VỀ MIỀN AN TRÚ
Mai mốt em về làm cánh hạc
Ta có muôn phương bay cùng
nhau
Rừng tùng xanh sắc hương miền
Linh Thứu
Tây phương ánh vàng vằng vặc
trăng sao
Mình sẽ ngàn năm an nhiên anh
nhỉ
Chốn huyền không xanh cội bồ
đề
Những sơn thạch gương mặt hồ
phỉ thúy
Nước thơm thơm từng giọt giọt
suối khe
Dựng am cỏ bên đồi tre trúc
Thiền viện đơn sơ tràng hạt
chiên đàn
Mỗi chiếc lá cũng mang hồn Phật
tính
Mỗi hạt sương ngọt vị bình an
Em về cùng anh vui miền an
trú
Thắp ánh nhiên đăng soi rọi
tâm lành
Khắp cõi thiêng nắng mưa luân
vũ
Gió ngàn phương gieo hạt thiện
lành.
Vạn Lộc
Lời bình: Châu Thạch
Nhà
thơ Vạn Lộc còn vài năm nữa thì vào tuổi bát thập. Cách đây không lâu chị đã tiển
đưa phu quân của mình về chốn an tịnh. Tôi nhớ trong bài thơ “Vắng Anh” đăng
trong tập “Hái Mùa Động Vạt Nắng” chị đã
khóc bằng lời không bi quan, rất thơ và rất gây cảm xúc:
Ta
xin hái mùa đông vạt nắng
Cài
lên câu thơ tóc xỏa bềnh bồng
Và
quàng vào tim mình chút ấm
Tựa
tay người ve vuốt những niềm đông.
Trời
mùa đông Đà Nẵng u ám mấy tuần qua, sáng nay bắt đầu có chút nắng. Nhìn qua cửa
sổ tôi thấy có những vạt nắng mùa đông. Rồi tình cờ lại đọc bài thơ “Về Miền An
Trú” của Vạn Lộc, tôi thấy như chính mình cũng được an trú trong hương thiền
như bài thơ của Vạn Lộc. Nhu cầu viết nhờ đó lại trổi dậy trong tôi, tôi viết
cho tôi, không phải viết cho Vạn Lộc.
Đọc
khổ thơ đầu, ta thấy nhà thơ Vạn Lộc dự phóng một tương lai tốt đẹp của mình ở
thế giới bên kia, hứa hẹn với anh của mình đoàn tụ ở cõi tây phương cực lạc:
Mai
mốt em về làm cánh hạc
Ta có muôn phương bay cùng nhau
Rừng
tùng xanh sắc hương miền Linh Thứu
Tây
phương ánh vàng vằng vặc trăng sao
Hình
tượng loài chim hạc ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa phương Đông và mang nhiều
biểu tượng thanh cao. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh,
thần tiên thoát tục còn gọi là Tiên hạc. Chim hạc là loài chim của vũ trụ, của
tầng cao, có tính cách của người quân tử. Hạc còn được cho là linh vật, là loài
chim có phẩm chất cao quý.
Tương
truyền, núi Linh Thứu không chỉ là một nơi nghỉ ngơi mà còn là một nơi tu hành
của Đức Phật cũng như các đệ tử của ngài. Địa điểm này thường xuyên được nhắc đến
trong các cuốn kinh Pali của Phật giáo Nam tông như là địa điểm thuyết giảng của
Phật. Núi Linh Thứu sau này cũng xuất hiện trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh,
Liên Hoa kinh hay Thủ Lăng Nghiêm kinh.
Như
vậy qua khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Vạn lộc đã hứa hẹn với anh cùng hóa hình
thành cánh hạc, cùng ngao du nơi chốn trần gian Phật từng ngự, cùng bay về cõi
Niết Bàn ở “Tây phương ánh vàng vằng vặc trăng sao”.
Tôi
nghĩ nhà thơ Vạn Lộc có quyền ước vọng như thế vì tác giả là một cư sĩ Phật
Giáo, ăn chay trường và tu tại gia nhiều năm qua. Tất nhiên nhà thơ Vạn Lộc dư
biết muốn được như thế phải qua ngàn vạn kiếp tu hành nhưng quyết tâm thì sẽ
thành hiện thực, vì Đức Phật đã nói “Ta đã thành Phật và các ngươi cũng sẽ
thành Phật”.
Đọc
khổ thơ một, không ai không thấy lòng thanh thản bởi cảnh sắc được mô tả trong
thơ thoát tục, bởi cái tâm được thể hiện trong thơ an bình, thanh thản, thấy
trước thế giới bên kia của mình bình tịnh an vui. Khác với người đạo Thiên Chúa
có niềm tin chắc chắn vào cõi Vĩnh Hằng khi qua đời nầy, người theo đạo Phật
không thể có niềm tin chắc chắn là mình sẽ đến đâu. Thế nhưng qua thơ ta thấy Vạn
Lộc như khẳng định nơi mình đến sau kiếp nầy bằng chữ “Mai mốt em về” có nghĩa
là sẽ gần đây thôi. Tôi rất thích có niềm tin như Vạn Lộc, vì nó sẽ làm ta nhìn
qua thế giới bên kia không sợ hải, không lo âu, không đau khổ.
Qua
khổ thơ thứ hai Vạn Lộc giới thiệu chổ ở trong tương lai mà hai người sẽ sống
ngàn năm cùng nhau, nơi đây không là Niết Bàn cũng là tiên giới:
Mình
sẽ ngàn năm an nhiên anh nhỉ
Chốn
huyền không xanh cội bồ đề
Những
sơn thạch gương mặt hồ phỉ thúy
Nước
thơm thơm từng giọt giọt suối khe
“Chốn
huyền không” là chốn nào?. Chương Trọng Sơn nói: “Vô định, vô cứ, không phương
hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu
vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không”. Vậy huyền
không ở đây là nơi “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là
không, không tức là sắc”. Cái cảm nhận và suy nghĩ ấy nằm trong “Bát nhã ba la
tâm kinh” tức là nơi trú ngụ của các bậc giác ngộ.
“Hồ
phỉ thúy” ở đâu? Hồ Thanh Hải hay hồ phỉ thúy nước xanh như ngọc phỉ thúy, núi
đá bảy màu ở Cam Túc, Thanh Hải, Trung Quốc giáp với Tây Tạng.
Đọc
khổ thơ thứ hai ta thấy Vạn Lộc tưởng tượng một cảnh sống xuất thế, họ sống có
lẽ như A-Dam Và E-Va thuở xưa trong vườn Địa Đàng mà Thiên Chúa dựng nên. Khổ
thơ cho ta cảm nhận ước vọng sống đơn sơ, không mang linh hồn thần thánh, chỉ
mang linh hồn con người thiên nhiên chưa ăn trái cấm, chưa biết tội lỗi là gì,
còn trong như tuyết, còn trắng như lông chiên.
Quả
thật vậy, qua khổ thơ thứ ba, nhà thơ Vạn Lộc nói rõ hơn ước vọng sống bình dị
của mình, sống như người vừa dựng nên từ tay Thiên Chúa, tâm hướng về Phật, hòa
nhập cùng vô vi Lão Tử:
Dựng
am cỏ bên đồi tre trúc
Thiền
viện đơn sơ tràng hạt chiên đàn
Mỗi
chiếc lá cũng mang hồn Phật tính
Mỗi
hạt sương ngọt vị bình an
“Chiên
đàn” đứng đầu trong 5 loại tuyệt đỉnh danh hương, chiên đàn được dùng để làm
tràng hạt trì niệm bởi mùi thơm trang nhã và giá trị tâm linh cao tại các quốc
gia Phật giáo như Nepal, Ấn Độ, Tây Tạng ...Từ xưa đến nay, thế gian lưu truyền
ngũ danh hương – 5 loại hương thơm quý nhất từ thiên nhiên: chiên đàn hương, trầm
hương, đâu lâu ba hương, tất lực ca hương và tử đinh hương. Trong đó, chiên đàn
đứng đầu vì tương truyền có thể diệt trừ ô trược (tà khí).
Trong
khổ thơ thư ba, nhà thơ Vạn Lộc dựng nên cho mình một khung trời thiền tịnh
trong sạch, thơm tho, chẳng khác chi vùng trời của Hàn Mạc Tử cho nhà thơ đi:
“Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô
biên và vô lượng: xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm
dây quyến luyến làm bằng êm dịu, làm bằng thành bại....Gió phương mô đẩy đưa
Người đến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thinh sắc. Người dừng lại để hái những
lá tinh hoa. Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu
báu vỡ lỡ. À ra Người cũng dại dột, hốt vàng rơi bọc trong vạt áo.”. Khác Hàn Mạc
Tử chăng là nhà thơ Vạn Lộc đi trong vạn vật mang hồn Phật tính.
Khổ
thơ thứ tư là khổ thơ kết thúc trong miên viễn, trong vĩnh hằng hạnh phúc,
trong ánh sáng thiện lành:
Em
về cùng anh vui miền an trú
Thắp
ánh nhiên đăng soi rọi tâm lành
Khắp
cõi thiêng nắng mưa luân vũ
Gió
ngàn phương gieo hạt thiện lành.
“Nhiên
đăng” là gì?. Chữ nhiên đăng được giãi thích bằng thơ như sau:
“ÁNH
sáng từ bi bủa khắp trời
NHIÊN
quang đèn huệ rọi cùng nơi
ĐĂNG
minh soi thấu trong ba cõi
TỎ
RẠNG lý chân chỗ tuyệt vời.”
“Nhiên
Ðăng được xem là vị Phật quan trọng trong các vị trước Thích-Ca. Ngài là vị đại
diện cho Phật quá khứ tương tự như trường hợp Di-Lặc được xem là đại diện cho
Phật vị lai.
Danh
hiệu Phật theo Phạn văn là Dipamkara, dịch âm là “Đề hòa yết la”. Cũng còn dịch
tên là Đính quang Phật. Tên Nhiên Đăng là dịch theo ý. Trong Phật giáo đây là một
trong những vị cổ Phật đời quá khứ. Tương truyền rằng: lúc sinh thời, thân thể
ngài tỏa rực sáng như đèn nên mới gọi tên là Nhiên Đăng. Sau khi Ngài thành Phật
cũng lấy tên gọi ấy làm hiệu.”
Vạn
lộc chấm dứt bài thơ trong ánh sáng quá khứ của Phật, trong mưa luân vũ hiện tại,
trong gió gieo hạt thiện lành bây giờ. Như thế nhà thơ Vạn lộc và anh của bà đã
đi và về được trong thời gian, không dám nói là đã thành Phật nhưng có thể nói
là đã vào chốn thiên thần ngự trị. Tất nhiên hiện tại bà đã đi bằng thơ, cởi
trên những tư duy thiện lành để bay bằng con chữ sắc màu viên mãn “Đại dương
minh vân” mà Đức Phật phóng quang trên 2500 năm trước ./.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét