XUẤT QUỐC
Đương niên trượng nghĩa xuất
Nam bang,
Cảnh cảnh đan trung đối bi
thương.
Bất vị Văn Công đào Tấn nạn,
Thử ky Vi Tử kế Ân vương
(vong).
Cơ cừu vị mẫn tiên nhân chí,
Giản sách ưng lưu vạn cổ
phương.
Hoàn vũ xa thư hội đồng nhật,
Cố gia tông tự Việt sơn trường.
Dịch nghĩa:
RỜI ĐẤT NƯỚC
Năm đó vì trọng nghĩa mà rời
khỏi nước Nam,
Tấc lòng son canh cánh (của
ta) chỉ trời xanh mới biết.
Chẳng phải Văn Công bỏ nhà Tấn
lúc nguy nan,
(Mà) ngõ hầu (như) Vi Tử nối
dõi nhà Ân đã mất.
Chí nối nghiệp cũ của cha ông
vẫn không hề tiêu tan,
Nên để sử sách lưu lại tiếng
thơm ngàn đời.
Đến ngày bờ cõi thống nhất
(chúng ta) cùng gặp gỡ,
Thì dòng dõi cha ông nối tiếp,
lâu bền như núi non nước Việt vậy!
Dịch thơ:
Trọng
nghĩa, nên ta rời Đại Việt,
Trời
xanh mới biết tấm lòng son.
Chẳng
phải Văn Công rời Tấn quốc,
Mà
như Vi Tử muốn Ân còn.
Chí
nối nghiệp xưa luôn tạc dạ,
Tiếng
thơm truyền mãi sử không mòn.
Một
mai thống nhất giang sơn ấy,
Dòng
dõi cha ông vững Việt non.
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Chỉ
cần hiểu rõ nội dung bài thơ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người đọc ngày
nay đã có thể hiểu rõ tâm sự của ông. Tác giả muốn nhắn gửi đến muôn đời sau sự
thật về cuộc đời có phần ngang trái, nhưng vô cùng vĩ đại. Ông phải hy sinh cả
danh phận cao quý của mình, vì lợi ích lâu dài cho sự tồn vong của đất nước. Nếu
hiểu được nội dung bài thơ, chúng ta sẽ hiểu ngay rằng, Trần Ích Tắc không phải
là kẻ “phản quốc” như cái tiếng xấu ông phải mang vác nó, đeo đẳng nó theo suốt
cuộc đời ông. Sự thật là, tầng lớp lãnh đạo tối cao nhà Trần đã giao cho Chiêu
Quốc Vương Trần Ích Tắc thực thi nhiệm vụ trá hàng. Nghĩa là Chiêu Quốc Vương
phải khoác chiếc áo một tên PHẢN QUỐC. Đó chính là một sự hy sinh vĩ đại của một
nhà tình báo chiến lược vĩ đại.
Mở
đầu bài thơ, Chiêu Quốc Vương viết:
Đương
niên trượng nghĩa xuất Nam bang,
Cảnh
cảnh đan trung đối bi thương.
Năm
ấy (đương niên), là vì trọng nghĩa (với triều Trần, đồng nghĩa với nước Đại Việt),
cho nên, ta mới phải rời Nam bang, tức nước Đại Việt của ta. Chứ đâu phải là ta
bỏ mặc quê nhà trong lúc nguy khốn mà chạy sang nương náu cửa người, để kiếm
chút lợi nhỏ. Tấm lòng trung nghĩa của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!
Đó
là một sự khẳng định. Đương nhiên, đó cũng là điều hết sức bí mật. Có lẽ, lúc bấy
giờ chỉ có Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, Quốc Công Tiết Chế
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Thái Sư Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần
Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Tung, biết và theo dõi chuyện này.
Lãnh
đạo triều Trần đã bí mật tổ chức một cuộc đào tẩu, trá hàng một cách tinh vi,
hoàn hảo đến mức ngoạn mục như vậy. Trong khi những nhà chép sử thì cứ vô tư
chép đại ý: “Trần Ích Tắc cực kỳ thông minh. Ông tự cho mình là thông minh tài
giỏi hơn tất cả các vị Hoàng Tử nhà Trần. Mới 14 tuổi, Ích Tắc đã được phong tước
Chiêu Quốc Vương. Khi 15 tuổi đã muốn được làm vua. Không thỏa chí thì sinh ra
bất bình, bèn đem theo cả gia quyến, bỏ nước chạy sang nhà Nguyên”. Đó là ngày
15-3-1285. Một cuộc tẩu thoát không hề có ai ngăn chặn. Thế là sao?
Chuyện “năm ấy” là vậy. Nhưng tấm lòng “vì
nghĩa” lớn của ta, chỉ có trời xanh mới biết mà thôi!
Tác
giả viết tiếp:
Bất
thị Văn Công đào Tấn nạn,
Thử
ky Vi Tử kế Ân vương (vong).
Thế
là sao? Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nói rằng, ta không phải là kẻ như Văn
Công bỏ nhà Tấn trong lúc nguy nan đâu. Mà ta như ngài Vi Tử kia, muốn nối dõi
nhà Ân đã mất.
Rõ
là hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đời xưa, tình cảnh đối lập nhau. Tấn Văn
Công (697TCN-628TCN), chính là công tử Trùng Nhĩ. Hồi nước Tấn loạn, các vị
công tử tranh đoạt ngôi báu. Công tử Trùng Nhĩ bèn đem theo một số tùy tùng bỏ
nước Tấn chạy sang lánh nạn ở nước ngoài. Được nước ngoài giúp đỡ, công tử Trùng
Nhĩ đem quân về giành được ngôi báu. Đó chính là vua Tấn Văn Công.
Tấn
Văn Công là thế đấy. Nhưng ta tuyệt nhiên không phải như Tấn Văn Công, thấy nước
nguy nan mà bỏ nước ra đi, để sung sướng lấy một mình, rồi một khi nào đó, trở
về nước đoạt lại ngai vàng!
Ngược
lại, ta như ngài Vi Tử kia, muốn nhà Ân còn mãi, tức là ta muốn nhà Trần còn
mãi, cho nên ta phải bỏ nước ra đi, gánh vác nhiệm vụ mới vô cùng nặng nề và
cũng vô cùng nguy hiểm.
Vậy
Vi Tử là ai? Vi Tử, tức Cơ Tử, là anh (có sách nói là chú) vua Trụ nhà Ân
(Thương). Vua Trụ tàn ác lắm. Vi Tử khuyên can, nhưng Trụ chẳng thèm nghe, còn
sai bắt Vi Tử giam vào ngục, chờ giết. Vi Tử phải giả điên, mới thoát chết. Kịp
khi Chu Vũ Vương diệt Trụ, Vi Tử không chết theo nhà Ân. Ông nhận tước phong của
Chu Vũ Vương. Vũ Vương cho Cơ Tử (Vi Tử) làm vua nước Triều Tiên. Chính Vi Tử
là người đem chữ Hán và văn hóa Trung Hoa truyền sang Triều Tiên, tương tự như
Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang truyền bá ở Giao Châu, mà các nhà Nho nước ta tôn
vinh Sĩ Nhiếp là NAM GIAO HỌC TỔ, mặc dù, đó chỉ là ngộ nhận.
Nhắc
điển này, Trần Ích Tắc muốn nói điều gì? Tất nhiên là ông muốn nói rằng, cái việc
ra đi của ông là khác hẳn Tấn Văn Công, chỉ muốn nhờ thế lực ngoại bang để quay
về làm vua nước Đại Việt (Nam bang) đâu! Ông muốn như Cơ Tử, xây dựng thế lực mới,
mở rộng lãnh thổ nhà Trần về phương Bắc.
Vậy
đấy. Trần Ích Tắc thông minh mưu lược như vậy, đương thời, ngoài mấy vị lãnh đạo
chủ chốt, thì ai biết? Các nhà chép sử nước ta, ai biết? Họ cứ thấy hiện tượng
như vậy thì chép như vậy, chứ đâu biết thực chất câu chuyện bí mật kia nó như
thế nào? Cũng không thể trách cứ được họ.
Thực
tế thì sao? Với cương vị rất cao mà Hốt
Tất Liệt trao cho ông chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHINH SỰ (Tể tướng) Trần Ích Tắc
đã cùng các con trai của mình âm thầm chia rẽ nội bộ nhà Nguyên, xây dựng được
một lực lượng quân sự hùng mạnh, chủ yếu là người Bách Việt, thuộc Lưỡng Quảng
ngày nay.
Trần
Hữu Lượng xưng Hán Đế, lấy quốc hiệu là ĐẠI HÁN, giương cờ Hán chống quân
Nguyên. Ông đã chiếm được vùng đất rộng lớn, bao gồm lộ Thái Bình, lên đến vùng
trung lưu sông Trường Giang. Cuộc chiến đấu quyết liệt của Trần Hữu Lượng khiến
nhà Nguyên suy yếu dần, rồi tan rã. Tiếp đó, một số thế lực mới nổi dậy tranh
giành đất đai, ai cũng muốn làm chủ Trung Nguyên. Nhà Nguyên phải rút chạy lên
phía Bắc, thành lập triều đại Bắc Nguyên. Vùng Trung Nguyên chỉ còn ba thế lực
tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau, tương tự như cuộc chiến của ba tập đoàn Nguỵ
(Tào Tháo), Thục (Lưu Bị), Ngô (Tôn Quyền) ở thời TAM QUỐC vậy.
Thế
lực của Trần Hữu Lượng (tự xưng Hoàng Đế Đại Hán) mạnh mẽ nhất. Lực lượng quân
đội của ông có tới 65 vạn tinh binh, chiếm lĩnh lộ Thái Bình (Quảng Tây) và cả
vùng trung lưu sông Trường Giang. Sau đó là thế lực của Chu Nguyên Chương. Còn
lại là Trương Sĩ Thành. Tình thế chiến cuộc giống như thời Tam Quốc vậy.
Trung
Quốc gần đây mưu toan hạ thấp vai trò làm tan rã Mông Nguyên của Trần Hữu Lượng.
Họ dựng phim nhiều tập về Trần Hữu Lượng chiến đấu với Chu Nguyên Chương, chỉ
coi Trần Hữu Lượng như tuyến nhân vật phản diện, là “giặc cỏ” kiểu như nhân vật
Từ Hải mà thôi. Nhưng đó chỉ là tài liệu ngụy tạo mà người Trung Quốc muốn làm
méo mó sự thật lịch sử mà thôi. Cái mẹo “khôn khéo” này, người Trung Quốc vốn
là bậc thầy. Thế nên, các thế hệ người Việt bị lừa bịp, hoang mang, nghi ngờ. Họ
lừa bịp cả thế giới, chứ chả phải chỉ mấy anh người Việt hiền lành chất phác
đâu!
Ví
thử nếu muốn trở về Đại Việt chiếm lấy ngôi vua, Trần Hữu Lượng với sáu bảy chục
vạn tinh binh, thủy quân gồm hạm đội nhiều chiến thuyền lớn, nhỏ, thì việc đoạt
lấy ngai vàng nhà Trần, bấy giờ là Vua Trần Dụ Tông hèn kém, chắc chắn dễ như
trở bàn tay. Nhưng mà, “Ta chẳng phải như Tấn Văn Công” hèn hạ thế đâu!
Nhưng
trời không giúp Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương, lực lượng chỉ bằng một phần
ba Trần Hữu Lượng, nhưng nhờ có quân sư Lưu Bá Ôn rất giỏi mưu lược, cuối cùng,
Chu Nguyên Chương đã chiến thắng. Lưu Bá Ôn tài năng chả kém gì Khổng Minh. Ông
ta đã dùng kế hỏa công đánh bại hạm đội hùng hậu của Trần Hữu Lượng trong trận
quyết chiến chiến lược trên hồ Bà Dương. Bị một mũi tên lạc trúng vào đầu,
Hoàng Đế Đại Hán Trần Hữu Lượng hy sinh tại trận. Quân sĩ mất vua, mất tướng chỉ
huy, tan rã sau hơn hai tháng chiến đấu quyết liệt trên hồ Bà Dương, còn gọi là
hồ Bành Lãi, thông ra sông Trường Giang.
Chu
Nguyên Chương sau đó tiếp tục đánh bại Trương Sĩ Thành, rồi tiếp tục tiến lên
“Bắc phạt”, đánh bại nhà Bắc Nguyên, thống nhất thiên hạ, lập ra triều đại nhà
Đại Minh. Ví thử, Trần Hữu Lượng chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược
trên hồ Bà Dương, thì làm gì còn có nhà Đại Minh nữa? Đất đai nhà Trần sẽ rộng
lớn thế nào? Chẳng phải là không thua kém gì sự nghiệp của Triệu Vũ Đế, vua nước
Nam Việt của chúng ta hay sao?
Chiêu
Quốc Vương khẳng định:
Chí
nối nghiệp cũ cha ông (của ta) vẫn không hề tiêu tan,
Nên
để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời.
Và
Chiêu Quốc Vương mơ ước cái ngày thắng lợi:
Đến
ngày bờ cõi thống nhất, (chúng ta) cùng gặp gỡ,
Thì dòng dõi (cha ông) nối tiếp,
lâu bền như núi non nước Việt vậy!
Một
niềm tin tưởng sáng tươi!
Bài
thơ XUẤT QUỐC của Chiêu Quốc Vương như một di ngôn vô giá, để lại tâm sự và ước
nguyện của ông cho đời sau. Những văn bản đã được viết ra ở mọi thể loại, ở các
thời đại sau, kể cả NGUỴ THƯ và CHÍNH THƯ, đều chỉ là những điều trông thấy, những
điều nghĩ của những người ngoài cuộc. Thực chất của vấn đề là ở phía sau hiện
tượng trông thấy cho một kịch bản hoàn hảo, trà trộn vào đối phương, leo cao
chui sâu để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng quan trọng: ĐÁNH PHÁ ĐỊCH, NGAY
TRONG LÒNG ĐỊCH. Con cháu đời sau như chúng ta, cần phải tỉnh táo, suy ngẫm cho
thấu đáo, chớ mắc bệnh “ăn theo nói leo”, không phải chỉ để vén lên bức màn huyền
bí của lịch sử, mà còn để chiêu tuyết cho một nhân vật lịch sử vĩ đại, một người
con anh hùng của đất nước phải dằn lòng gánh chịu oan khuất mấy trăm năm.
Vũ Bình Lục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét