. Nếu Thầy phạm tội, trò cũng phải vạ lây. Thậm chí, bị đuổi khỏi chức quan. Đôi khi còn bị giết theo thầy. “Tru di cửu tộc”, trong đó, có các học trò của thầy. Đơn giản là vì trò là sản phẩm tư tưởng của thầy. Ví như Nguyễn Trãi, đại công thần khai quốc bị giết cả ba họ (tru di tam tộc), thì học trò của cụ biến đâu mất tiêu. Không thấy ai để lại một câu nào nói về Thầy Nguyễn Trãi, mặc dù cụ có rất nhiều học trò làm quan đại thần trong triều. Nguyễn Trãi có bài thơ chữ Hán dạy bảo học trò của cụ đang làm quan trong triều phải chính trực, phải thương yêu giúp đỡ nhau. Có thấy ai tự nhận là trò của Thầy Nguyễn Trãi đâu? Nếu Trần Ích Tắc mắc trọng tội phản quốc, thì tại sao học trò ông như Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu vẫn làm quan to ngất ngưởng trong triều? Chẳng phải là một sự bất thường hay sao? Chẳng phải là một chi tiết để đời sau tìm hiểu hay sao? Thêm nữa, Trần Ích Tắc có cả phủ đệ riêng, vương giả, có thể chu cấp cho trò nghèo theo học. Ông là một nhà giáo dục lớn, một nhân cách lớn đấy. Chính ông là người đầu tiên mở cơ chế mới cho giáo dục, ngày nay còn tiếp tục làm theo. Bạn nghĩ sao?

 

       4

        Luật nhà Trần rất nghiêm khắc, bất kỵ thân sơ. Đầu hàng quân Nguyên thực sự như Trần Di Ái, vừa về đến bên kia biên giới, đã bị quan binh nhà Trần chém chết ngay. Kẻ đầu hàng sẽ bị tước bỏ tất cả, đuổi cổ ra khỏi danh tính Hoàng tộc. Chỉ gọi tên. Ví như thằng A, tên B thôi. Thế thì cái tội cực lớn là “Phản quốc” như Trần Ích Tắc, sao không thấy vua Trần tước bỏ họ Trần của ông, mà chỉ gọi là Ả TRẦN, tức kẻ họ Trần mà hèn nhát yếu đuối như đàn bà? Sử chép, vua bảo rằng Ích Tắc là anh em máu mủ, nên không nỡ tước bỏ họ Trần của Ích Tắc. Thực ra, vua Trần không thể tước bỏ danh tính vẻ vang của Trần Ích Tắc, là bởi ông ấy chỉ trá hàng đấy thôi. Đời sau sẽ làm sáng tỏ sự thật, trả lại tiếng thơm cho Trần Ích Tắc. Chúng ta, những kẻ hậu sinh, phải có trách nhiệm làm việc đó, chứ sao? Đấy là chỗ khác biệt, là cái ý thầm kín tế nhị. Những kẻ “người trần mắt thịt” như chúng ta phải suy lý, để tự tìm ra sự thật, để tự lý giải cho chính mình.

       Sử ta còn chép, sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ 3, có người đem những bức thư đầu hàng của người này người khác, trong đó có cả thư xin hẹn đầu hàng của Trần Ích Tắc, cho Thượng Hoàng Thánh Tông xem, để trừng trị những kẻ đó. Thượng Hoàng sai đốt đi, để yên lòng dân. Bạn có suy nghĩ rằng, những thư từ của Trần Ích Tắc, nếu có, chẳng phải cũng chỉ là nghệ thuật phản gián, để đối phương hoàn toàn tin tưởng vào Tràn Ích Tắc, để Hốt Tất Liệt tin tưởng, phong cho ông ấy chức AN NAM QUỐC VƯƠNG, rồi cả chức Tể tướng (Bình chương chính sự) bên cạnh vua Nguyên nữa, chứ sao? Đối phương không tin tưởng tuyệt đối, thì làm sao có thể “leo cao chui sâu” được? “Người trần mắt thịt” sao thấy được điều này? Nhưng Thượng Hoàng Thánh Tông thì đương nhiên, chắc ông ấy sẽ nheo mắt mỉm cười độ lượng…

 

5

 Kể từ khi Trần Ích Tắc chạy sang “hàng” quân Nguyên, nhà Trần không thua thêm trận nào nữa. Thế là sao? Bạn có biết điều này không?

       Trong cuộc chiến lần thứ 3 (1288), vua Trần hỏi Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, rằng năm nay đánh giặc thế nào? Hưng Đạo Đại Vương bình thản trả lời, rằng “năm nay đánh giặc nhàn”! Phải chăng, tin tức về giặc Nguyên Mông cũng thường xuyên được cập nhật về đại bản doanh của vị Tổng Tư lệnh tối cao? Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng. Binh pháp đã đúc kết thành nguyên lý trong chiến tranh là vậy! Bạn nghĩ sao?

 

       6

 Chúng ta cũng nên biết rằng, nhà Trần không chỉ tổ chức vụ tình báo chiến lược Trần Ích Tắc. Ngay sau cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất (1258), trước đó 30 năm, lãnh đạo nhà Trần đã tổ chức rất thành công vụ tình báo chiến lược đầu tiên, do Hoàng tử Trần Nhật Duy (con trưởng vua Thái Tông Trần Cảnh) dẫn đầu, như tôi đã viết ở bài trước. Đến lượt Hưng Ninh Vương Trần Tung, cũng trá hàng, rồi ban đêm dẫn quân tập kích Thoát Hoan, lại là một kiểu khác, trong tình huống khác.

       Tóm lại, tình báo chiến lược trong chiến tranh, thì bên nào cũng tổ chức. Ngày nay, việc ấy lại càng tinh vi hơn nhiều. Nhưng cách nay đã gần ngàn năm, nhà Trần đã rất thành công trong tổ chức tình báo. Chúng ta phải thoát ra khỏi suy nghĩ đơn giản, một chiều, thoát ra khỏi những sách vở này nọ, để có tư duy khoa học, sáng suốt mới có thể tiếp cận được sự thật. Và cũng phải có cái “phông” văn hóa nhất định nào đó, mới có thể cảm thấu được CÁI KHÔNG NHÌN THẤY, vừa bí ẩn, vừa rất giàu hàm lượng thông tin. Sự đầu hàng của Trần Di Ái, của Trần Kiện, của Lê Tắc, là đầu hàng thật, rõ rồi. Việc đầu hàng của Trần Ích Tắc là việc đầu hàng theo kịch bản đã được thiết kế. Sao có thể đem ra để so sánh theo kiểu cơ học thông thường được?

 

 KÍNH MỜI QUÝ BẠN ĐỌC TIẾP LOẠT BÀI VỀ CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC

 

Thông qua việc giải mã một số bài thơ của Trần Ích Tắc, các bạn hãy liên kết với các bài viết khác của tôi, để xâu chuỗi, kết nối các chi tiết, để phân tích, tự suy ngẫm về câu chuyện lịch sử vô cùng bí ẩn này.

TRẦN ÍCH TẮC

Phiên âm:

HỒI QUỐC

Kỷ niên xuất quốc diểu vân sa,

Thân ký nhung an tạm đáo gia.

Thốc thốc lâu đài không nhật ảnh,

Doanh doanh châu thúy các thiên nha (nhai).

Chân thành Đông Hải quy Liêu hạc,

Cảm vọng Nam Môn nhập Trịnh xà.

Nhân vật vô hương vô xứ vấn,

Giang phong xuy lão lệ chi hoa.

Dịch nghĩa:

VỀ NƯỚC

Mấy năm xa nước, mờ mịt như mây trên trời, cát dưới đất,

Thân gửi ngựa trận tạm ghé nhà.

Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,

Những thiếu nữ yêu kiều, trang sức bằng châu ngọc đều ở mỗi phương trời cách biệt.

Lòng thành muốn trở về biển Đông, giống như chim hạc muốn quay về đất Liêu.

Đâu dám mong thành con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn?

Nhân vật quạnh hiu (cho nên) chẳng biết chốn nào mà hỏi,

Gió sông thổi mãi hoa lệ chi.

Dịch thơ

Mấy năm lìa nước cách xa vời,

Nhà cũ nương yên tạm tới nơi.

Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,

Yêu kiều châu ngọc cách phương trời.

Hạc Liêu cột cũ về quê cũ,

Dám đâu rắn Trịnh ý giành ngôi.

Nhân vật thê lương không chốn hỏi,

Gió lay hoa vải úa vàng phơi.

 (TTNCQH dịch)

Mấy năm xa nước mịt mờ,

Gửi thân lưng ngựa, tạm nhờ thăm quê.

Lâu đài trơ bóng nắng huê,

Yêu kiều thiếu nữ bạt về nơi đâu?

Lòng chim hạc muốn quay đầu,

Nam Môn rắn Trịnh dám đâu tranh giành.

Hỏi ai giữa chốn vắng tanh,

Gió sông vi vút lay cành lệ chi.

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

 

Đây là thời điểm quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ 3 (1288). Hốt Tất Liệt trước đó đã phong phong tước AN NAM QUỐC VƯƠNG, rồi chức “HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ” cho Trần Ích Tắc. VÂN NAM VƯƠNG Thoát Hoan (của nhà Nguyên) lại được cử làm Chủ tướng, Tổng chỉ huy quân Nguyên, đem đại binh thủy bộ khoảng 50 vạn quân các loại, hùng hổ tiến sang quyết làm cỏ Đại Việt.

       Hốt Tất Liệt sai Trần Ích Tắc cùng đi với Thoát Hoan, mượn danh nghĩa đưa AN NAM QUỐC VƯƠNG về nước. Không thể chối từ, cho nên Trần Ích Tắc phải “thân gửi ngựa trận tạm ghé nhà”, sau “mấy năm xa nước, mờ mịt xa xôi như mây trên trời, cát dưới đất”. Đó cũng là tâm lý thông thường của kẻ lữ thứ. Vả chăng, có lẽ, Trần Ích Tắc đã chuyển xong những thông tin cần thiết về tình hình quân Nguyên cho Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Tổng chỉ huy lực lương kháng chiến của Đại Việt chăng? Chẳng thế mà khi vua Trần hỏi Hưng Đạo Đại Vương rằng năm nay đánh giặc thế nào, Hưng Đạo Đại Vương đã đã ung dung trả lời “Thế giặc năm nay dễ phá”! hoặc “Năm nay đánh giặc nhàn”, như một số tài liệu khác đã ghi.

       Có thể Trần Ích Tắc cũng rất tin tưởng rằng cuộc chiến lần thứ 3 này, quân Nguyên Mông nhất định sẽ đại bại, thế nên, ông cũng muốn nhân dịp hiếm hoi này, theo chân quân Nguyên về thăm lại quê nhà, để thỏa lòng khắc khoải mong nhớ bấy lâu nay…Lê Tắc, Lê An tướng người Việt đầu hàng, chỉ huy 5 ngàn quân hộ vệ Trần An, con trai Trần Ích Tắc mới 9 tuổi về nước. Đạo quân này bị tướng Nguyễn Thế Lộc chặn đánh. Nhưng Nguyễn Thế Lộc vẫn bỏ ngỏ hướng Bắc cho Lê Tắc hộ vệ Trần An 9 tuổi có cơ hội chạy về bên kia biên giới, đúng vào ngày Tết Nguyên đán năm Mậu Tý (1288). Người đọc sử ngày nay, liệu có ai suy nghĩ về chi tiết có vẻ bình thường, mà không bình thường này chăng?

       Tránh thế giặc đang mạnh, nhà Trần lại dùng kế “Thanh dã”, (vườn không nhà trống), rút khỏi Thăng Long, chờ cơ hội phản công tiêu diệt đối phương binh hùng tướng mạnh. Trần Ích Tắc theo chân Thoát Hoan (chỉ huy mũi chủ lực) từ châu Tư Minh, vượt qua biên giới vào Thăng Long mà không phải giao chiến với quân Trần. Đúng hơn là chỉ phải gặp sức kháng cự không đáng kể của quân Đại Việt. Trần Ích Tắc có dịp trở lại Thăng Long thăm nhà cũ. Đó là thời điểm cuối tháng 12 năm 1287.

       Quang cảnh hiện ra trước mắt, chỉ thấy:

Lớp lớp lâu đài trơ bóng nắng,

       Những thiếu nữ yêu kiều trang sức bằng châu ngọc (nay) đều ở mỗi phương trời cách biệt.

       Chỉ thấy kinh thành Thăng Long hoang vắng, lâu đài trơ vơ dưới ánh nắng chiều. Những cung nữ yêu kiều, bây giờ không biết họ đang ở nơi đâu. Quang cảnh hoang lương buồn bã. Cho nên, không thể không bùi ngùi, xa xót...

       Thi nhân tha hương lâu ngày than thở:

       Lòng thành muốn trở về biển Đông giống như chim hạc quay về đất Liêu,

Đâu dám mong thành con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn.

       Thế là sao? Đất Liêu là đất nào vậy? “Liêu hạc”, tức lấy ý từ câu thành ngữ “Hạc quy hoa biểu”, để biểu thị sự biến thiên chìm nổi ở cõi người. Lâu đài thành quách vẫn như xưa, mà nay thế sự đã thay đổi. Nhưng mà ta “đâu dám mong thành con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn”! Chả là “Trịnh xà” tức con rắn ở thành Nam Môn nước Trịnh. Truyền thuyết, nước Trịnh có con rắn ở ngoài thành vào cắn con rắn ở trong thành. Rắn trong thành là yêu tinh, bị cắn chết, đó là điềm Lệ Công sẽ được về nước. Sách AN NAM CHÍ LƯỢC của Lê Tắc chép như vậy.

       Tác giả Trần Ích Tắc khẳng định rằng, ông không phải là con rắn nước Trịnh, vào thành Thăng Long để làm vua nước AN NAM (AN NAM QUỐC VƯƠNG). Ông còn có nhiệm vụ khác, quan trọng hơn rất nhiều, ai biết?

       Vậy nên:

Hỏi ai giữa chốn vắng tanh,

Gió sông vi vút lay cành lệ chi…

Thật là ngổn ngang tâm sự, khó nói thành lời…

Lại nhớ lại rằng, Trần Ích Tắc theo chân quân Nguyên Mông về nước, tại sao Hưng Đạo Đại Vương không sai phục binh giết chết ông ấy từ cửa biên giới, hoặc trên đường vào Thăng Long, như nhà Trần đã từng thi hành “án tử” với AN NAM QUỐC VƯƠNG Trần Di Ái? Chẳng phải là một chi tiết người đời sau phải nghĩ ngợi, phải tự lý giải để trả lời cho thắc mắc của chính mình? Tại sao Nguyễn Thế Lộc chặn đánh Lê Tắc và Lê An, lại để hướng Bắc cho Lê Tắc và Lê An ôm đứa con 9 tuổi của Trần Ích Tắc được sống, để trở về phủ Tư Minh đúng vào ngày Tết Nguyên đán? Liệu đã có chủ trương bí mật gì đó hay chăng? KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ!

 

HÃY XEM ĐÂY, TRẦN ÍCH TẮC LÀ AI?

KHI ĐÃ THÀNH CÔNG TRONG VIỆC THUYẾT PHỤC THIẾT MỘC NHI (NGUYÊN THÁNH TÔNG) QUYẾT ĐỊNH BAN CHIẾU BÃI BINH, TRẦN ÍCH TẮC VÔ CÙNG SUNG SƯỚNG. ÔNG VIẾT LIỀN CHÙM THƠ 5 BÀI, THỂ HIỆN NIỀM VUI BẤT TUYỆT CỦA ÔNG.

Kính mời quý bạn đọc bài thứ Nhất

Phiên âm:

TẠ THANH CUNG TỨ TỬU

Hoàng phong tinh sứ khống kỳ lân,

Đằng đạp cao phong phất lộ trần.

Tiên lễ nhưỡng thành thiên thượng lộ,

Cung hồ phân tứ lạp tiền xuân.

Ân triêm Nam ký ba đào nhuận,

Khí chuyển Đông hoàng thảo mộc tân.

Bái biệt ung dung ca “Ký túy”,

Dao chiêm Hạc cấm hỉ tân tân.

Dịch nghĩa:

TẠ ƠN ĐƯỢC BAN RƯỢU Ở THANH CUNG

Sứ giả được (Thái tử) ban rượu Hoàng phong cưỡi con kỳ lân đến,

Phóng như bay đạp lên gió cao, rũ tung bụi đường.

Rượu tiên chưng cất thành mưa móc trên trời,

Rượu ngự phân ban để tế thần trước mùa xuân.

Ơn vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,

Chúa xuân chuyển khí xuân làm cỏ cây tươi tốt.

Bái lạy xong, thong thả hát bài “Ký Túy”,

Ngửa mặt trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào.

Dịch thơ

Cưỡi kỳ lân đến Thanh Cung,

Đạp gió cao, sứ rũ tung bụi đường.

Rượu tiên mưa móc khác thường,

Phân ban ngự tửu trước xuân tế thần.

Ơn vua Nam Quốc thấm nhuần,

Chúa xuân chuyển khí muôn phần tốt tươi.

Bái xong, “Ký Túy” say lời,

Ngửa trông cung cấm, niềm vui đang trào.

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Đây là bài thơ Trần Ích Tắc thể hiện rất rõ tâm trạng vui sướng của ông, khi được Thái tử (Đông cung) mới lên ngôi vua, ban rượu quý ở Thanh Cung. Có lẽ, trong thời gian giữ chức quan HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, Trần Ích Tắc có dịp gần gũi Thái tử Thiết Mộc Nhi, người sẽ kế vị Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.

Chúng ta không thể biết Trần Ích Tắc đã dùng những lời lẽ gì để tác động đến ngài Thái tử, dẫn đến việc Thiết Mộc Nhi khi đăng quang, đã lập tức ban chiếu bãi binh. Cho nên, việc ông được Thái tử (vua mới) ban rượu “Hoàng Phong” đặc biệt ở Thanh Cung, chẳng phải là một đặc ân hiếm có đấy sao? Chẳng phải là niềm vui bất tuyệt hay sao?

Thế nên, tác giả viết:

Sứ giả được vua ban rượu Hoàng Phong, cưỡi con kỳ lân đến,

Phóng như bay, đạp lên gió cao, dũ tung bụi đường.

Theo quan niệm của người xưa, Kỳ Lân là loài vật quý trong thần thoại Trung Hoa và ở cả một số nước phương Đông. Kỳ lân xuất hiện thường đem lại điềm lành. Một khi Kỳ Lân xuất hiện, đó chính là điềm đất nước thái bình.

Trần Ích Tắc tự xem mình là sứ giả của nước An Nam (Đại Việt) được vua Nguyên Thiết Mộc Nhi mới lên ngôi ban rượu “Hoàng Phong”, một loại rượu rất quý, vua ban cho các quan đại thần ở Thanh Cung. Thế thì thời thiên hạ thái bình đã đến. Tin vui cực vui, cho nên tác giả mới vội vã “phóng như bay”, mới mạnh mẽ cưỡi con kỳ lân, xông pha “đạp lên gió cao”, “dũ tung bụi đường”. Quả là một hình ảnh hoành tráng phi thường, được phóng đại lên, thể hiện niềm vui vô giá, bất tuyệt. Không thể không vội vã trong tình huống, trong sự kiện trọng đại có một không hai này.

Thực ra, làm gì có con Kỳ Lân nào mà cưỡi. Chẳng qua chỉ là cưỡi con tuấn mã mà vội vã phi đến, bay đến Thanh Cung đấy thôi. Nhưng thi nhân đã không ngại dùng nghệ thuật khoa trương mà thơ hóa lên, tạo ra một hình ảnh thẩm mỹ kỳ vĩ rất ấn tượng. Làm sao phải vội vã như thế? Là bởi vì vua nhà Nguyên đã ban chiếu bãi binh. Trần Ích Tắc cũng chả cần giấu đi cảm xúc chân thật của mình. Ông viết:

Ơn vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,

Chúa xuân chuyển khí xuân, làm cỏ cây tươi tốt.

Tại sao ư? Khi vua Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi lên ngôi, ngài đồng thời ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ, cũng có nghĩa rằng nước Nam ta không phải tiến hành thêm một cuộc chiến tranh chống xâm lược, mà chắc chắn sẽ là vô cùng khốc liệt nữa. Nói rằng “Ơn vua thấm khắp nước Nam như sóng cả” chẳng phải là hồng phúc của dân tộc Đại Việt hay sao? Chẳng phải là hạnh phúc của sinh linh trăm họ hai nước hay sao?

Thế nên, tác giả cho rằng:

“Ơn vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,

Chúa xuân chuyển khí xuân, làm cỏ cây tươi tốt”

Đó là những hình ảnh ẩn dụ, đều liên quan đến việc Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi ban chiếu bãi binh. Có thể nói rằng, niềm vui trong lòng Trần Ích Tắc là bất tuyệt. Ông có cảm giác như “rượu tiên vua ban xuống như mưa móc kết tinh từ trên trời”. Hay là “rượu Hoàng Phong của vua ban, kết tinh thành sương móc trên trời”. Thêm nữa, “Chúa xuân chuyển khí xuân làm cho cỏ cây tươi tốt”. Tất cả đều như tươi mới, sáng trong, ngập tràn hạnh phúc. Ngày vui của nhà vua, cũng chính là ngày vui của chính tác giả, của muôn dân nước Nam (Đại Việt) là vậy!.

Cho nên, tâm trạng Trần Ích Tắc vô cùng sung sướng. Một sự sung sướng vô bờ, không bút mực nào tả hết được.

Tác giả viết:

Bái lạy xong, thong thả hát bài “Ký Túy”,

Ngửa trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào.

“Ký Túy” là một bài thơ trong “Kinh Thi”, ở phần “Đại nhã”. Nội dung thể hiện cảm hứng vui say bất tuyệt.  Chiêu Quốc Vương như đang hát vang lên bài ca “Ký Túy”. Hiện thực như trong mơ, như một giấc mơ tuyệt hảo. Và đặc biệt câu “Ngửa trông về nơi cung cấm xa vời, niềm vui dâng trào”. Cung cấm mà Trần Ích Tắc nói ở đây, có thể hiểu là cung cấm của vua Nguyên, nhưng cũng có thể hiểu là cung cấm của triều đình nước Đại Việt ở phương Nam? Ở quê nhà, nào ai biết được sự kiện rất đặc biệt quan trọng, liên quan đến vận mệnh quốc gia này, cùng tâm trạng vui sướng của kẻ lữ thứ đã từng phải chịu đựng biết bao đau khổ, phải vào luồn ra cúi bao năm nay, phải đeo cái tiếng xấu là kẻ “hàng thần lơ láo” này được. Cho nên, giờ đây, ta phải hát vang lên cho thỏa thích, là bởi vì niềm vui của ta đang dâng trào như sóng biển, không sao kiềm chế được!

 Bài thơ âm điệu tươi vui, thể hiện tâm trạng vô cùng sảng khoái của tác giả. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đã bao năm lao tâm khổ tứ, nghĩ suy, hành động, khôn khéo, vừa để bảo vệ được chính mình, gia quyến của mình, vừa hoàn thành được sứ mệnh cao cả. Bằng trí tuệ tuyệt vời sẵn có, bằng tài năng văn chương và ngoại giao đặc biệt, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc chỉ tự xem mình là sứ giả của Đại Việt, đã ngăn chặn được một cuộc chiến tranh chắc chắn là sẽ vô cũng đẫm máu của giặc Nguyên Mông lần thứ 4. Số phận một dân tộc nhỏ bé đã được định đoạt. Sẽ không có cảnh xương chất thành núi, máu chảy thành sông nữa. Công lao của ông, ai sánh được nào? Vinh quang của ông, ai sánh được nào?

 

VẠN TUẾ SƠN THỊ YẾN

Bích lạc minh loan cách thế trần,

Ngọc kinh khai yến hội tinh thần.

Vũ hồi ngao bối tam sơn tuyết,

Tửu thướng long nhan vạn quốc xuân.

Vật bị nhân phong vinh ngự uyển,

Thủy hàm thánh trạch dạt Thiên Tân.

Việt Nam ky lữ bồi tân liệt,

Chỉ xích quang chiêm nhật nguyệt tân.

Dịch nghĩa:

HẦU TIỆC Ở NÚI VẠN TUẾ

Từ trời xanh vọng xuống tiếng chim loan, cách ngăn với trần thế,

Chốn cửa ngọc mở tiệc hội tụ với các vì tinh tú.

Các nàng tiên múa xong trở về nơi ở chỗ ba ngàn núi tuyết,

Rượu dâng lên mặt rồng, rực rỡ màu xuân vạn nước.

Gió lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển tươi tốt.

Ơn thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.

Người Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân khách,

Ngước mắt nhìn ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng (vua) đang ở rất gần.

Dịch thơ

Trời xanh rót nhạc mừng xuân,

Cửa vàng tiệc lớn quây quần tú tinh.

Múa xong, tiên vút Thiên Đình,

Rượu dâng vua, rực xuân tình vạn bang.

Tươi vườn ngự, sáng muôn vàn,

Sông Ngân như thể ngập tràn Thánh ân.

Tha hương Việt quốc khách tân,

Ngước nhìn vua mới rất gần đó thôi!

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Đây là ngày đại khánh của vua Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi). Thiết Mộc Nhi lên ngôi kế vị Hốt Tất Liệt. Đây cũng là thời điểm Hoàng Đế Thiết Mộc Nhi ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ.

Thường thì triều đình Bắc phương vẫn tổ chức mừng ngày Đại khánh (vui lớn). Có khi là chúc thọ nhà vua. Có khi là mừng vua mới đăng quang. Khi ấy, các nước chư hầu phải đến dâng lễ chúc mừng. “Thiên triều” thường treo biển VẠN QUỐC LAI TRIỀU, tức vạn nước phải đến triều đình dâng lễ chúc mừng. Ở đời nhà Đại Thanh thống trị Trung Hoa, “Thiên triều” đã tổ chức đại lễ BÁT TUẦN ĐẠI KHÁNH, mừng thọ vua Càn Long 80 tuổi. Nhà Tây Sơn nước Đại Việt ta cử sứ bộ 158 người mang lễ vật lên Yên Kinh (Bắc Kinh) chúc mừng. Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn… là những người lãnh đạo sứ đoàn quy mô, hoành tráng chưa từng có bao giờ trong lịch sử bang giao Việt-Hồ. Nhà Thanh đã xuất kho 800 ngàn lạng bạc cho việc đón tiếp sứ đoàn ta. Tất nhiên vua Càn Long đã chủ trương cực kỳ thâm hiểm, như tôi đã viết bài ở THỰC HƯ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG, đăng trên trang mạng và cả trên tạp chí VĂN HIẾN VIỆT NAM.

 Xem tác giả tả quang cảnh hết sức linh đình được diễn ra ở núi Vạn Tuế, chúng ta có thể hiểu được điều đó.

 Tâm trạng thi nhân Trần Ích Tắc tất nhiên là rất bộn bề. Ông rất vui, phải nói là vô cùng vui sướng, nhưng vẫn phảng phất một chút tâm sự bùi ngùi. Cũng không thể khác. Bởi đó mới là tiếng lòng chân thật của chính ông.

Tác giả viết: “Người Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân khách”.

Ngày Đại khánh của vua nhà Nguyên, cả thiên hạ đều mừng vui khôn xiết. Tất nhiên là tác giả cũng vô cùng vui sướng. Một niềm vui thầm kín, khôn tả, sen lẫn một chút bùi ngùi. Sao vậy? Là vì tác giả vinh dự được cầm chiếc thẻ bài quan đại thần, nhưng là quan đại thần của nước Nguyên. Dẫu ông không muốn, thiên hạ vẫn coi ông là kẻ “hàng thần lơ láo”, vẻ vang gì nào? Nhưng thực chất, Trần Ích Tắc vẫn cho rằng, ông chỉ là “Người Việt ở phương Nam tha hương” mà thôi!

Thế đủ biết, Trần Ích Tắc vẫn khẳng định rằng mình chẳng qua chỉ là một người Việt ở phương Nam tha hương ở xứ người. Ông vẫn là người Việt. Tổ quốc của ông là nước Đại Việt ở phương Nam. Vua mới ở đây, chẳng phải là vua Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi), người đã ban chiếu bãi binh, chấm dứt cái họa chiến tranh “núi xương sông máu” phi nghĩa, phi nhân tính hay sao? Trần Ích Tắc, trong vai trò rất lớn, ở vị thế Tể tướng (Bình chương Chính sự), được gần vua Nguyên Thánh Tông. Không biết rằng ông với chức vụ rất lớn ấy, đã tham mưu khéo léo với vua Nguyên những điều lợi hại gì đó, để Thiết Mộc Nhi quyết định ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng chắc chắn là sẽ vô cùng khốc liệt với Đại Việt.

Đây là bữa tiệc lớn vua Nguyên ban cho quần thần ở núi VẠN TUẾ. Quang cảnh cuộc vui ở VẠN TUẾ SƠN, trong khu vực Cấm thành, được tác giả miêu tả rất hoành tráng.

Bích lạc minh loan cách thế trần,

Ngọc kinh khai yến hội tinh thần.

Các nhà biên soạn ở TTNCQH cho rằng “cụm minh loan” không phải là “tiếng chim loan”, mà là tiếng của một thứ nhạc cụ (gọi là “loan”) dùng để cầm nhịp, giữ phách khi tấu nhạc xưa”. Trước đó, đã có sách chuyển ngữ câu “Bích lạc minh loan cách thế trần” là “Tiếng chim loan hót vọng xuống từ không xanh”. Tôi tán thành cách chuyển ngữ này. Hay hơn, thơ hơn. Cái đặc sắc tài hoa của thi sĩ Trần Ích Tắc chính là ở chỗ đó. Còn như cách hiểu của TTNCQH, cũng là một cách hiểu, nhưng câu thơ đã bị vật chất hóa đi rồi. “Tiếng chim loan hót vọng xuống từ khoảng không xanh biếc”, mới là câu thơ hàm ẩn, mang tầm vóc vũ trụ, tương ứng với quang cảnh được tác giả miêu tả ở những câu thơ tiếp sau, tràn đầy thi vị.

 Quả là một đại yến tiệc, chỉ có ở chốn cung vàng điện ngọc, hội tụ quây quần muôn ngàn tinh tú. Các nàng tiên bay xuống trần gian từ trên trời. Múa hát xong, các tiên nữ yểu điệu thướt tha lại lả lướt bay về trời. Rượu dâng lên vua, rạng rỡ màu xuân vạn nước. Quả đúng là “VẠN QUỐC LAI TRIỀU”. Thế nên mới lại thấy:

Gió lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển (của nhà vua) tươi tốt,

Ơn thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.

Cả đất trời dường như tươi tốt lại trong ngày Đại khánh. Đây chẳng phải là khi triều đình nhà Nguyên tổ chức đại lễ, yến tiệc linh đình, để mừng vua mới Thiết Mộc Nhi lên ngôi Hoàng đế đó sao? Vua lên ngôi, đồng thời ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ, để thiên hạ khắp bốn phương được vui với ấm áp thanh bình. Thế nên, tác giả mới khẳng định rằng “Ơn thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy”. Chẳng phải là niềm vui cực lớn cho tác giả, cho nước Đại Việt, cho cả bách tính khắp gầm trời này hay sao?

Cho nên:

Người Việt ở phương Nam (là ta) vinh dự được xếp vào hàng tân khách,

Ngước mắt nhìn vua mới, ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần.

Tâm trạng của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nhìn chung là vô cùng sung sướng và tự hào. Niềm vui của tác giả như đã nhuốm cả vào thiên nhiên, tạo vật. Lòng tác giả như nở hoa, muôn ngàn hương sắc tốt tươi. Cả cái vườn ngự uyển của nhà vua, vốn chỉ dành cho vua và các cung nữ đi dạo, vui chơi, bây giờ dường như nó cũng đang chuyển động, đang rì rầm tốt tươi trở lại. Hỏi rằng không sung sướng, không tự hào sao được. Bởi chính ông đã vừa lập được một chiến công vô cùng vĩ đại, vô cùng hiển hách, là đã ngăn chặn được một cuộc xâm lăng được lên kế hoạch từ tên bạo chúa Hốt Tất Liệt. Thế nên, tác giả thầm biết ơn ân đức của vua mới, ngước nhìn vua mới như thể “mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần”!

 Thơ thể hiện tầm vóc tư tưởng và tâm hồn tác giả. Thơ phóng chiếu hình ảnh lịch sử, chính xác nhất, sinh động nhất. Người xưa nói “Thi dĩ ngôn chí” là vậy!

 

SINH NHẬT TỰ THỌ

Đãng đãng càn khôn nhất chuyển bồng,

Quang âm vô hạn, lạc vô cùng.

Uyên hồng hà xứ tam thiên khách?

Quy hạc lưu hình lục thập ông.

Thúy tiểu cấm trung do tạc nhật,

Bạch tần giang thượng hựu thu phong.

Lưu hà bản túy quỳnh lâu hiểu,

Thân cận tằng vân Bắc Đẩu đông.

Dịch nghĩa:

SINH NHẬT TỰ CHÚC THỌ

Đất trời bao la bát ngát, (ta như) một cánh cỏ bồng chuyển xoay theo gió,

Thời gian vô hạn, niềm vui vô cùng.

Ba ngàn tân khách như hồng bay lạc nhạn, giờ ở nơi đâu?

Ông lão sáu mươi tuổi như ta được sống lâu như loài rùa và hạc.

Khóm trúc xanh xanh trong cung cấm hãy còn giống như ngày xưa không?

Lại thêm gió thu thổi qua đám rau tần trắng ở bên sông (Lô).

Sáng sớm ở lầu quỳnh uống rượu ngon say chếnh choáng,

Thân mình như gần kề tầng mây phía đông chỗ sao Bắc Đẩu mọc.

Dịch thơ

Cỏ bồng theo gió bay xa,

Thời gian vô hạn, vui ta vô cùng.

Ba ngàn tân khách tưng bừng

Giờ đâu? Sáu chục, ta mừng sống dai.

Trúc xanh cung cấm xanh hoài?

Đám rau tần trắng ở ngoài bãi sông?

Lầu quỳnh chếnh choáng hương nồng,

Tưởng bay lên mãi tận cùng Đẩu sao…

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Cứ theo như tình ý bài thơ, thì thấy, năm Trần Ích Tắc tự chúc thọ mình 60 tuổi, chính là năm 1313, hoặc 1314. Ông sinh năm 1253, cộng thêm 60 năm, đúng là năm 1313, hoặc 1314.

Ở Đại Việt, đầu năm 1314, niên hiệu Đại Khánh năm đầu, triều vua Trần Minh Tông, Nguyễn Trung Ngạn được cử làm Chánh sứ cùng quan Lang Trung Phạm Tông Mại sang nhà Nguyên. “Niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 11, đời vua Trần Dụ Tông (1351), vua ngự điện Thiên An, duyệt cấm quân ở sân rồng, cho Nguyễn Trung Ngạn mặc áo chiến bào, đội mũ võ, đeo thẻ bài gỗ vuông bịt vàng, duyệt các cấm quân, định hạng hơn kém” (ĐVSKTT). Năm thứ 15 (1355), gia phong chức Nhập nội Hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm Thị Kinh diên Tri khu Mật viện sự, Đại học sĩ, tước Trụ quốc Khai huyện Bá, kiêm chức Kinh lược sứ trấn Lạng Giang” (ĐVSKTT) Bấy giờ, Nguyễn Trung Ngạn đã 67 tuổi.

Đối chiếu tiến trình lịch sử, ở thời điểm này, con trai thứ hai của Trần Ích Tắc là Trần Hữu Lượng đang nổi dậy, tự xưng Hán Đế, treo cờ Hán, quốc hiệu là ĐẠI HÁN. Lực lượng quân sự của Trần Hữu Lượng rất hùng hậu. Khoảng sáu chục vạn tinh binh. Thủy binh gồm hạm đội lớn, thuyền to thuyền nhỏ rất nhiều. Trần Hữu Lượng không dưới 3 lần sai sứ về Đại Việt yêu cầu Trần Dụ Tông giúp sức. Nhưng dưới thời Dụ Tông, Đại Việt đã suy yếu. Dụ Tông ăn chơi xa đọa, dân tình khốn khổ, không thể giúp gì cho Trần Hữu Lượng. Lần thứ 3, Dụ Tông chỉ cử Nguyễn Trung Ngạn, bấy giờ đang kiêm chức Kinh lược sứ trấn Lạng Giang (khu vực biên giới phía Bắc) sang xem xét tình hình bên kia biên giới, đồng thời đề phòng một số thế lực chống Nguyên và chống nhau, có thể bất ngờ tràn sang Đại Việt. Nguyễn Trung Ngạn chỉ quẩn quanh ở bên kia biên giới, rất buồn chán. Khoảng 4 tháng, vua mới có chiếu lệnh triệu hồi về kinh. Thơ Nguyễn Trung Ngạn đã “khai rõ” điều này.

Trần Ích Tắc tự mừng thọ 60 tuổi. Nghĩa là tự ông, một mình ông uống rượu mừng thọ chính ông. Tác giả viết:

Đất trời bao la bát ngát,(ta như) một cánh cỏ bồng chuyển xoay theo gió,

Thời gian vô hạn, niềm vui (của ta) vô cùng.

Tác giả vừa nâng chén rượu, vừa suy tư nghĩ ngợi nhiều bề, như để “kiểm toán” lại các sự kiện, các việc lớn nhỏ ông đã từng phải làm. Ông cho rằng, giữa đất trời bao la, mênh mông vô tận này, ông như “một lá cỏ bồng chuyển xoay theo gió”. Thế nghĩa là ông tự xem mình như viên tướng ở ngoài biên ải, tự mình suy tư, tự lên kế hoạch hành động, tự quyết định lấy cuộc đời của mình. Độc lập tất cả. Tùy cơ mà ứng biến. Hoặc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Mục tiêu chiến lược bất biến là phải làm tan rã triều đại Nguyên Mông. Từ việc ngoại giao khôn khéo thế nào, sắp đặt kế hoạch thế nào, để đạt được mục đích chiến lược như thế nào, để bảo vệ chính mình và gia quyến đông đúc hàng ngàn con cháu và tùy tùng…

Tác giả cho rằng, “thời gian thì vô hạn”. Nó cứ bình thản vô tình trôi đi. Còn như “niềm vui của ông thì vô hạn”. Việc lớn nhất mà ông đã hoàn thành, đó chính là việc ông đã tác động để vua mới Thiết Mộc Nhi ban chiếu bãi binh. Nghĩa là cuộc tấn công xâm lược Đại Việt lần thứ 4 đã bị bãi bỏ. Điều ấy khiến ông vô cùng sung sướng. Cho nên mới khẳng định rằng, đó chính là “niềm vui vô hạn” của ông. Chưa hết. Ông đã chiếm lĩnh được niềm tin tuyệt đối của vua Nguyên, được vua Nguyên trao cho chức vụ rất quan trọng. Từ chức vụ này, ông được gần vua, lại có nhiều thuận lợi trong kết giao bạn bè, để thực hiện kế hoạch phá địch từ bên trong, bằng trí tuệ sắc sảo, bằng học vấn sâu rộng nhiều mặt và cả ý chí ngoan cường.

Đọc một số bài thơ khác, thì biết thêm Trần Ích Tắc đã kết thân với khá nhiều bạn bè, cả người Nguyên, người Tống làm tay sai cho triều đình nhà Nguyên, người triều Tiên và một số nước khác cũng đang làm quan cho triều đình nhà Nguyên. Ví như ngài Nguyên Phục Sơ (Nguyên Minh Thiện), dòng họ Thác Bạt, hiện giữ chức Thừa tướng của triều đình nhà Nguyên, cũng là người bạn tri âm tri kỷ của Trần Ích Tắc. Kể cả ngài Hà Nam Vương dòng dõi qúy tộc Mông Cổ. Trong các mối quan hệ bạn bè thân thiết ấy, ông đã kiên trì khôn khéo tác động đến tâm lý, đến tình cảm và nhận thức của họ, khiến họ nhận ra chính mình, căm ghét nhà Nguyên, rồi âm thầm chống lại nhà Nguyên. Đặc biệt là những người nước Tống bị mất nước, bây giờ đang phải chịu luồn cúi dưới ách đô hộ của Mông Cổ. Nhục nhã lắm. Không thể biết Trần Ích Tắc đã âm thầm hành động như thế nào, cụ thể ra sao, nhưng ta biết người Tống đã nổi dậy chống Nguyên. Một viên Thái giám người Triều Tiên cũng góp phần tha hóa triều đình nhà Nguyên. Cuối cùng thì triều đại Nguyên Mông đã sụp đổ. Sự sụp đổ của triều đại Nguyên Mông, có vai trò rất lớn của cha con Trần Ích Tắc. (Tất nhiên, những biến động xã hội lớn này diễn ra sau khi Trần Ích Tắc đã tuổi cao sức yếu và qua đời).

Thế thì chẳng vui sao được? Một niềm vui vô tận vô cùng!

Nhưng giờ đây, nâng chén rượu tự chúc thọ mình, tác giả lại ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Một thuở xa xưa huy hoàng rực rỡ:

Ba ngàn tân khách như hồng bay lạc nhạn, giờ ở nơi đâu?

(Thế mà) ông lão sáu mươi như ta được sống lâu như loài rùa và hạc.

Thời còn ở trong nước, Chiêu Quốc Vương tiếng thơm lừng lẫy. Phủ đệ của ông rất đông đảo tân khách đến từ khắp nơi trong nước. Ông mở trường tư thục, bên cạnh QUỐC TỬ GIÁM, để dạy bảo học trò. Người nào khó khăn thì ông tài trợ. Phủ đệ của ông được ông ví như phủ đệ của Bình Nguyên Quân, Xuân Thân Quân, Tín Lăng Quân ở thời Chiến Quốc bên Tàu. Người đời vinh danh Bình Nguyên Quân là “Mạnh Thường Quân”. Ta có thua kém gì Bình Nguyên Quân đâu!

Trần Ích Tắc tài hoa nhiều vẻ. Chính ông, khi làm quan ở triều đình nhà Nguyên, ông đã họa chân dung của Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt, Thoát Hoan, Ô Mã Nhi.… để làm món quà ngoại giao khôn khéo. Không biết bây giờ những tân khách và môn khách và học trò của ông như Mạc Đĩnh Chi, Bùi Phóng, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, “chúng nó” đang ở phương nào? Mấy cậu học trò xuất sắc này thi đỗ cao, làm quan to trong triều Trần. Không biết  bây giờ “chúng nó” đang ở phương trời nào? Mà “Ông lão sáu mươi như ta lại được sống dai như rùa như hạc”!

Lại còn:

“Khóm trúc xanh trong cung cấm (của ta) liệu có còn giống như ngày xưa hay không”?

Lại thêm gió thu (heo hắt) thổi qua đám rau tần trắng bên dòng sông (Lô) lả lướt?

Quang cảnh cuộc sống thanh bình những ngày xưa yêu dấu ở kinh thành Thăng Long cứ lũ lượt hiện về trong tâm tưởng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. “Khóm trúc xanh” là khóm trúc trong phủ đệ của ta. Đám rau tần trắng (bạch tần) là đám rau vật vờ lả lướt bên sông Lô, (tức sông Hồng ngày nay) theo làn gió thu lành lạnh, ta thường ra đó ngắm chơi. Không biết bây giờ quang cảnh ấy như thế nào. Ôi chao là nhớ. Lòng nhớ quê cứ dào dạt dâng lên, khiến ta day dứt khôn nguôi.

Nhưng trước mắt, hôm nay là ngày ta chúc thọ chính ta, Cụ Nam Tào cho ta sống đến hôm nay là quý lắm rồi. Một mình ta uống với ta. Ta say với ta, với cái bóng của ta, chếnh choáng, mơ màng. “Sáng sớm ở lầu Quỳnh, tự chuốc chén rượu ngon say chếnh choáng”. Thế đấy! Thêm chén nữa nào. Ta ngất ngưởng say ta, say gió say mây. Lầu Quỳnh (Quỳnh Lâu) nó là cái lầu chi nhỉ? Phải rồi, nó là cái lầu ở cung điện trên cung trăng. Truyền thuyết của cái “thằng Tàu” nó chép như thế. Ta đang uống rượu ngon ở cung tiên trên trời đây. Cho nên, ta cảm thấy “thân ta như gần kề với tầng mây phía đông, ở chỗ sao Bắc Đẩu mọc”. Lòng ta sáng trong như ngọc, điều ấy “chỉ có trời mới biết”. Ta đâu phải như Tấn Văn Công, chỉ muốn mượn sức của ngoại bang về làm vua nước Tấn? Ta như ngài Vi Tử (Cơ Tử) muốn làm vua ở nước khác, xây dựng cơ đồ ở nước khác. Đúng hơn là ta muốn đòi lại giang sơn nước Nam Việt thời Triệu Vũ Đế huy hoàng. Ta muốn giành lại nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng anh hùng liệt nữ. Ai biết cái chí lớn xoay trời chuyển đất của ta nào! Cuộc đời vẻ vang của ta sẽ được sử sách lưu truyền mãi mãi.

Ấy thế mà mấy trăm năm sau đã mấy người hiểu được tiếng lòng của ta, biết được công lao vĩ đại của ta? Những kẻ có dăm ba chữ, cứ thấy chúng nó gào lên chửi ta là đồ phản quốc. Chúng nó ngu si vô học thì cũng chả chấp làm gì. Nhưng có mấy tay hàm vị cao ngất ngưởng, mà cũng ngu như lợn. Chúng cũng ông ổng tru lên chửi ta là đồ phản quốc. Chỉ có mấy bài thơ của ta, mà chúng cũng không hiểu nổi, thì thử hỏi rằng chúng làm được việc gì cho đất nước, hay chỉ làm cho con cháu ta ngu muội dần đi? Lại còn con cháu họ Trần của ta, nhiều đứa giỏi giang lắm đấy. Nhiều đứa được làm quan to, vàng bạc chất cao như núi. Ấy thể mà chúng chỉ ham kéo bè kết cánh vun vén tư lợi, làm mất lòng dân. Một khi có giặc phương Bắc lại kéo sang, thì dăm ba cái trò chọi gà, khoe mông khoe vú, liệu có thể dùng làm kế đánh giặc được hay không? Nhà lầu dát vàng, vợ đẹp như tiên, liệu có bảo toàn được trước sức mạnh của lũ giặc tham tàn hay không? A ha! Hừm! Rượu ngon làm chén nữa đây.

Thôi mặc! Tấc lòng son với đất nước Đại Việt của ta, trước sau rồi cũng được sáng tỏ mà thôi. Ta say lắm rồi đây! Chếnh choáng rồi đây! Tạm biệt cái Lầu Quỳnh tràn ngập hương thơm này nhé! Ta cắp be xuống chơi dưới trần gian, vừa đi, vừa gõ be, vừa hát bài ca “Tương Tiến Tửu” của Trích tiên Lý Bạch. Lão ấy thơ quá hay. Hừm! Tiên sư anh Tào Tháo!...

 

ĐẶC ÂN NHỎ, MÀ NIỀM VUI CỰC LỚN CỦA TRẦN ÍCH TẮC

Kính mời các bạn đọc, nghĩ tiếp về thơ Trần Ích Tắc!

(Tiếp theo)

ĐẠI MINH ĐIỆN THỊ YẾN

Ban bồi ngọc hốt thị hồng vân,

Nhật biểu hi hi thụy khí ôn.

Vạn phái triều tông thương hải khoát,

Chúng tinh hoàn củng tử vi tôn.

Ung dung “Trạm Lộ” ca thi thập,

Phảng phất quân thiên nhập mộng hồn.

Cô nghiệt thu hào giai để lực,

Nguyện đàn trung xích báo thâm ân.

Dịch nghĩa:

HẦU TIỆC Ở ĐIỆN ĐẠI MINH

Bầy tôi cầm hốt ngọc vua ban đến hầu tiệc trước cửa cung vua,

Mặt trời sáng rực, khí lành ấm áp.

Vạn dòng nước triều chảy vào biển lớn,

Ngàn sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm.

Ung dung hát bài ca “Trạm Lộ”,

Phảng phất trong hồn mộng thoáng nghe khúc nhạc “Quân Thiên”.

Chút việc cỏn con của cô thần đều nhờ vào tài sức vua cả,

Nguyện dốc hết lòng son báo đáp ơn sâu.

Dịch thơ

Bầy tôi hầu tiệc trước cửa cung,

Sáng rực mặt trời, khí mát trong.

Vạn nhánh nước triều vào biển lớn,

Ngàn sao vây cạnh Tử Vi hồng.

Bài ca “Trạm Lộ” ung dung hát,

Khúc nhạc “Quân Thiên” thoảng cõi lòng.

Chút việc cô thần nhờ vua cả,

Nguyện dốc lòng son báo thánh ân.

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Bài thơ kể lại một sự việc có thực đương thời. Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt thống trị Trung Hoa. Sau 3 lần thất bại nhục nhã trước Đại Việt nhỏ bé mà “bướng bỉnh”, ông ta đã chuẩn bị kế hoạch chi tiết cho một cuộc tổng tấn công trả thù Đại Việt lần thứ 4, với quy mô cực lớn. Lý do là vua Trần không chịu trực tiếp sang chầu. Nguyên Mông sẽ dốc toàn lực của cả chín châu, tức cả nước Nguyên (tức cả Trung Quốc), để quyết tiêu diệt tận gốc rễ của “tiểu quốc” khó bảo nhất, nhưng mà cũng đáng sợ nhất, đó chính là cái “thằng cha” Đại Việt mà họ gọi là “nhược tiểu” AN NAM.

Nhưng mà Hốt Tất Liệt có lẽ là chưa uống đủ liều thuốc tiên, thuốc “Trường sinh bất lão”, để có đủ sức mạnh kháng lại cái quy luật “sinh lão bệnh tử” của cõi người. Thế nên, cuối cùng thì ông ta cũng già yếu rồi ốm chết. Đó chính là năm 1294. Nhà Nguyên sai sứ đoàn do Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai dẫn đầu mang chiếu thư sang Đại Việt thông báo việc vua mới lên ngôi. Vua mới ấy chính là Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông), cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.

Thế là cái mộng bành trướng của Hốt Tất Liệt chấm dứt từ đây. Mối lo của Đại Việt và các nước chư hầu cũng theo đó mà vơi bớt. Người Trung Hoa cũng rất vui, là bởi vì kẻ thống trị Trung Hoa tàn bạo nhất, đáng sợ nhất, cũng đã tiêu đời. Cháu Hốt Tất Liệt là Thiết Mộc Nhi, sau thời gian ngồi ghế Đông cung Thái tử, đã được ngồi lên ngai vàng.

Triều đình nhà Nguyên đã sai sứ sang Đại Việt báo tin vua mới nhà Nguyên đã lên ngội. Triều Trần sau đó cũng sai sứ sang đáp lễ.

Trần Ích Tắc hiện đang là kẻ bề tôi của vua Nguyên. Ông cầm hốt (thẻ bàì của quan đại thần) hầu tiệc vua Nguyên ở điện Đại Minh. Đây là tiệc lớn mừng ngày vui lớn (Đại khánh) của vua Nguyên lên ngôi.

 AN NAM QUỐC VƯƠNG Trần Ích Tắc, đã được Hốt Tất Liệt phong chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, chẳng khác gì một sứ thần một nước chư hầu, trong nhiều nước chư hầu vây quanh “thiên tử” (con trời), tựa như “ngàn sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm”. Tác giả tỏ lòng ngợi ca vị vua của các vị vua, mà chắc chắn vị quan nào, vị sứ thần nào cũng phải có lời ngợi ca xã giao như thế, không thể khác. Và cũng không thể chê bai những con người buộc phải diễn cho tròn cái vai mà mình phải sắm.

 Quang cảnh ngày vui lớn (Đại khánh) được miêu tả rất hoành tráng. Rất nhiều sứ thần các nước về kinh đô của “thiên triều” dự lễ. Triều đình treo bảng VẠN QUỐC LAI TRIỀU (Vạn nước đến chầu). Trần Ích Tắc tỏ ra rất vui mừng. Ông dùng ngôn ngữ khoa trương để tả cái cảnh yến tiệc linh đình như chưa từng thấy, mà ông may mắn được tham dự.

Tác giả viết:

Mặt trời sáng rực, khí lành ấm áp.

Vạn dòng nước triều chảy vào biển lớn,

Ngàn sao vây quanh ngôi sao Tử Vi tôn nghiêm.

Toàn là những hình ảnh ẩn dụ, để chỉ hình ảnh vua Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông) và các quần thần, sứ thần đông đúc đang vây quanh nhà vua mới.

Tâm trạng Trần Ích Tắc tỏ ra đặc biệt  vui mừng. Thi nhân “Ung dung hát bài ca “Trạm lộ”, tức bài thơ đầu tiên được chép trong KINH THI, phần TIỂU NHÃ, miêu tả cảnh nhà vua ban yến tiệc cho quần thần. Và tác giả thầm kín tâm sự với chính mình, như thấy “Phảng phất trong hồn mộng, thoảng nghe khúc nhạc “Quân thiên”. Thực ra,“Quân Thiên” là chữ được rút gọn từ “Quân Thiên quảng nhạc”, trong thần thoại của Trung Quốc, tức khúc hát trên Thiên Đình. Chiêu Quốc Vương như đang lửng lơ ở trạng thái mơ và thực lẫn lộn, cho thấy kích cỡ niềm vui thầm kín của ông, khi vừa hoàn thành một công việc có ý nghĩa đại sự, với đất nước Đại Việt, và với cả chính ông. Không thể diễn tả được chính xác trạng thái tâm lý này. Ông vui sướng đến mức như điên, vừa đi vừa hát vang trời cái bài ca “Trạm Lộ”, tức bài ca vua ban yến tiệc cho quần thần kia.

 Hình như thi sĩ đang say sưa mơ màng, tưởng tượng trong hồn mộng niềm sung sướng vô bờ, không thể tả được, không sao nói ra được. Ông thầm nói với vua Nguyên, với cả chính lòng mình, rằng “Chút việc cỏn con của cô thần, đều nhờ vào tài đức của vua cả”.

 Thế là sao? Hình như Trần Ích Tắc muốn nói rằng, cái “chút việc cỏn con” của ông, của  một kẻ “cô thần” như ông, ví như ông đã nhỏ to với Thiết Mộc Nhi thế nào đó, tham mưu chính sự như thế nào đó, để vua Nguyên Thánh Tông đã đưa ra một quyết định lớn, ban chiếu bãi binh chẳng hạn. Thực tế là, Thiết Mộc Nhi đã nghe lời khuyên nên bãi binh của ông quan Tể tướng  (Bình chương Chính sự) Trần Ích Tắc. Chút việc “cỏn con” khiêm nhường của kẻ cô thần chả đáng là gì, nhưng ông hiểu rằng đó là một sự kiện vô cùng lớn lao, liên quan trực tiếp đến vận mệnh nước Đại Việt.

Theo tác giả, đó chỉ là một “chút việc cỏn con” thôi. Nhưng đó lại là một đặc ân, với tác giả và đồng nghĩa với nước Đại Việt. Một quyết định sáng suốt, có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Trần Ích Tắc đã lập được một chiến công vĩ đại. Bao nhiêu năm kiên trì tô vẽ cho cái cái vỏ bọc là kẻ hàng thần, bây giờ ông đã thành công mỹ mãn. Thì còn có niềm vui nào lớn hơn thế nữa đâu! Thiết Mộc Nhi đã nghe lời khuyên của Trần Ích Tắc. Thế nên, ông mới chân thành, tự đáy lòng ông, nói rằng thần sẽ đội ơn ngài, “Nguyện dốc tấc lòng son báo đáp ơn sâu”!

 Bài thơ HẦU TIỆC Ở ĐIỆN ĐẠI MINH của Trần Ích Tắc ẩn chứa nhiều thông tin huyền bí. Một bài thơ ẩn dụ toàn bài. Người đọc thơ Trần Ích Tắc đời sau phải có cái tâm trong sáng, cái tuệ nhãn tinh tường, mới có thể cảm thấu được!

 

BÀI CUỐI VÀ KẾT LUẬN VỀ CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC

(còn một số bài viết nữa về thơ Trần Ích Tắc, nhưng tôi tạm dừng ở đây)

Kính mời quý bạn đọc và cùng suy nghĩ !

TRIỀU HỒI XUẤT ĐÔ THÀNH ĐẠO TRUNG

Tây phong mã hướng Vũ Xương thời,

Hà niệm chanh hoàng giải chính phì.

Kim điện trùng đồng ân vũ lộ,

Ngọc đường chư lão cú châu ky.

Tiêu tiêu đoản mấn xuy tàn tuyết,

Phất phất quy tiên niểu tịch huy.

Bích lạc vô vân nghi quyện hạc,

Thả tùy thu nhạn cộng Nam phi.

Dịch nghĩa:

VÀO CHẦU TRỞ VỀ, TRÊN ĐƯỜNG RA KHỎI ĐÔ THÀNH

Khi gió thu thổi, ta ruổi ngựa theo hướng Vũ Xương,

Xa nhớ mùa cam chín vàng, mùa cua đang béo.

Ở điện vàng, vua Thuấn ban ơn mưa móc,

Nơi điện ngọc, chư lão cho lời ngọc châu.

Gió thổi vù vù trên mái tóc còn đọng tuyết,

Roi ngựa ve vẩy lay động cả ánh chiều.

Bầu trời xanh biếc không mây, cánh hạc mỏi,

Hãy theo chim nhạn mùa thu cùng bay về phương Nam.

Dịch thơ

Gió thu ruổi ngựa Vũ Xương,

Nhớ quê cua béo, cam đường thơm ngon.

Điện vàng, mưa móc ban ơn,

Ngự tiền chư lão tặng thêm lời vàng.

Đầu pha tuyết, gió quét ngang,

Vẩy ve roi ngựa ánh vàng long lanh.

Mệt nhoài cánh hạc trời xanh,

Hãy theo chim nhạn bay nhanh về nhà.

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Đây là một bài, trong chùm thơ gần chục bài, Trần Ích Tắc thể hiện tâm trạng vui mừng khôn tả của ông, khi vua Nguyên Thiết Mộc Nhi lên ngôi kế vị Hốt Tất Liệt. Khi đã chính vị, Thiết Mộc Nhi bèn ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ. Chả là khi còn sống, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị kế hoạch tổng tấn công quyết dốc toàn lực tiêu diệt Đại Việt lần thứ 4,

 Căn cứ vào nội dung chùm thơ Trần Ích Tắc viết về sự kiện vô cùng quan trọng này, theo đó là tâm trạng vô cùng hứng khởi của ông, người đọc thơ, không chỉ biết thưởng lãm cái hay, cái đẹp nghệ thuật của tài thơ Trần Ích Tắc, mà còn phải suy ngẫm về nội dung tư tưởng, ngõ hầu tìm ra những tình ý thầm kín ở phía sau câu chữ lạnh lùng. Hóa ra, Trần Ích Tắc đã bằng cách nào đó, kiên trì, bền bỉ và khôn khéo tác động vào tư duy, vào ý chí của Thiết Mộc Nhi (cháu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt), khiến ông ấy phải ban chiếu bãi binh. Nghĩa là Thiết Mộc Nhi đã bãi bỏ kế hoạch tấn công Đại Việt lần thứ 4.

Xuất xứ của bài thơ đã được nêu ở tên bài. Đó là khi “VÀO CHẦU TRỞ VỀ, TRÊN ĐƯỜNG RA KHỎI ĐÔ THÀNH. Một khoảnh khắc quang cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Tâm trạng thi nhân vô cùng vui vẻ, náo nức như chưa bao giờ ông được vui sướng đến như vậy.

Tác giả viết:

Khi gió thu thổi, ta gióng ngựa ruổi theo hướng Vũ Xương,

Xa nhớ mùa cam chín vàng, mùa cua đang béo (ở quê nhà).

Ngồi trên lưng ngựa rời khỏi Đại Đô (đô thành của nhà Nguyên), về hướng Vũ Xương, lòng thi nhân nước Đại Việt bỗng nhớ quê nhà, với “mùa cam chín vàng” trải khắp các vùng quê, từ trung du đến đồng bằng. Rồi thì bây giờ chính là thời điểm “mùa cua đang béo” ở đồng bằng châu thổ sông Lô (sông Hồng). Xem thế đủ biết lòng nhớ quê hương luôn thường trực, luôn day dứt cháy bỏng trong lòng kẻ lữ thứ xa quê. Nhớ quê xa, lại bất chợt nhớ quang cảnh vừa mới diễn ra gần đây. Rằng “ở nơi điện ngọc, các vị chư lão cho lời ngọc châu”…

 Lời ngọc châu gì thế? Chả là ở cung điện triều Nguyên, vua mới đăng quang là Thiết Mộc Nhi vừa ban chiếu bãi binh. Ta vui mừng khôn xiết. Là bởi tờ chiếu bãi binh vừa được vua mới Thiết Mộc Nhi ban ra. Tờ chiếu này có liên quan trực tiếp đến vận mệnh nước Đại Việt của ta. Không có cuộc chiến tranh lần thứ 4 với Đại Việt nữa. Dân ta được sống trong hòa bình. Sinh linh hai nước Việt Hồ không bị cuốn vào vòng xoáy binh lửa điêu tàn, núi xương sông máu nữa.

Thế thì quá vui rồi, quá sung sướng rồi. Lòng ta vui bất tuyệt. Bao nhiêu năm mong chờ, điều ta ao ước, kiên tâm hành động và chờ đợi, nay đã thành công. Thế nên, các vị chư lão, các quan đại thần khán chầu đều rất vui vẻ, hồ hởi tặng ta, chúc mừng ta bằng những lời châu ngọc, quý báu vô cùng. Các vị chư lão đại thần, có người Mông Cổ, có người Tống, có vị người Triều Tiên, Miến Điện, Nhật Bản và nhiều nước khác. Họ chân thành tặng ta những lời tốt lành, đẹp đẽ như châu báu. Là vì chỉ có ta là người đại diện cho nước Đại Việt ở đây, chẳng chúc mừng ta thì còn ai nữa! Ta tự hào và sung sướng vô biên…

 Bây giờ ta trở về Vũ Xương đường dài vất vả, mặc cho “Gió thổi vù vù trên mái tóc cằn cỗi còn đọng tuyết sương”, nhưng lòng ta vẫn chưa thôi cảm xúc tươi rói ở nơi cung điện vừa rồi. Ta vẫn vừa đi vừa nghĩ theo cái cảm hứng bất tuyệt, cứ để cho chiếc “roi ngựa ve vẩy lay động cả ánh nắng chiều”. Quả là một hình ảnh thơ rất giàu tính tạo hình, chứa chan mỹ cảm

Ô kìa, ngẩng đầu lên, lại thấy:

“Bầu trời xanh biếc, không một gợn mây, cánh  chim hồng hạc bay mỏi. Sau bao vất vả nhọc nhằn, bây giờ nhiệm vụ lớn đã thành công, ta cũng tuổi cao rồi, mỏi mệt lắm rồi. Chúng ta không thể biết Trần Ích Tắc đã lập ra kế hoạch gì, hành động như thế nào, cụ thể ra sao. Nhưng ta biết người Tống đã nổi dậy chống Nguyên. Một viên Thái giám người Triều Tiên cũng góp phần tha hóa triều đình nhà Nguyên. Cuối cùng thì triều đại Nguyên Mông đã sụp đổ. Sự sụp đổ của triều đại Nguyên Mông, chắc chắn là có vai trò rất lớn của cha con Trần Ích Tắc. (Tất nhiên, những biến động xã hội lớn này diễn ra sau khi Trần Ích Tắc đã tuổi cao sức yếu và qua đời).

Thế thì chẳng vui sao được? Một niềm vui vô tận vô cùng, không bút mực nào tả xiết.

 Quả là:

Trời còn để có hôm nay,

Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời!

 

KẾT LUẬN

Căn cứ vào các tư liệu lịch sử, gạt bỏ những xác chữ bồng bềnh vô cảm ở sách này sách kia, khiến người đọc đời sau chưa hiểu được chính xác và đầy đủ về nhân vật lịch sử Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. Chúng tôi cho rằng, Trần Ích Tắc đã phải cả đời hy sinh danh dự, để âm thầm thực hiện nhiệm vụ vô cùng cao cả, vì nghĩa lớn, vì sự tồn vong của dân tộc Đại Việt, trước một thế lực ngoại bang hùng mạnh nhất thế giới, cường bạo nhất thế giới, đó chính là đế quốc Nguyên Mông.

Đây chính là vụ tổ chức tình báo chiến lược rất lớn, cực kỳ quan trọng, sau vụ tình báo chiến lược của Uy Vũ Vương Trần Nhật Duy, người anh em cùng cha khác mẹ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, do lãnh đạo nhà Trần đã kỳ công xây đắp, sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258).

  Nếu như vụ tình báo chiến lược do Trần Nhật Duy thực thi, thành công ở chỗ là đã khiến nội bộ Mông Cổ phải nghi ngờ lẫn nhau, cụ thể là Mông Kha và Hốt Tất liệt, dẫn đến những cuộc chiến đẫm máu, tranh đoạt lẫn nhau trong nội bộ Mông Cổ, đồng thời với cuộc chiến giữa nhà Tống và Mông Cổ kéo dài, khiến Mông Cổ không rảnh tay để tiếp tục xâm lăng trả thù Đại Việt ngay sau đó; thì trường hợp Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc trá hàng, thành công ở chỗ, Trần Ích Tắc trong vai hàng thần, ông đã góp phần không hề nhỏ, làm đế chế Nguyên Mông suy yếu. Đặc biệt, Trần Ích Tắc đã tác động tích cực, thông qua Nguyên Thánh Tông Thiết Mộc Nhi (cháu Hốt Tất Liệt), ngăn chặn được cuộc tấn công xâm lược Đại Việt lần thứ 4, do Hốt Tất Liệt xây dựng kế hoạch từ năm 1293, trước khi Hốt Tất Liệt chết (1294). Đồng thời, Trần Ích Tắc đã cùng con trai ông là Trần Hữu Lượng xây dựng được lực lượng vũ trang rất lớn mạnh, cùng các tập đoàn nổi dậy khác như Chu Nguyên Chương, Trương Sĩ Thành, khuấy đảo thiên hạ, khiến Nguyên Mông phải tan rã, rút chạy lên phía Bắc, thành lập triều đại Bắc Nguyên. Đó chính là những điều đã sáng tỏ, không ai bác bỏ được.

 Việc tiến hành nghiên cứu, giải mã thơ ca của Trần Ích Tắc, chúng ta càng hiểu rõ thêm, tỏ tường hơn chân dung nhà tình báo chiến lược vĩ đại Trần Ích Tắc. Theo đó là công lao không ai sánh nổi của ông, trong việc đánh địch từ trong lòng địch, bảo vệ từ xa sự tồn vong của dân tộc Đại Việt.

 Hãy tưởng tượng mà xem, nếu không có sự ra đi của Trần Ích Tắc, nhà Trần sẽ phải điêu đứng như thế nào, phải gồng mình lên chống đỡ như thế nào, trước một tên đế quốc khổng lồ, cường bạo nhất thế giới trong lịch sử nhân loại, nếu chúng được rảnh tay? Nhà văn Mỹ gốc Nga, từng đoạt giải Nôbenl văn chương, đã viết: “Để hiểu được một con người, một dân tộc cả ngàn năm trước, thì chỉ có thơ ca mới làm được điều đó mà thôi”. Với Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, qua việc giải mã một số bài thơ còn lại của ông, cùng với những chứng lý chúng tôi đã biện giải từ một số bài viết trước, đủ biết ông vĩ đại đến chừng nào. Phải có con “mắt xanh”, có tầm và có cái tâm trong sáng, mới cảm nhận được, mới đánh giá được đầy đủ và chính xác nhất về cuộc đời và sự nghiệp vô cùng lớn lao của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

Phải trả lại sự thật cho lịch sử. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc phải được tôn vinh là ANH HÙNG DÂN TỘC. Đó là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Đó chính là lương tâm và trách nhiệm của tất cả chúng ta!

Hà Nội ngày 6.11.2022

Nhà văn VŨ BÌNH LỤC

 

THÊM MỘT TƯ LIỆU BỔ SUNG ĐỂ HIỂU THÊM VỀ TRẦN ÍCH TẮC!

 

VĨNH BÌNH TRẠI SƠ PHÁT

Vương sự thông mang cảm đạn lao,

Hiểu phong suy lộ bát chinh bào.

Đẩu Nam cung khuyết chiêm thiên cận,

Hán Bắc quan san quá lĩnh cao.

Liệp liệp Hán kỳ lăng thảo mãng,

Tiêu tiêu Hồ mã kiết cung đao.

Tảo tri thế lộ đa gian hiểm,

Tự phụ bình sinh nại đắc lao.

Dịch nghĩa:

MỚI RA KHỎI TRẠI VĨNH BÌNH

Việc vua việc nước bận rộn đâu dám ngại khó nhọc,

Gió sớm hắt sương thấm ướt chinh bào.

Từ phía Nam sao Bắc Đẩu nhìn về cung khuyết nhà vua thấy còn gần,

Nơi phương Bắc sông Ngân Hà vượt qua bao núi cao hiểm trở.

Gió ù ù thổi, ngọn cờ nhà Hán phấp phới lướt dạt ngọn cỏ,

Nghe tiếng ngựa rợ Hồ kêu khiến lòng rung rợn mà cung đao đeo bên mình (họ) dường như phát tiếng kêu.

Nếu sớm biết đường đời nhiều gian nan nguy hiểm như thế,

Thì lúc còn trẻ tuổi đừng tự phụ cho rằng mình có thể chịu đựng nổi những nỗi gian lao.

Dịch thơ

Việc vua đâu quản khó khăn,

Chinh bào dường đã ướt đầm sương mai.

Trông Bắc Đẩu, ngoảnh nhớ ai,

Ngước sông Ngân, núi như dài cao hơn.

Tinh kỳ quân Hán bay vờn,

Ngựa Hồ lướt gió chập chờn cung đao.

Biết đường đời lắm gian lao,

Bình sinh chớ nói khó nào cũng qua!

 (VŨ BÌNH LỤC dịch)

Theo sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT), trại Vĩnh Bình thuộc Ung châu, giáp với vùng Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn của nước ta. Thực ra, trại Vĩnh Bình thuộc đất Quảng Tây, tức nước NAM VIỆT của dân Bách Việt ta, thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) dựng lên, trong đó có tộc Lạc Việt nước Văn Lang, có nước Đại Việt ta thời nhà Trần. Nước Nam Việt sau bị nhà Hán cướp mất. Năm 40 SCN, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, giành lại toàn bộ đất đai nước Nam Việt, bao gồm Lưỡng Quảng và quần đảo Hải Nam ngày nay. Nhưng đến năm 43 SCN, nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng lại bị nhà Hán cướp mất. Thời kỳ Bắc thuộc từ đó, kéo dài gần ngàn năm, nhưng cũng không hẳn lúc nào nước ta cũng hoàn toàn bị “Bắc thuộc”.

Vĩnh Bình là một trại lính kiêm trạm dịch dừng nghỉ của các sứ đoàn nước ta thời Trần và của cả các sứ đoàn Đại Việt ở các thời kỳ Nguyên, Minh, Thanh sau đó. Trên đường đi sứ, Nguyễn Trung Ngạn cũng ghé dừng nghỉ ở đây.

Mở đầu bài thơ, thi nhân đã viết:

Việc vua việc nước bận rộn đâu dám ngại khó nhọc,

Gió sớm hắt sương thấm ướt chinh bào.

Hai câu đầu, tả khái quát về một chặng hành trình mới, trên đường tiến lên phương Bắc. Từ trại Vĩnh Bình (Quảng Tây), ra đi vào lúc sáng sớm, khi mà trời còn nhiều hơi sương, khiến cho áo “chinh bào cũng phải thấm ướt”. Vị Chánh sứ cưỡi ngựa, hay là đi kiệu? Không thấy mô tả kỹ ở đây, như ở bài VŨ DOANH ĐỘNG chẳng hạn. Hoặc giả là tác giả bài thơ đã ví việc đi sứ, như là một cuộc chiến, cho dù đó là một cuộc chiến ngoại giao? Dù thế nào, hai câu đầu cũng cho thấy rõ địa điểm xuất phát, thời gian ra đi, và cả cái không gian cùng cảnh ngộ của người ra đi.

Cũng chưa lấy làm thỏa mãn với giả định của mình, tôi phải đọc lại cuốn ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) thấy chép: “Mùa đông, tháng 11, vua (Dụ Tông) ngự điện Thiên An, duyệt cấm quân ở Long Từ, cho Trung Ngạn (Nguyễn Trung Ngạn) mặc chiến bào, đội mũ võ, đeo bài gỗ vuông bịt vàng…”. Có lẽ đó cũng là chiếc áo chiến bào (chinh bào) mà Nguyễn Trung Ngạn mặc khi đi sứ lần này chăng? Mặc dù, theo nghĩa chung, thì “chinh bào” là để chỉ chiếc áo mặc của những kẻ lữ thứ nói chung…

 Câu 3 và 4, tả thực. Mới là châu Ung, giáp với biên giới Đại Việt, nên nhìn sao Bắc Đẩu, còn thấy xa vời vợi ở phương Bắc, do vậy, “Nhìn về cung khuyết (của triều Trần), thấy trời còn đang ở rất gần”.

 Thực ra, đó chỉ là khoảng cách về tâm lý, hơn là khoảng cách về không gian cụ thể. Câu 3, vẫn là cảm giác tâm lý: “Nơi phương Bắc sông Ngân Hà, vượt qua núi non, có cảm giác (như núi có vẻ) cao hơn”. Hai câu thơ 3 và 4, đều tập trung tả cảm giác ở hướng nhìn lên cao. Đường lên Đại Đô (sau gọi là Yên Kinh, tức Bắc Kinh) nhiều núi non sông ngòi hiểm trở, mỗi bước đi, có cảm giác như núi non đang cao dần lên. Cảm giác về địa lý, cũng có thể kèm theo là cảm giác tâm lý, khi mà mỗi bước tiến lên phương Bắc, là mỗi bước thêm gian khổ, khó khăn, không ít hiểm nguy.

Hai câu 5 và 6, vẫn tiếp tục tả thực.

Cờ Hán phất phới lướt dạt ngọn cỏ,

 Ngựa Hồ băng băng lăm le cung đao.

Đây có lẽ chính là những đội quan quân của ai đó, mang cờ Hán, từ trại Vĩnh Bình, hộ tống sứ đoàn về kinh đô chăng? Nhưng, sách ĐVSKTT cho hay, năm 1355, Nguyễn Trung Ngạn được cử làm “Kinh lược sứ” trấn Lạng Giang, “Nhập nội Đại Hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm Tri khu Mật viện, thị Kinh diên Đại học sĩ”, tước “Trụ quốc Khai huyện Bá”. Có thể, từ vị trí quản lý khu vực biên giới phía Bắc này, Nguyễn Trung Ngạn được giao việc đi sứ chăng?

Được biết, năm 1359, Chu Nguyên Chương đánh nhau với Trần Hữu Lượng, chưa phân thắng bại. Trần Hữu Lượng là con của Trần Ích Tắc, theo cha chạy sang “hàng” quân Nguyên. Cho đến thời điểm này, Trần Hữu Lượng đã giành được chính quyền, chiếm phủ Thái Bình, mở rộng đến vùng trung lưu sông Trường Giang lúc bấy giờ. Trần Hữu Lượng xưng Hán Đế (vua Hán), gọi tên nước là Đại Hán, đối địch với Chu Nguyên Chương (người Hán). Đây là sách lược khôn khéo, hay là một cách thu phục sự ủng hộ của người Hán, mà thực chất trong tay Trần Hữu Lượng là toàn bộ dân Bách Việt ở Lưỡng Quảng, cùng với dân Hán ở phủ Thái Bình, bên kia biên giới hiện nay.

Trần Hữu Lượng đã không dưới ba lần sai sứ sang Đại Việt yêu cầu Trần Dụ Tông hợp sức đánh quân Nguyên, rồi đánh Chu Nguyên Chương, nhưng Dụ Tông không nghe. Thực ra, thời vua Trần Dụ Tông, Đại Việt đã suy yếu lắm rồi. Muốn giúp, cũng không thể. Trần Dụ Tông chỉ cho một sứ đoàn sang thăm dò tình hình bên kia biên giới mà thôi. Vậy sứ đoàn do Nguyễn Trung Ngạn cầm đầu, được cử sang bên kia biên giới, chỉ có nhiệm vụ xem xét tình hình chiến sự, thêm cả cái việc đề phòng có thể một lực lượng vũ trang nào đó bất ngờ tràn qua biên giới? Nghiên cứu thơ Nguyễn Trung Ngạn, thì thấy ở thời điểm này, đoàn quân của Nguyễn Trung Ngạn chỉ quẩn quanh ở vùng núi non rất nhiều lam chướng, vô cùng khổ cực. Thế nên, tâm trạng nhà thơ tỏ ra rất buồn chán. Bốn tháng sau, Nguyễn Trung Ngạn có chiếu thư triệu hồi về Thăng Long.

Vậy cờ Hán ở bài thơ này, chính là cờ Hán của quân Trần Hữu Lượng. Còn như “ngựa Hồ”, là để chỉ quân Nguyên Mông chứ không phải chỉ là để đối với “Cờ Hán” cho chỉnh câu văn. Thời điểm này, nhà Nguyên đã bị thất thế. Họ chuẩn bị rút chạy lên phương Bắc, lập ra triều đại Bắc Nguyên. Ở Trung Nguyên, chỉ có ba tập đoàn mới nổi dậy tranh chấp với nhau: Trần Hữu Lượng (người Việt), Chu Nguyên Chương (người Hán) và Trương Sĩ Thành (người Hán).

Nhưng qua miêu tả của tác giả, thấy rằng nước sở tại (Triều Đại Hán tự xưng của Trần Hữu Lượng) đã có ý diễu võ giương oai trước mặt sứ đoàn, cốt chỉ để phô trương thanh thế mà thôi.

Hai câu kết, thể hiện nhận thức, sự tỉnh ngộ về con đường Danh của tác giả:

Nếu sớm biết đường đời nhiều gian nan nguy hiểm thế này,

Lúc bình sinh đừng tự cho rằng mình có thể bền bỉ chịu đựng được.

Đây mới chỉ là những thử thách bước đầu. Đối chiếu hoàn cảnh lịch sử, tôi cho rằng đây là lần đi sứ thứ hai của Nguyễn Trung Ngạn, dưới thời vua Trần Dụ Tông trị vì. Cuộc đi sứ lần này của Nguyễn Trung Ngạn gặp rất nhiều khó khăn, khổ ải giữa chốn núi non trùng điệp mênh mông, lam chướng nghìn trùng. Cho nên tâm trạng nhà thơ rất buồn chán, thất vọng.

Một số bài thơ khác, Nguyễn Trung Ngạn viết ở lần "đi sứ" thứ hai này, tác giả cũng nói rõ thông tin về nhiệm vụ ông phải làm, như chúng tôi đã nói ở trên. Ví như ở bài thơ NGHE THÁNH CHỈ TRIỆU VỀ, CÓ CẢM XÚC, tác giả viết:

Triều đình giặc không mưu toan tiến đánh phương Nam,

Đành để cho chàng Tô tóc trắng mới trở về.

(Lỗ đình bất tác chinh Nam kế / Nhẫn sứ Tô Lang bạch phát hoàn)

Thế nghĩa là, triều Đại Hán của Trần Hữu Lượng không có ý đánh xuống phương Nam hay chăng? Hoặc giả là triều đình Nguyên Mông, hiện đang khốn quẫn vì các cuộc chiến với một số thế lực mới nổi dậy, ví như Trần Hữu Lượng đã chiếm hết Lộ Thái Bình và phần lớn Trung nguyên, cho nên, nhà Nguyên không có hơi sức đâu để nghĩ kế đánh xuống nước ta nữa. Sau 4 tháng quan sát ở vùng biên giới biên kia, Nguyễn Trung Ngạn mới được triệu hồi về Thăng Long...

Thực tế này cho thấy một thông tin rất thú vị, rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc sang “hàng” nhà Nguyên, chỉ là một cái mẹo trá hàng tinh vi. Con trai ông, Trần Hữu Lượng là kết quả của nhiều năm kiên trì xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh, đặt quốc hiệu  Đại Hán, làm vua nước Đại Hán. Nếu may mắn thì làm gì còn có nhà Minh nữa? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là một nhà tình báo báo chiến lược vĩ đại thế đấy!


VBL


Nguồn: FB Vũ Bình Lục và trang trannhuong.com 

2 nhận xét:

  1. Cảm ơn nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống đã kỳ công sưu tầm tư liệu rất quý về họ Trần !
    Lịch sử có những góc khuất mà hàng trăm, hàng nghìn năm sau mới sáng tỏ ! Những nhà tình báo chiến lược vĩ đại thường có số phận bi đát , vinh quang ít khi đến với họ khi còn sống vì họ hoạt động đơn tuyến và cấp trên của họ chỉ là 1 hoặc 2 người lãnh đạo tối cao !!!

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống đã tìm và mở ra cổng thông tin mới cho hậu thế

    Trả lờiXóa