Thi thoảng vào trang
facebook của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương, tôi gặp khá nhiều statuts
và những dòng comment ngắn, ghi lại cảm xúc của ông về thơ của bạn thơ và những
dòng “chia sẻ” đó thường nghiêng về “gợi mở” hơn là “bình”. Có lẽ ông chủ ý chỉ
đứng ở vị trí là người “phát hiện” ra thơ hay còn cảm nhận thơ hay thế nào là
việc của bạn đọc nên ngay cả những lời “gợi mở” ông cũng khá kiệm lời, ví như
khi viết về “Lời Yêu” của Đồng Thị Chúc:
“Chập chờn như thể lời yêu
Lúc tha thiết lúc như điều không đâu
Em về mang áo ra khâu
Cây kim sợi chỉ để xâu chập chờn.
Chỉ bốn câu thơ mà ngổn
ngang rối bời tâm trạng. Phải chăng cõi người đã thêm một định nghĩa hay khác
đi thêm một phạm trù nữa của tình yêu. Tôi tin tất cả những người mới bắt đầu
nếm trải cái vị ngọt, đắng của tình yêu đều có tâm trạng chập chờn như Đồng Thị
Chúc. Trong cái lâng lâng dịu ngọt ban đầu ấy đã xuất hiện một nỗi lo âu. Bởi
khi người ta quá hạnh phúc người ta lại lo âu đó là điều không có thực điều dễ
mất đi nên cứ chập chờn khi có khi không.
Rồi để tự trấn tĩnh mình
nên “Em về mang áo ra khâu”. Tức là muốn được va chạm được nắm cầm những điều
hiện hữu đó là tấm áo, sợi chỉ cây kim để như muốn chứng minh hay nói đúng hơn
là để nhận biết mình đang tồn tại. Thế nhưng rồi em không thể khâu áo mà lại
khâu cái chập chờn của lời yêu. Khâu nó vào đâu và sao lại phải khâu? Phải
chăng em muốn giữ chặt nó mãi trong em không bao giờ nó còn chập chờn được nữa
để rồi nó mãi là của em vì em đã xâu chặt nó vào tim em... vào đời em...
Thơ có cần gì nhiều đâu.
Tôi nghĩ chỉ cần thế thôi cũng đủ để lưu danh trong cõi người ...”
Chả cần bình! Chỉ khoảng
hơn mười dòng chia sẻ như thế cũng đã đủ để gợi mở tâm trạng rối bời với ngổn
ngang những thấp thỏm nỗi niềm của kẻ đang yêu, khát yêu... cũng đủ để bạn đọc
tự cảm nhận được sự dịu dàng, nữ tính và những đăm đắm yêu thương, những nhớ
nhung bời bời trong thơ hay của Đồng Thị Chúc. Vâng, cái khéo của cây viết dạn
dày Nguyễn Xuân Dương là thế. Người đọc cảm thấy thoải mái khi đi theo sự gợi
mở của người viết vì người viết rất khéo cất đi cái tôi của mình. Hình như, đấy
là cách viết được coi là chủ lực của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương?!
Hay những dòng status rất
ngắn về “Vô Đề”, một bài thơ cũng rất ngắn (19 chữ) của Trịnh
Loan:
“Em chẳng cách nào buộc
chặt đôi cánh gió.
Chỉ có thể dịu dàng...
Quàng khăn ấm cho anh!
Chỉ cần thế thôi đã là
tất cả tình yêu em dành cho anh suốt cả cuộc đời. Đã mấy ai khi gió rét mưa dầm
không thể buộc gió che mưa lại biết dịu dàng quàng khăn ấm cho anh trước mỗi
sáng đi làm. Hình tượng người vợ tuyệt vời chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn ngủi.
Trên đời này biết bao người khát thèm mơ ước hành động thật giản đơn như thế từ
tấm lòng từ tay người vợ. Bởi không phải ai cũng nghĩ và làm được điều đơn giản
đó ...
Thơ Trịnh Loan bao giờ
cũng đầy ắp yêu thương”
Ngắn, rất ngắn, ngắn đến
kiệm lời nhưng chỉ vài dòng cảm nhận ngắn ngủi thế thôi đã đủ để đẩy bài thơ
đến trái tim bạn đọc và nhanh lan tỏa. Thơ đã nén chặt, bình lại kiệm lời, bạn
đọc thêm nhiều “đất” để thỏa sức phiêu bồng cảm xúc cùng thơ. Cách bình thơ
này, nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã gặp nhà nghiên cứu Văn hóa Bùi
Đồng ở điểm: xúc tích, ngắn gọn, không “áp đặt”, không “suy diễn”, chủ ý chừa
lại “đất” để bạn đọc cảm nhận theo những cách riêng của bạn đọc. Cái tôi của
tác giả bình thơ được chủ ý đặt khiêm nhường phía sau tác giả thơ để đẩy bài
thơ thăng hoa cảm xúc cùng bạn đọc!
Đôi khi, gặp những bài
thơ mà do rào cản của ngôn từ, khiến người đọc khó cảm nhận hết được cái hay,
cái đẹp trong thơ thì ông vận dụng sự hiểu và biết của mình để "dẫn dụ”
bạn đọc khám phá cái hay, cái đẹp ẩn sâu trong câu chữ của bài thơ. Ví như khi
bình bài thơ “Đêm Trắng” (1) của
Trần Đăng Khoa: “Đêm trắng lạnh, có một người không ngủ / Nhớ quê hương mà
chẳng thể trở về / Ngoài cửa sổ cây bạch dương biết thế / Trổ
lên trời lặng lẽ đóa trăng quê...”, ông đã dùng câu chuyện về sự tích 2 từ
Thôi Xao để bật lên “tài năng và sự kì khu nghiêm cẩn về sử dụng ngôn ngữ
của nhà thơ Trần Đăng Khoa”. Cách bình thơ này đòi hỏi người bình phải có
vốn sống, vốn kiến thức sâu rộng và làm chủ được cảm xúc để bài bình không sa
vào “tán dương kiến thức”, để dẫn dắt được cảm xúc của người đọc thăng hoa cùng
thơ.
Yêu cầu của việc bình thơ
là phải đáp ứng được yếu tố phát hiện. Bài bình thơ chỉ ấn tượng với bạn đọc
khi người bình phát hiện ra những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo hoặc nghệ
thuật sử dụng câu chữ “đắc địa”, tài hoa... của nhà thơ. Khá nhiều bài bình thơ
của tác giả Nguyễn Xuân Dương đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tuy nhiên, đọc các
bài ông bình thơ, rất ít gặp ông bình sâu về nghệ thuật tu từ hay cách dựng tứ
ở bài thơ mà thường là chia sẻ những cảm xúc, những phát hiện của ông về những
câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo, những cách dùng chữ “đắc địa”... với bạn
đọc, ví như đoạn trích dẫn dưới đây trong bài “Trao đổi với nhà thơ
Nguyễn Vượng về ngôn ngữ trong thi ca” (2):
"Rõ
ràng cụm từ: BÊN ĐÂY BỜ VĨNH TẬN là một cụm từ sáng tạo của nhà thơ Dung Thị
Vân. Hiểu thế nào về cụm từ đó chỉ có nhà thơ mới lí giải một cách cặn kẽ.
Nhưng đôi khi sự lí giải ấy chắc gì đã được người đọc chấp nhận. Với tôi, tôi
nghĩ đây thuộc về một giới hạn vô cùng của không gian và không chỉ là không
gian mà còn là giới hạn của của cảm xúc. Qua đó hình như nhà thơ đã muốn bày tỏ
về sự tận cùng vĩnh cửu của những tàn phai. Ta cứ phải mặc nhiên công nhận nó
và ta cảm nhận sự mông mênh của thi ca. Ta thấy những câu thơ như thế chiếm
đoạt được cảm xúc của con tim mà không hiểu được vì sao lại như thế. Nó rất
hay, nhưng hay ở chỗ nào thì ta cũng không thể lý giải."
để
bạn đọc thăng hoa cảm xúc cùng thơ theo cách cảm nhận riêng của bạn đọc. Có lẽ
vì thế mà những bài bình thơ của ông dễ đồng cảm với người yêu thơ.
Khi đọc Nguyễn Xuân Dương
giới thiệu “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo” (3) của
Nguyễn Đăng Thanh, tôi xuýt xoa, nghẹn ứ ngay ở những câu thơ đầu:
“Em đứng trên bờ, tiễn
chị về phía bên sông / Quay mặt bỏ đi, rẽ lối nào cũng gió / chị ơi, tháng ba…
/ đường làng mình nở đầy hoa Gạo đỏ / có lẽ, thấy em buồn / hoa khóc… rụng ở
triền sông.”
Hay quá! Nhiều cảm xúc
quá! Nhưng những câu thơ tiếp theo bị cái bóng sừng sững của “Lá Diêu Bông”
chặn mất cảm xúc khiến tôi nản định thôi đọc, rồi tò mò đọc lời bình, tôi bị
cuốn theo cảm xúc của Nguyễn Xuân Dương, ông đã xóa nhòa bức tường vô hình của
“Lá Diêu Bông” để tôi cứ cùng Nguyễn Đăng Thanh mà day
dứt nhớ thương, mà trách cứ tủi buồn, mà rưng rưng lệ với “Chị Bỏ Mùa Hoa
Gạo”. Tôi comment cám ơn người bình: “Thơ hay nhưng người đọc không
khoái lắm vì bị "Lá Diêu Bông" chặn mất nguồn cảm hứng. Khổ thế đấy.
"Lá Diêu Bông" sừng sững như thế cơ mà! May thay, đọc lời bình của
tác giả Nguyễn Xuân Dương, mạch cảm hứng với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo”
lại dâng trào. Cám ơn nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã giới thiệu một
bài thơ hay!”
Mặc
dù luôn nâng niu cảm xúc khi bình thơ và chỉ viết lời bình khi cảm xúc dâng
trào trước bài thơ hay, trước tứ thơ độc đáo, đẹp, lạ nhưng có lần nhà Phê bình
Văn học Nguyễn Xuân Dương cũng để chữ tình vướng víu ngòi bút, ví như bài “Vô
Đề” của Đỗ Cao Nhân:
“Trưa Sa Pa hửng nắng
Tối mưa lạnh Lai Châu
Hỏi người vùng sơn cước
Sáng mai đi về đâu.”
Khi đọc những lời cảm thơ
vì tình bạn của ông: “Bài thơ thật giản dị hai câu đầu nói về chuyện mưa
nắng của vũ trụ và chen vào đó là hai địa danh. Sự đột biến và cao trào thơ lại
chính là hai câu dưới. Nhân vật trữ tình thứ hai chỉ là Người sơn cước và cái
hay của thơ ở đây là chính chữ NGƯỜI không có giới tính.”, dù ông khéo léo
rào dậu che chắn sự “nâng đỡ” “Vô Đề” ở mấy dòng kết bài: “Tôi
rất trân trọng bài thơ này vì nó chẳng nói gì mà thực ra lại đã nói rất nhiều
nếu ta biết chìm sâu vào phía sau con chữ và có lẽ cần thêm một chút lương
duyên cùng nghề nghiệp ...”, tôi tin vẫn không ít bạn đọc sẽ
hiểu sai ông viết vì “nhuận bút” do bạn đọc không biết chữ tình ông trân quý
dành cho bạn bè, nhất là bạn cùng nghề Địa chất - nghề đã để lại không ít ký ức
trong ông như một “nghiệp quả” của số phận.
Tôi đã comment dưới bài
viết của ông thế này: - “Thực sự là người bình vì chữ TÌNH BẠN mà đẩy bài
này lên quá xa, quá nhiều. Cháu rất xin lỗi 2 chú khi nói thật lòng! Cũng vì
rất quý yêu những trang viết của chú Nguyễn Xuân Dương nên cháu mới thật lòng
đấy ạ.”. Ông đã tế nhị gửi tin nhắn tới tôi: -“Cái khó
của người cầm bút là chữ TÌNH anh ạ, nhất là khi chữ TÌNH đã trải qua những
sóng gió, thăng trầm của cuộc đời. Chú nghĩ, nếu vì chữ tình mà người viết
thiệt thòi cái TÔI một chút để đem lại niềm vui nho nhỏ rất đáng cho bạn bè thì
cũng nên, anh Đặng Xuân Xuyến nhỉ?!”.
Nhưng không phải trường
hợp nào ông cũng xuề xòa vì 2 chữ tình bạn. Chẳng hạn, có lần ông đã thật chu
đáo viết lời bình một bài thơ của nhà thơ ông rất yêu quý nhưng khi trao đổi về
câu thơ (tên bài thơ) nhà thơ trích dẫn sai, ông quyết định xóa bỏ bài viết vì “sai
sót thuộc về trích dẫn mà với câu thơ (thực ra là tên bài thơ) trích dẫn thì đã
là người yêu thơ ai cũng thuộc, “người ta” sẽ đánh giá người bình luận kém hiểu
biết hoặc người bình luận không nghiêm túc”. Hay lần khác, một nhà thơ mến
mộ tài bình thơ của ông, gửi tặng ông tập thơ qua bưu điện với lời đề nghị “xin
bác cho cháu vài lời cảm nhận”, ông thật lòng hồi đáp: -“Tôi
thích cách sử dụng câu chữ sáng tạo của anh nhưng tôi không bình luận được dù
đã đọc kỹ tập thơ anh gửi tặng. Câu chữ của anh đẹp lắm nhưng những chữ đó như
cái xác đẹp mã mà thiếu hồn nên đọc xong cứ trôi tuột, chả đọng lại gì thì bình
luận làm sao!”
Vì yêu thơ, vì nâng niu
những cảm xúc do thơ đem lại nên ông hào phóng khen tặng những câu thơ hay,
những thi tứ đẹp, ví như ông khen câu “Ríu chiều hiu hắt mưa” trong bài
“Đọc “Rét Cằn” của Đặng Xuân Xuyến” (4):
“Ôi! Yêu quá câu thơ:
“RÍU CHIỀU HIU HẮT MƯA”. Giá có bình luận một câu thơ này thì như cổ nhân đã
dạy: "Thuyết thi nhất thủ thị hàn tuyền", có nghĩa: Bàn về một bài thơ
hay một suối sách vẫn không đủ. Với câu thơ này thì cứ cho là một khe sách vẫn
chưa đủ.
Có những lúc xuất thần
chỉ cần một câu thơ như thế bài thơ sẽ bừng sáng lên. Và như có lần Hoài Thanh
đã nói về một bài thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã
lưu danh”. Tôi nghĩ với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu
danh trong đời. Bỏi vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa.”.
Hay như lời khen ông ưu
ái dành cho “Em
có về lối cũ của Đinh Tiến Hải” (5): “Sóng
Tây Hồ / Xôn xao trên mắt nắng / Hồn lang thang / Mây dạt phía chân trời / Em
có về? / Ngang qua mùa xưa cũ / Ngắm me vàng / Rụng mải miết lối đi”. Phải tinh
tế và tài hoa lắm mới lưu giữ được những thi ảnh hư ảo này vào thi ca để gửi
gắm cho người đọc cùng mê say và càng thêm tiếc nuối vì mấy ai trong chúng ta
giờ có thể trở về ngồi bên bờ hồ Tây nơi Phủ Tây Hồ mà nhìn ngắm những mắt nắng
xôn xao trên sóng nước hồ Tây hay sóng nước xôn xao trên mắt nắng.?”
Những bài thơ trên tất
nhiên không dở nhưng đạt được như những lời ông đã phóng bút khen ngợi thì vẫn
còn nhiều khoảng cách. Có lẽ vì quý các tác giả thơ, vì yêu những cảm xúc bài
thơ đem lại mà ông hào phóng lời khen. Giá như ông tiết chế bớt một chút
lời khen thì thật hay cho người đọc, hay cho người bình và hay cho cả tác giả
thơ! Phải chăng ông quan niệm: Khen để khích lệ những tìm tòi, sáng tạo, những
thành công của tác giả thơ thì khen quá một chút cũng chẳng sao?!
Vâng! Ông bình thơ nhiều
lắm. Tôi không biết chính xác bao nhiêu bài nhưng với 2 tập Phê bình Văn học
ông đã xuất bản và rất nhiều bài giới thiệu thơ, bình thơ trên trang facebook
cá nhân thì có lẽ ông đã đồng hành cảm xúc, đã tiếp thêm “sinh khí” cho khoảng
trên bốn trăm bài thơ để những bài thơ đấy trở nên hay hơn, đẹp hơn và nhanh lan
tỏa.
-------------
Hà Nội,19 tháng 05 năm 2020
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét