Thứ Tư, 3 tháng 1, 2024

CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC TỰ VIẾNG CHÍNH MÌNH! / Vũ Bình Lục

 


 

Phiên âm:

QUÂN TRUNG ĐIỆU VONG

Điểu xuất đan tâm trạch thụ thê,

Nhất triêu hương ngọc truỵ trần nê.

Tiêu Hồi, Vũ Khúc tinh nhưng Bắc,

Vân yểm dư khu nguyệt chính tê (tây).

Lạc phố bội vong quân bất kiến,

Vạn niên kiều đoạn lộ sơ mê.

Li li yên thảo hà niên bích,

Nhẫn thính tàn xuân  đỗ vũ đề.

 

Dịch nghĩa:

VIẾNG NGƯỜI CHẾT Ở TRONG QUÂN

Chim bay đi (để giữ) tấm lòng son của mình, cũng phải chọn cành mà đỗ,

Một buổi sáng, cành hoa huệ rơi xuống cõi trần bụi bặm.

Sao Tiêu Hồi, sao Vũ Khúc vẫn ở hướng Bắc,

Ta vén áng mây che vầng trăng tròn ở phía Tây.

Nơi bến sông Lạc, ngọc bội mất, người chẳng thấy,

Vạn năm cầu gãy, đường đi bắt đầu mờ mịt.

Cỏ non rậm rạp, (biết đến) năm nào mới lên xanh biếc ?

Dằn lòng nghe tiếng chim Đỗ Vũ kêu lúc tàn xuân.

 

Dịch thơ:

Con chim khôn, chọn cành mà đậu,

Cõi trần ai, hoa huệ rụng rơi.

Tiêu Hồi, Vũ Khúc Bắc trời,

Tây phương, ta vén mây phơi trăng tròn.

Bến sông Lạc đâu còn ngọc quý,

Đường mịt mờ, cầu gãy từ đây.

Bao giờ biếc cỏ xanh cây?

Tiếc xuân, Đỗ Vũ hao gầy xót đau…

                  (VŨ BÌNH LỤC dịch)

 

Sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ chép rằng, ngày 15 tháng 3 năm 1285, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đem cả gia quyến chạy sang hàng Mông Nguyên. Trước đó, Chiêu Quốc Vương tự cho mình là Hoàng tử thông minh tài giỏi nhất trong số các Hoàng tử, muốn được làm vua. Không thoả chí thì sinh ra bất mãn, bèn chạy sang Bắc theo hàng nhà Mông Nguyên. Đại ý tóm tắt là vậy.

       Chúng tôi đã chứng minh đầy đủ, rằng đây chẳng qua chỉ là một cuộc trá hàng. Lãnh đạo nhà Trần đã bí mật tổ chức một vụ tình báo chiến lược cực kỳ tinh vi, khiến Hốt Tất Liệt đã tuyệt đối tin tưởng vào Trần Ích Tắc. Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) chẳng cần phải phân vân gì, đã trao ngay cho Trần Ích Tắc chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, (tức Tể Tướng), tham mưu chính sự bên cạnh vua Nguyên. Ở địa vị này, Chiêu Quốc Vương có nhiều thuận lợi để thực thi nhiệm vụ vừa công khai, vừa bí mật vô cùng khó khăn phúc tạp của mình.

Đấy là việc diễn ra sau này. Còn đây là bài thơ Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc viết, để gửi gắm tâm sự của ông, ở thời điểm ông đem cả gia quyến và tuỳ tùng, hàng trăm người, có thể là còn hơn thế nữa, sang bên kia biên giới, nhằm thực hiện một nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn và trường kỳ, năm này qua năm khác, đời này qua đời khác và tiếp nữa... Ở thời điểm cam go sống còn ấy của dân tộc, nếu không phải là Trần Ích Tắc, nhà Trần không có ai làm nổi. Nói thế cho nhanh. Nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, đòi hỏi phải là một con người tài hoa thông tuệ, văn võ song toàn, tinh thông văn hoá phương Đông, ngoại giao tài giỏi, tính cách khoan hoà, tiết chế được cương nhu, mới có thể làm tốt nhiệm vụ đánh giặc từ xa, đánh địch từ trong lòng địch, khiến nhà Mông Nguyên phải tan rã…

Đấy cũng là việc diễn ra sau này. Chiêu Quốc Vương và con trai ông là Trần Hữu Lượng đã làm được điều đó một cách xuất sắc…

       Nhưng dẫu sao, một công việc phải hy sinh rất nhiều, đòi hỏi tấm lòng vì nước quên thân. Hy sinh cả danh dự một Chiêu Quốc Vương triều Trần oai dũng. Biết đến khi nào, danh dự của ông mới được phục hồi? Bài thơ QUÂN TRUNG ĐIỆU VONG, tức VIẾNG NGƯỜI CHẾT TRONG QUÂN, chính là tâm trạng xót xa đau đớn của Chiêu Quốc Vương, trước giờ phút bước sang bên kia biên giới, tự biến mình thành một con người khác, sống trong một thế giới khác. Chiêu Quốc Vương tự khóc thương cho người đã chết trong quân, ở đây, chính là ông đấy!...

       Mở đầu bài thơ luật thất ngôn bát cú, tác giả viết:

       Chim bay đi để giữ tấm lòng son của minh, cũng phải chọn cành mà đậu,

       Một buổi sáng, cành ngọc hương rơi xuống cõi trần ai bụi bặm.

       Đấy là khái quát chung về thân phận bi tráng của tác giả. Tự ví mình, hay là dùng biểu tượng con chim phải xa tổ bay đi. Rời tổ ấm quê nhà, cả gia tộc, để bay đi, nhưng mà vẫn phải giữ vững tấm lòng son (đan tâm), tấm lòng trung hiếu của mình với triều đình, với đất nước. Thế nên, cũng “phải chọn cành mà đậu”. Chứ còn sao nữa? Tuy nhiên, dầu vậy, biết vậy, nhưng lòng ta vô cùng đau xót. Kể từ đây, từ buổi sáng hôm nay, ngày 15 tháng 3, năm 1285, “ta như cành ngọc hương (tức cành hoa huệ) đã phải rụng rơi xuống cõi trần ai nhiều bụi bặm”. Thế đấy! Chẳng phải là xót xa đau lòng lắm hay sao!

       Thi nhân viết tiếp:

       Sao Tiêu Hồi, sao Vũ Khúc vẫn ở hướng Bắc,

       Ta vén áng mây che vầng trăng tròn ở phía Tây.

       Tiêu Hồi và Vũ Khúc là các vì sao nào vậy? Tiêu Hồi chính là 3 ngôi sao nằm ở phía đuôi chòm sao Bắc Đẩu. Còn sao Vũ Khúc, lại chính là ngôi sao thứ 6 trong chòm Bắc Đẩu. Ta sẽ là những ngôi sao ấy, mãi mãi sáng ở trời Bắc. Rồi ta sẽ vén lên áng mây đang che khuất vầng trăng tròn ở phía Tây kia! Ta sẽ… Chiêu Quốc Vương tự tin, vững lòng tin như vậy đấy!

       Rồi thi nhân tự bình luận, tự ngậm ngùi than thở với lòng mình:

       Nơi bến sông Lạc, ngọc bội mất, người đâu chẳng thấy,

Vạn năm cầu gãy, đường xa bắt đầu mờ mịt.

Thế là sao? Tương truyền, hay là truyền thuyết bảo rằng Sông Lạc (Lạc phố) chính là nơi Tiên ở đó. “Ngọc bội mất”, nghĩa là ta đã mất cái danh thơm một Chiêu Quốc Vương sáng giá nhà Trần, danh thơm một công dân nước Đại Việt kiêu hùng, mà phải gánh chịu cái tiếng nhơ là tên PHẢN QUỐC. Ngọc bội đã mất rồi, thì còn đâu thấy người nữa? Một tên “chiêu hồi” cũng sẽ tan biến vào khói sương lịch sử hay chăng? Thế nên, từ đây, “Vạn năm cầu gãy” mất rồi, mà “đường lên phương Bắc chông gai mờ mịt lắm”!...

       Kết thúc bài thơ, vẫn là những hình ảnh ẩn dụ, thầm kín. Tác giả viết:

Cỏ non rậm rạp, năm nào mới lại lên xanh biếc?

Đành dằn long nghe tiếng chim Đỗ Vũ kêu lúc xuân tàn.

Biết bao giờ? Biết bao giờ thì cái thân phận của ta, như cái bãi cỏ hoang rậm rạp kia, mới lại được tự mình biếc xanh lên, thắm mát cả trời xanh, cho thoả lòng khát khao một đời chìm trong hoang dại? Biết đến bao giờ? Mà giờ đây đành phải “dằn lòng nghe tiếng Đỗ Vũ kêu nát cả trời xuân”!

       Ôi chao! Những tiếng lòng đau thương thảm thiết của người con đất Việt yêu nước đến cháy lòng, phải cất lên tiếng kêu như tiếng con chim Đỗ Vũ trước mùa xuân đang tàn. Thử hỏi còn có đau đớn nào hơn thế?

       Tại sao lại là chim Đỗ Vũ được ví ở đây? Chim Đỗ Vũ, còn gọi là chim Đỗ Quyên, chim Từ Quy, hay chim Cuốc Cuốc. Thời Xuân Thu bên Tàu, vua nước Cổ Thục tên là Đỗ Vũ, mất nước, chết, biến thành con chim Đỗ Quyên, kêu ra rả ai oán rất thảm thiết. Tuy nhiên ở đây, tác giả chỉ mượn hình ảnh con chim Đỗ Quyên để gửi gắm tâm trạng da diết nhớ quê nhà của kẻ lữ thứ tha hương mà thôi!

       Thơ Trần Ích Tắc hầu như đều là những bài thơ ẩn dụ toàn bài. Nếu lướt qua thì không thể hiểu nổi những dằng xé, những cung bậc đa chiều của tâm trạng thi nhân. Và nói chung, thơ Trần Ích Tắc đều là những kiệt tác. Đương thời, và cả đến ngày nay, nào mấy ai sánh được?

 

       Vũ Binh Lục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét