Phiên âm bài thơ của Trần Ích Tắc:
HẦU TIỆC Ở NÚI VẠN TUẾ
Từ
trời xanh vọng xuống tiếng chim loan, cách ngăn với trần thế,
Chốn
cửa ngọc mở tiệc hội tụ với các vì tinh tú.
Các
nàng tiên múa xong trở về nơi ở chỗ ba ngàn núi tuyết,
Rượu
dâng lên mặt rồng, rực rỡ màu xuân vạn nước.
Gió
lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển tươi tốt.
Ơn
thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.
Người
Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân khách,
Ngước
mắt nhìn ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng (vua) đang ở rất gần.
Dịch
thơ:
Trời
xanh rót nhạc mừng xuân,
Cửa
vàng tiệc lớn quây quần tú tinh.
Múa
xong, tiên vút Thiên Đình,
Rượu
dâng vua, rực xuân tình vạn bang.
Tươi
vườn ngự, sáng muôn vàn,
Sông
Ngân như thể ngập tràn Thánh ân.
Tha
hương Việt quốc khách tân,
Ngước
nhìn vua mới rất gần đó thôi!
(VŨ
BÌNH LỤC dịch)
Đây
là ngày đại khánh của vua Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi). Thiết Mộc Nhi lên
ngôi kế vị Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Đây cũng là thời điểm Hoàng Đế Thiết Mộc
Nhi ban chiếu bãi binh, đại xá thiên hạ. Thế là cuộc xâm lăng Đại Việt lần thứ
4 (1294) của đế quốc Mông Nguyên đã hoàn toàn chấm dứt từ đây.
Thường
thì triều đình Bắc phương vẫn tổ chức mừng ngày Đại khánh (vui lớn). Có khi là
chúc thọ nhà vua. Có khi là mừng vua mới đăng quang. Khi ấy, các nước chư hầu
phải đến dâng lễ chúc mừng. “Thiên triều” thường treo biển VẠN QUỐC LAI TRIỀU,
tức vạn nước phải đến triều đình Đại Đô (Bắc Kinh) dâng lễ chúc mừng.
Xem
tác giả tả quang cảnh hết sức linh đình được diễn ra ở núi Vạn Tuế, chúng ta có
thể hiểu được điều đó.
Tâm
trạng thi nhân Trần Ích Tắc tất nhiên là rất bộn bề. Ông rất vui, phải nói là
vô cùng vui sướng vì đại sự đã thành công, nhưng vẫn thấy phảng phất một chút
tâm sự bùi ngùi. Cũng không thể khác được. Bởi đó mới là tiếng lòng chân thật của
chính ông. Vẫn có hai con người trong một Trần Ích Tắc, con người đối diện với
thiên hạ và con người đối diện với chính mình.
Tác
giả viết: “Người Việt ở phương Nam tha hương, vinh dự được xếp vào hàng tân
khách”.
Ngày
Đại khánh của vua nhà Nguyên, cả thiên hạ đều mừng vui khôn xiết. Tất nhiên là
tác giả cũng vô cùng vui sướng. Một niềm vui thầm kín, khôn tả, sen lẫn một chút
bùi ngùi. Sao vậy? Là vì tác giả vinh dự được cầm chiếc thẻ bài quan đại thần,
nhưng là quan đại thần của nước Nguyên, với chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ
(Tể Tướng). Dẫu ông không muốn, thiên hạ vẫn coi ông là kẻ “hàng thần lơ láo”,
vẻ vang cái nỗi gì? Nhưng thực chất, Trần Ích Tắc vẫn cho rằng, ông chỉ là “Người
Việt ở phương Nam tha hương” mà thôi!
Nào
ai biết được tâm trạng ngổn ngang trong cõi lòng sâu thẳm của Chiêu Quốc Vương
Trần Ích Tắc nước Đại Việt?
Thế
đủ biết, Trần Ích Tắc vẫn khẳng định rằng mình chẳng qua chỉ là một người Việt ở
phương Nam tha hương ở xứ người. Ông vẫn là Chiêu Quốc Vương người Việt. Tổ quốc
của ông là nước Đại Việt ở phương Nam.
Vua mới ở đây, chẳng phải là
vua Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi), người đã ban chiếu bãi binh, chấm dứt
cái họa chiến tranh “núi xương sông máu” mà phi nghĩa, phi nhân tính hay sao?
Trần Ích Tắc, trong vai trò rất lớn, ở vị thế Tể Tướng, được gần vua Nguyên
Thánh Tông, ngay cả khi ông ta còn là Đông Cung Thái Tử. Không biết rằng, với
chức vụ rất lớn ấy, ông đã bền bỉ tham mưu khéo léo với vua Nguyên những điều lợi
hại gì đó, để Thiết Mộc Nhi quyết định ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm
lăng chắc chắn là sẽ vô cùng khốc liệt với Đại Việt. Đó là năm 1294 lịch sử. Hốt
Tất Liệt băng hà, Thiết Mộc Nhi đăng quang kế vị ngai vàng. Ở quê nhà, một người
anh em ruột thịt của Chiêu Quốc Vương là Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải
cũng đã đi mãi vào cõi mơ màng.
