-
Trích từ 1001 KIÊNG KỴ TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất
bản Thanh Hóa 2010 -
Không
chỉ xưa mà nay, khi khởi sự những công việc quan trọng người ta thường cẩn
trọng chọn ngày, kén giờ sao cho đúng vào giờ đẹp, ngày lành mới tiến hành để
cầu mong sự tốt lành sẽ đến với con cháu, gia tộc nhưng việc chọn được ngày
đẹp, không bị các sao xấu xâm phạm thì thật khó, mỗi tháng chỉ được vài ngày
trong khi công việc lại cần kíp, không thể trì hoãn, nếu cứ câu nệ vào việc
chọn ngày đẹp, giờ đẹp sẽ làm lỡ dở công việc, lỡ mất những vận may của mình,
rồi thành sự nuối tiếc của bản thân và trở thành chuyện cợt nhả, mua vui của
thiên hạ.
Hơn
một lần chúng tôi đã lưu ý: Có thờ có thiêng có kiêng có lành nhưng cũng không
nên quá câu nệ vào những kiêng kỵ mà làm lỡ dở công việc, lỡ mất vận may, trong
khi công việc, nhất là vận may có khi chỉ đến một lần trong đời.
Vậy
khi có việc cần kíp không thể trì hoãn mà gặp phải ngày - giờ xấu thì nên làm
thế nào? Chẳng lẽ đợi tháng sau, năm sau mới tiến hành? Người viết lược soạn
bốn (4) phép “hóa giải”, ngõ hầu giúp bạn đọc vẫn tiến hành công việc dù ngày
giờ xấu nhưng kết quả cũng không đáng ngại.
1. Dùng cơ chế “chế sát”:
Đây
là cách hóa giải kiểu lấy độc trị độc, tức là dùng quan hệ tương khắc của ngũ
hành để chế sát sự hung hiểm của ngày xấu. Ví dụ: Ngày hung thuộc Thủy thì dùng
giờ Thổ để hóa giải (Thổ khắc Thủy); ngày hung thuộc Hỏa thì dùng giờ Thủy để
hóa giải (Thủy khắc Hỏa); ngày hung thuộc Mộc thì dùng giờ Kim để hóa giải (Kim
khắc Mộc)......
Có
người kỹ tính hơn còn căn cứ vào ngũ hành nạp âm của ngày, giờ để chế sát sự
hung hiểm của ngày xấu. Ví dụ, ngày xấu là Ất Hợi (Sơn Đầu Hỏa - Lửa đỉnh núi)
sẽ chọn giờ Bính Ngọ (Thiên Hà Thủy - Nước sông trời) để chế sát. Như thế, theo
thiển nghĩ của người viết là khiên cưỡng, phi thực tế bởi trong một ngày có 24
giờ, ứng với 12 giờ trong lý số mà ngũ hành nạp âm thuộc lục thập hoa giáp được
tính từ Giáp Tý (tuổi) đến Quý Hợi (tuổi) trọn đủ 1 vòng là 60 (năm) nên việc
dùng nạp âm ngũ hành của giờ để chế sát hung hiểm của ngày (nạp âm ngũ hành)
xấu là khó khả thi, có thể coi là không thực tế.
2. Dùng cơ chế “hóa Sinh”:
Đây
là cách hóa giải dùng quan hệ tương sinh của ngũ hành để chế sát sự hung
hiểm của ngày xấu. Ví dụ: Ngày xấu thuộc Kim thì dùng giờ Thổ để hóa giải (Thổ
sinh Kim); ngày xấu thuộc Thủy thì dùng giờ Kim để hóa giải (Kim sinh Thuỷ);
ngày xấu thuộc Hỏa thì dùng giờ Mộc để hóa giải (Mộc sinh Hỏa).
Tương
tự như trường hợp dùng quan hệ tương khắc của ngũ hành để chế sát sự hung hiểm
của ngày xấu, không ít người cũng căn cứ vào ngũ hành nạp âm của ngày, giờ để
hóa giải. Cách làm này cũng khiên cưỡng, phi thực tế như trường hợp dùng cơ chế
“chế sát”, người viết không nhắc lại, chỉ lưu ý bạn đọc: Khi xét ảnh hưởng qua
lại (tốt xấu) trong các mối quan hệ của ngũ hành thì tùy từng trường hợp mà căn
cứ vào đặc tính của ngũ hành hay lý tính của ngũ hành mà ứng dụng, nếu nhất
nhất việc gì cũng lấy đặc tính của ngũ hành hoặc lý tính của ngũ hành mà ứng
dụng sẽ có thể không những không hiệu quả mà còn phản tác dụng.
3. Dùng cơ chế “tị hòa”:
Đây
là cách dùng quan hệ tương hòa (bình hòa) của ngũ hành để hóa giải sự hung hiểm
của ngày xấu. Ví dụ: Ngày xấu thuộc Âm Mộc thì dùng giờ Dương Mộc để hóa giải;
ngày xấu thuộc Âm Kim thì dùng giờ Dương Kim để hóa giải.....
Cũng
như quy luật tương sinh hoặc tương khắc của ngũ hành, ở quy luật tương hòa của
ngũ hành, bạn đọc cũng không thể bỏ qua quy luật Âm - Dương của ngũ hành.
Tính chất trong Âm (-) có
Dương (+), trong Dương (+) có Âm (-), Âm (-) cực sinh Dương (+), Dương (+) cực
sinh Âm (-) của dịch lý nên khi 2 hành tương hòa, nếu có một Âm (-) và một
Dương (+) thì sự phù hợp và phù trợ nhau sẽ rất đắc lực.
Ví
dụ: Dương Thổ và Âm Thổ, Dương Thủy và Âm Thủy, Dương Hỏa và Âm Hỏa, Dương Kim
và Âm Kim, Dương Mộc và Âm Mộc.
Nhưng
nếu 2 hành tương hòa đó cùng khí Âm (-) hoặc cùng khí Dương (+) thì sự hòa hợp
đó trở thành vô nghĩa.
Ví dụ: Dương Thổ và Dương
Thổ, Âm Thủy và Âm Thủy, Dương Mộc và Dương Mộc... Trong trường hợp này, sự
tương hòa về đặc tính của các hành đó không tốt mà cũng không xấu.
4. Thay đổi người chủ trì:
Đây
là cách “mượn tuổi” để hóa giải sự hung hiểm của ngày xấu. Người ta thường cậy
nhờ bạn bè, người thân - những người hoặc thuộc tam hợp tuổi với gia chủ lại
“được tuổi” cho việc sẽ khởi sự hoặc người “được tuổi” (âm lịch) cho việc sẽ
chuẩn bị tiến hành, thay Mệnh chủ đứng ra làm chủ công việc để hóa giải sự hung
hiểm của ngày xấu.
Ví
dụ: Người tuổi Tỵ nếu không được tuổi làm nhà sẽ nhờ người thuộc tam hợp tuổi
(Tỵ - Dậu - Sửu) với bản Mệnh của mình mà người đó lại “được tuổi” làm nhà sẽ đứng
ra chủ trì công việc, ít nhất là đứng làm chủ lễ, bổ nhát cuốc đầu tiên khi
động thổ hoặc đổ xô vữa đầu tiên khi đổ mái bằng. Nếu trong tam hợp tuổi, không
có người “được tuổi” thì sẽ nhờ người nào đó “được tuổi” nhưng không xung khắc
với bản Mệnh của mình, đứng ra làm chủ lễ, chủ trì công việc.
Lời kết:
Trong
bốn phép “hóa giải” trên, theo thiển nghĩ của người viết, khi công việc cần kíp
không thể trì hoãn được, bạn có thể dùng cơ chế “chế sát” là cách tốt nhất để
hóa giải sự hung - sát của ngày xấu. Còn nếu vì lý do nào đó không chọn được
giờ khắc với ngày xấu, lúc bấy giờ mới dùng cơ chế “hóa sinh”, sau cùng mới đến
dùng người khác thay Mệnh chủ hoặc dùng cơ chế “tị hòa” để hóa giải những hung
họa của ngày xấu.
*.
Hà Nội, cuối thu Kỷ Sửu (2009)
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét