Thơ Dài Thơ Ngắn
Sau buổi nhậu cuối tuần, mấy thằng bạn ngồi uống trà, cà phê bù khú chuyện văn chương. Được một lúc, câu chuyện lan man đến thơ: Làm thơ nên làm thơ dài hay thơ ngắn?
Một
ông bạn, sau khi nói một câu ba phải để vừa an toàn (khỏi sợ sai) vừa hợp lòng
mọi người: “Thơ dài hay ngắn hoàn toàn tùy sở thích của thi sĩ”, rồi có lẽ do
thúc đẩy của hơi men, bỗng nổi hứng tuyên bố thẳng thừng:
“Nhưng
những bài thơ ngắn quá (4 câu hoặc ít hơn) không đủ để tác giả bày tỏ lòng
mình. Nó giống như mấy thằng cha mắc chứng sậu tinh, chưa nhập cuộc đã khóc
ngoài quan ải, chưa đi đến chợ đã hết tiền, để người bạn tình nằm tô hô, thất vọng
trên giường.”
Vâng!
Tôi nhiều khi đọc thơ, cũng có cái cảm giác thất vọng như cô gái “nằm tô hô
trên giường.” Một bài thơ ngắn quá, chỉ giống như một màn đá phạt trong bóng
đá, một pha phối hợp nhỏ của 2, 3 cầu thủ phe mình để vượt qua một cầu thủ đối
phương.
Ở
đây kỹ thuật cá nhân được tận dụng tối đa. Cầu thủ có thể phô diễn tài đi bóng,
che bóng, lừa bóng, hoặc sút bóng bay theo đường vòng cung vào lưới. Nhưng người
ta không thấy được sự lên xuống nhịp nhàng của cả 11 cầu thủ trên sân, không có
cơ hội để thấy được tài của huấn luyện viên trong việc tổ chức, phối hợp đấu
pháp toàn đội.
Trong
một bài thơ ngắn thi sĩ phải chắt lọc từng chữ, từng câu để tự nó tạo được âm
vang, hình ảnh đặc biệt, hầu lưu lại một chút dấu ấn trong lòng người đọc, bởi,
với số chữ giới hạn, ông không có chỗ, không đủ thời gian đào con mương, trút cảm
xúc trong lòng mình xuống để nó cuồn cuộn chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng
trước như thác đổ, khuấy động tâm hồn người đọc.
Trong
một bài thơ quá ngắn người đọc không có dịp để thấy cái bề thế của trận địa chữ
nghĩa. Nó chỉ như một cuộc phục kích, đột kích cấp tiểu đội, trong đó người chỉ
huy không có dịp để nghe tiếng rít xé trời của phản lực, tiếng gầm của hải pháo
và pháo binh diện địa, tiếng ầm ì của thiết giáp, và đặc biệt, không có dịp để
thấy từng đoàn quân, từng đoàn quân, hàng hàng lớp lớp tiến lên chiếm lĩnh mục
tiêu.
Với
Sông Lấp của Tú Xương, một bài thơ rất ngắn, chỉ có 4 câu lục bát 28 chữ, người
ta phải xem nó là một ngoại lệ rất hiếm hoi.
Khung Cảnh Xã Hội Khi “Sông Lấp” Ra Đời
Trần
Tế Xương không có vinh dự đỗ đầu cả 3 kỳ thi như Tam Nguyên Yên Đỗ, hoặc khiêm
nhường hơn, đỗ Giải Nguyên (đầu thi Hương) như Nguyễn Công Trứ để được bổ quan,
đem tài sức của mình phục vụ quê hương, đất nước. Ông chỉ đỗ Tú Tài (Tú rốt bảng
trong năm Giáp Ngọ), không được vua ban áo mão, vinh quy bái tổ, sau đó được bổ
quan cửu phẩm, như những ông Nghè, ông Cống.
Nhưng
ở làng Vị Xuyên quê ông, ông cũng được tiếp rước long trọng, nở mày, nở mặt với
bà con, thôn xóm. Trong những buổi hội họp, tiệc tùng, đình đám, ông lại còn được
vinh dự ngồi chiếu tiên chỉ(1). Hơn nữa, với sự tự tin vào văn tài của
mình, với một tinh thần minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh của tuổi trung
niên, đường thi cử của ông vẫn còn rộng mở. Ông có lý do để hy vọng. Hy vọng một
ngày nào đó đỗ đạt cho bõ công đèn sách, đền đáp công lao của bà vợ đảm đang,
đem tài sức phục vụ đất nước.
Nhưng thời thế không đứng về phía ông.
Những
năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nước Việt Nam đã bị người Pháp hầu như nắm
toàn quyền cai trị. Triều đình bù nhìn nhà Nguyễn chỉ có quyền bổ nhiệm một số
chức quan “hữu danh vô thực”, còn những chức vụ có thực quyền lèo lái guồng máy
hành chánh của đất nước, đại đa số đều do người Pháp chỉ định. Ở miền trung và
miền bắc, thi Hương chưa bị chính thức bãi bỏ nhưng số người học chữ Nho đã
thưa giảm rất nhiều. Chính Tú Xương đã phải lên tiếng xác nhận:
Cái
học nhà Nho đã hỏng rồi
Mười
người đi học chín người thôi.
(Cái Học Nhà Nho)
Ngay
cả việc thi cử cũng không còn cái vẻ nghiêm trang, long trọng như ngày xưa:
Lọng
cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy
lê quét đất, mụ đầm ra.
(Vịnh Khoa Thi Hương)
Mà
dù có đỗ đạt đi nữa cũng đâu còn cái vinh dự, cái niềm tự hào như thời đất nước
còn độc lập, tự chủ:
Một
đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó
đỗ khoa này có sướng không
Trên
ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới
sân ông cử ngỏng đầu rồng
(Giễu Người Thi Đỗ)
Thêm
vào đó, người Pháp cũng đã mở trường huấn luyện và một số kỳ thi riêng của họ để
chọn người làm việc. Và cũng chính Tú Xương đã phải cay đắng than thở:
Nào
có ra gì cái chữ Nho
Ông
Nghè, ông Cống cũng nằm co
Chi
bằng đi học làm thầy Phán
Tối
rượu sâm banh, sáng sữa bò.
(Chữ Nho)
Từng
ngày, từng tháng trôi đi. Khung cảnh chính trị, văn hóa, xã hội không ngừng đổi
thay trước mắt theo chiều hướng xấu. Kho kiến thức sau bao năm đèn sách của
ông, như đồng tiền trong một nền kinh tế lạm phát phi mã, ngày càng giảm giá trị.
Con người sinh học của Tú Xương vẫn còn lây lất sống, nhưng trong tâm hồn ông,
niềm hy vọng, niềm tin vào tương lai, đang đi dần đến cõi chết, không còn
phương cứu vãn.
Bài
thơ Sông Lấp đã được viết trong hoàn cảnh đó.
SÔNG
LẤP
Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng
ngô khoai
Vẳng
nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai
gọi đò.
Tứ:
Nghe tiếng ếch vọng lại từ khu nhà, vườn tược được xây dựng ngay trên lòng sông
Vị Hoàng (nay đã bị lấp), tác giả giật mình tưởng tiếng gọi đò vọng lại và nhớ
đến bến đò cũ, con sông xưa.
Ý:
Tác giả nhớ thương, tiếc nuối cái thời Nho học – mà tác giả là một sĩ tử – còn
được coi trọng.
Năm
1832, sau khi triều đình cho đào sông Đào thay thế vai trò của sông Vị Hoàng,
nhằm rút ngắn lộ trình đường thuỷ. Sông Vị Hoàng trở nên kém tác dụng và bị phù
sa lấp dần. Cuối thế kỷ XIX, do cần đất để xây dựng các công sở, người Pháp đã
lấp sông Vị Hoàng, vì thế con sông này không còn nữa. Nhiều người gọi là sông Lấp,
ấy là gọi để nhớ thế thôi, chứ sông đã lấp rồi thì sao còn sông nữa
Dựa
vào 2 câu cuối của bài thơ tôi có thể suy luận ra mấy điều sau:
Khúc
sông Vị Hoàng chảy qua khu nhà của Tú Xương thuộc làng Vị Xuyên không có cầu bắc
qua sông.
Nhà
ông Tú không ở sát, nhưng cũng không xa bến đò ngang lắm; ở đấy có thể nghe được
tiếng gọi đò vọng lại.
Ông
rất nặng lòng với khúc sông đầy kỷ niệm, với quãng đời lúc con sông chưa bị lấp,
đến nỗi chỉ “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” ông cũng giật mình tưởng tiếng gọi đò
từ những năm xưa cũ.
Nhưng
nếu “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” mà người đọc chỉ tưởng “tiếng ai gọi đò” để từ
đó nhớ đến bến đò ngang cạnh nhà ông và rồi đến con sông Vị Hoàng ngày xưa (nay
đã bị lấp) thì… bất công với Tú Xương quá. Nếu dòng liên tưởng chỉ dừng ở đấy
thì giá trị nghệ thuật của bài thơ đã bị giảm đi rất nhiều. Nếu chỉ có thế người
ta đâu có gọi Sông Lấp là “tiếng thở dài thế sự” của Tú Xương.
Dĩ
nhiên, ông cũng nhớ đến con sông mà vợ ông đã “quanh năm buôn bán” ở đó để nuôi
sống một gia đình đông đúc “năm con với một chồng”. Nhưng con sông chỉ đóng vai
chiếc cầu để ông trở về cái thời tạm gọi là vàng son của ông, cái thời còn ngồi
chiếu tiên chỉ của làng Vị Xuyên, cái thời mà mọi người gọi ông là Ông Tú với
giọng kính trọng một nhà nho có văn tài, cái thời ông còn tràn trề hy vọng khi
nghĩ đến kỳ thi sắp tới, và trong lòng ông, niềm tin ở quê hương đất nước vẫn
còn rực sáng.
Còn
cái lúc ông viết Sông Lấp, ách cai trị của người Pháp đã lan tỏa, đã xâm nhập
vào mọi ngõ ngách của cuộc sống người dân Việt, nền Nho học đang lụi tàn, con
đường tương lai của ông đang đi vào ngõ cụt. Ông đành quay lại nhìn, nuối tiếc
cái thời xa xưa ấy để rồi buông “tiếng thở dài thế sự”.
Nhận Định Nghệ Thuật
Dù
bằng con mắt của người đọc thơ khó tính, dù áp dụng cách nhìn nhận, đánh giá
thơ ca của thời đại mới, tôi tin rằng người đọc vẫn khó tìm ra khuyết điểm của
bài thơ. Nhưng cái hay của bài thơ thì lại khá nhiều và độc đáo.
1/
Không có hội chứng nhàm chán vần
Những
thể thơ truyền thống, đặc biệt là thơ lục bát, rất dễ mắc phải hội chứng nhàm chán vần.
Sông Lấp chỉ có 4 câu, quá ngắn, nên thoát khỏi chứng bệnh này.
2/
Tứ thơ mạch lạc, thủ pháp “Show, Don’t Tell” áp dụng rất thành công, từ liên tưởng
này đến liên tưởng khác theo một trình tự hợp lý, người đọc rất dễ cảm nhận.
3/
Câu chữ đắc địa, khó thay đổi hoặc thay thế
Chúng
ta thử đọc bài thơ Không Đề, đã được nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc khen
là “một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính”(2)
Hôm
nao dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò tìm
nhau
Anh
đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu,
cánh buồm…
Câu
thứ 4 của bài thơ thật tuyệt vời. Đúng như Nguyễn Hưng Quốc nhận định:
Người
con gái vẫn còn đứng đó, bên thành cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành
ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất
cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người
con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhòa đi
trong khói sóng bập bềnh. Không còn thấy màu sắc nữa: chữ “nâu” ở nhịp cuối biến
mất(2).
Câu
thứ 4 của bài thơ hay như thế, nhưng còn 3 câu đầu thì sao? Theo tôi, không đắt
lắm. Một thi sĩ nào đó có thể khá dễ dàng thay thế 3 câu đầu bằng 3 câu khác để
có những hoàn cảnh chia tay khác nhau; mẹ chia tay con, bà chia tay cháu, vợ
chia tay chồng, hai người bạn chia tay nhau… miễn sao chữ cuối của câu 3 có vần
“au” hay “âu” để vần với “cánh buồm nâu” ở câu cuối.
Trong
Sông Lấp mỗi chữ, mỗi câu, mỗi ý tưởng, mỗi hình ảnh đều được xếp đặt, nối kết
như một thế trận. Thật khó có thể thay chữ này bằng chữ kia hoặc câu này bằng
câu khác mà không làm giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ. Riêng chữ “vẳng” và
2 chữ “giật mình” thì phải nói là đắt như kim cương. Không phải là tiếng sấm,
tiếng sét, tiếng súng nổ, tiếng cãi nhau to tiếng mà chỉ là “vẳng” nghe tiếng ếch
từ xa vọng lại, cũng đủ làm ông Tú “giật mình” nhớ đến một chuỗi những hình ảnh
của quá khứ xa xưa. Tâm hồn ông chắc phải thẳng căng như sợi dây đờn nên chỉ một
chạm nhẹ cũng rung lên bần bật, tạo nên “tiếng kêu khắc khoải” làm tái tê lòng
biết bao nhiêu người đọc thơ ông.
Hơn
nữa, cái hay của Không Đề chỉ ở câu thứ 4, giống như đội bóng có một cầu thủ
siêu sao. Cái hay của Sông Lấp là cái hay tổng thể, cái hay toàn bài. Ở đây, đội
bóng có một huấn luyện viên tài ba, xếp đặt 11 cầu thủ vào từng vị trí phù hợp
với sở trường và lối chơi riêng của họ, tạo được sự phối hợp gắn bó, nhịp nhàng
của toàn đội. (Nếu hoán chuyển vị trí của các cầu thủ hoặc thay thế một cầu thủ
trong đội bằng một cầu thủ khác thì hiệu quả của đấu pháp toàn đội sẽ giảm sút)
Phép
Ẩn Dụ Tuyệt Vời
Có lẽ cái hay nhất của Sông Lấp, có thể tôn
giá trị nghệ thuật của bài thơ lên nhiều nhất, là phép ẩn dụ; đúng hơn phải nói
là sự kết hợp tài tình giữa thủ pháp “Show, Don’t Tell” và phép ẩn dụ để diễn đạt
ý của tác giả.
Cái
thú khi đọc một bài thơ có phép ẩn dụ – tác giả nói về cái này mà ngụ ý cái kia – là lần
theo tứ thơ để tìm, để khám phá ý của tác giả. Phép ẩn dụ càng kín thì, khi người
đọc, bằng khả năng liên tưởng của mình, hiểu được, cảm thông được tâm tình mà
tác giả muốn chia sẻ, sự ngạc nhiên và thích thú càng gia tăng, bài thơ càng được
đánh giá cao.
Phép
ẩn dụ trong Sông Lấp rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng
không thấy được, cảm được ẩn ý của tác giả.(3)
Có
thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng trùng, điệp điệp, nhưng lại
có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo siêu đẳng, đưa được những điệp
viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy của quân địch. Phép ẩn dụ ấy được
kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “Show, Don’t Tell”, tạo ra một chuỗi những
chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác.
Từ
tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình,
nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông
không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông
đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc cầu đầu tiên. Đến 2 chiếc cầu liên tưởng
kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được. Từ tiếng gọi đò nhớ bến đò
ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp.
Khi
từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử,
văn học sử, cộng với một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng
sâu kín của nhà thơ - nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của
mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người
dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá.
Kết Luận
Với
Trương Kế, tiếng chuông chùa Hàn San chính là chữ Duyên của đạo Phật, là chiếc
phao giúp ông bơi vào bờ bến thi ca, để lại cho đời một bài thơ bất hủ: Phong
Kiều Dạ Bạc.
Với
Trần Tế Xương, tiếng ếch giữa đêm khuya đã khiến ông giật mình thảng thốt nhớ đến
bến đò cũ, con sông xưa, và rồi từ con sông ấy đã quay lại để thương, để nhớ, để
tiếc một quãng thời gian đầy kỷ niệm của đời mình. Nhờ tiếng ếch ấy, nhờ nỗi nhớ
thương, tiếc nuối ấy, ông đã đóng góp vào kho tàng văn chương của Việt Nam và của
thế giới một tuyệt tác thi ca: Sông Lấp - một bài thơ toàn bích.
PHẠM ĐỨC NHÌ
………………..
Chú thích:
1/ Người đứng đầu hội đồng kỳ dịch trong làng.
a/
Nếu làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo “thiên tước” thì ai cao tuổi nhất là
tiên chỉ.
b/
Nếu làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo “nhân tước” thì ai đỗ cao nhất hoặc
có phẩm hàm cao nhất thì ngồi chiếu tiên chỉ. (Wikipedia Tiếng Việt)
Tú Xương tuy chỉ đỗ Tú Tài nhưng có lẽ làng Vị Xuyên xét ngôi thứ trong
hội đồng theo “nhân tước” và lúc ấy chưa có người đỗ đạt nên ông được trọng vọng
mời ngồi chiếu tiên chỉ.
2/ Tứ Thơ, Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Nguyễn Hưng Quốc.
3/ Về Bài Thơ Sông Lấp Của Trần Tế Xương, Vũ Bình Lục.
Nhân tiện DK cung cấp thênm cho anh tư liệu , trước khi sông bị lấp, lúc đó chí sy Phan bội châu đang vận đông phong trào Đông du đưa người sang Nhật hocj tập để canh tân đất nước, nhờ Nhật giúp giành lại độc lập, ông có gọi đò qua sông để đến nhà Tú Xương vận động ông cùng đi sang Nhật, vì vợ yếu vừa sinh con, lại một đàn con thơ dại nên ông không nỡ dứt áo ra đi, sau đó ông cứ ân hận mãi.
Trả lờiXóaCám ơn thông tin mới của DK
XóaRất lý thú và thi vị khi đọc bài bình .
Trả lờiXóaKhuong Nguyen Duy
Trả lờiXóaCám ơn Khuong Nguyen Duy
Xóa