Đây
là bữa tiệc lớn vua Nguyên ban cho quần thần ở núi VẠN TUẾ. Quang cảnh cuộc vui
ở VẠN TUẾ SƠN, trong khu vực Cấm Thành, được tác giả miêu tả rất hoành tráng.
Bích
lạc minh loan cách thế trần,
Ngọc
kinh khai yến hội tinh thần.
Các
nhà biên soạn TOÀN VIỆT THI LỤC của Lê Quý Đôn ở TTNCQH cho rằng “cụm minh
loan” không phải là “tiếng chim loan”, mà “là tiếng của một thứ nhạc cụ (gọi là
“loan”) dùng để cầm nhịp, giữ phách khi tấu nhạc xưa”. Trước đó, đã có sách
chuyển ngữ câu “Bích lạc minh loan cách thế trần” là “Tiếng chim loan hót vọng
xuống từ khoảng không xanh”. Tôi tán thành cách chuyển ngữ này. Hay hơn, thơ
hơn. Cái đặc sắc tài hoa của thi sĩ Trần Ích Tắc chính là ở chỗ đó. Còn như
cách hiểu của TTNCQH, cũng là một cách hiểu, nhưng câu thơ đã bị vật chất hóa
đi rồi. “Tiếng chim loan hót vọng xuống từ khoảng không xanh biếc”, mới là câu thơ
hàm ẩn, mang tầm vóc vũ trụ, tương ứng với quang cảnh được tác giả miêu tả ở những
câu thơ tiếp sau, tràn đầy thi vị. Thế mới biết, cảm được cái hay của thơ ca thời
cổ đại, chẳng phải nhà biên soạn nào cũng có thể làm tốt được. Do vậy, mà họ đã
vô tình hạ thấp giá trị nghệ thuật của nguyên tác, chưa nói là đôi khi còn hiểu
sai cả nguyên tác nữa.
Quả
là một đại yến tiệc, chỉ có ở chốn cung vàng điện ngọc, hội tụ quây quần muôn
ngàn tinh tú. Các nàng tiên bay xuống từ trên trời. Múa hát xong, các tiên nữ yểu
điệu thướt tha lại lả lướt bay về trời. Cảnh các nàng tiên nữ phục vụ cho cuộc
vui lớn, đã được thi nhân thơ hóa lên như một cảnh tiên huyền ảo đấy thôi. Rượu
dâng lên vua, “rạng rỡ màu xuân vạn nước”. Quả đúng là “VẠN QUỐC LAI TRIỀU”.
Thế
nên mới lại thấy:
Gió
lành thổi khắp muôn vật, vườn ngự uyển (của nhà vua) tươi tốt,
Ơn
thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy.
Cả
đất trời dường như tươi tốt lại trong ngày Đại khánh. Đây chẳng phải là khi triều
đình nhà Nguyên tổ chức đại lễ, yến tiệc linh đình, để mừng vua mới Thiết Mộc
Nhi lên ngôi Hoàng Đế đó sao? Vua lên ngôi, đồng thời ban chiếu bãi binh, đại
xá thiên hạ, để thiên hạ khắp bốn phương được vui hưởng ấm áp thanh bình. Thế
nên, tác giả mới khẳng định rằng “Ơn thánh thấm nhuần như nước sông Ngân tràn đầy”.
Chẳng phải là niềm vui cực lớn cho tác giả, cho nước Đại Việt, cho cả bách tính
khắp gầm trời này hay sao?
Cho
nên:
Người
Việt ở phương Nam (là ta) vinh dự được xếp vào hàng tân khách,
Ngước
mắt nhìn vua mới, ánh sáng mới của mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần.
Tâm
trạng của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nhìn chung là vô cùng sung sướng và tự
hào. Niềm vui của tác giả như đã nhuốm cả vào thiên nhiên, tạo vật. Lòng tác giả
như nở hoa, muôn ngàn hương sắc tốt tươi. Cả cái vườn ngự uyển của nhà vua, vốn
chỉ giành cho vua và các cung nữ đi dạo, vui chơi, bây giờ dường như nó cũng
đang chuyển động, đang rì rầm tốt tươi trở lại. Hỏi rằng không sung sướng,
không tự hào sao được. Bởi chính ông đã vừa lập được một chiến công vô cùng vĩ
đại, vô cùng hiển hách, đã ngăn chặn được một cuộc xâm lăng được lên kế hoạch từ
tên bạo chúa Hốt Tất Liệt. Thế nên, tác giả thầm biết ơn ân đức của vua mới,
ngước nhìn VUA MỚI như thể “mặt trời mặt trăng, đang ở rất gần”!
Thơ
thể hiện tầm vóc tư tưởng và tâm hồn tác giả. Thơ phóng chiếu hình ảnh lịch sử,
chính xác nhất, sinh động nhất. Toàn bộ bài thơ là một ẩn dụ tinh tế, thầm kín
và sâu sắc. Người xưa nói “Thi dĩ ngôn chí” là vậy!
Vũ Bình Lục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét