(Thân
mến tặng chị Ngọc An)
Lời Nói Đầu
Kết bạn Facebook với thi sĩ Thiên Hà đã khá lâu nhưng mãi đến khi thấy “tệ nạn” Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp và Bình Thơ Chỉ Khen Không Chê ngày càng lan rộng tôi mới thử nghiệm việc Bàn Thi Pháp Theo Yêu Cầu. Tác giả chỉ cần đăng bài thơ của mình trên FB, tag tên tôi với ghi chú “nhờ bàn thi pháp” thì tôi sẽ xắn tay áo làm ngay.
Tôi
nhận được khá nhiều những bài thơ như thế nhưng qua địa chỉ emails với lời yêu
cầu “Bàn xong, xin liên lạc email”. Họ không muốn bài thơ của mình bị phơi bày
những chỗ “không đẹp” nơi công cộng.
Thi
sĩ Thiên Hà không ngại điều đó. Và tôi đã có dịp bàn thi pháp cho bài thơ Tháng
Năm Tôi Đi Tìm Tôi(1) của ông trên FB.
Sau
đó ông đề nghị tôi chọn bất kỳ một bài thơ nào đó của ông, bình một cách bài bản
để ông biết điểm mạnh, điểm yếu của mình.
Tôi
đã chọn bài thơ Miếu Đền Tôi của ông để viết lời bình. Có 2 lý do:
1/ Có tý tình riêng: Tôi thực sự quý mến
và nể trọng thi sĩ lão thành Thiên Hà.
2/ Ưu khuyết điểm của thi phẩm Miếu Đền
Tôi nếu được phân tích – tôi tin rằng - cũng sẽ hữu ích cho độc giả yêu thơ và
chơi thơ.
MIẾU ĐỀN TÔI
Không điện ngọc cung son
chẳng cần chi lăng tẩm
không là vua
dinh thự cũng chẳng màng
là kẻ lạc loài
giữa rừng sâu núi thẳm
miếu đền tôi
hoang mạc cõi nhân gian.
Rất đêm bao dung
rất ngày độ lượng
biết giận hờn
mà cũng biết ăn năn
rất bơ vơ
không công hầu khanh tướng
miếu đền tôi
cõi tạm chốn dương trần.
Khúc sinh ca
bi hùng lạc điệu
giữa đầm lầy
bầy dã thú hỗn mang
có giống loài
ỷ mạnh ăn hiếp yếu
miếu đền tôi
cõi trú kẻ lạc đàn!
Sáu mươi năm
cuộc tình bút mực
lắm nhục nhằn
mà rất đỗi ung dung
rồi ngẩn ngơ
giữa trường văn trận bút
miếu đền tôi
lảnh lót tiếng Sâm Cầm(2)
Suối thiêng em
dặm dài đo nỗi nhớ
mái tình thơ
xanh biếc bến tâm hồn
ai đã khuất
và những ai còn đó
miếu đền tôi
trầm mặc với thế nhân.
Sóng thiêng em
cuộn trào như thác
cho mạch thơ
lai láng suối nguồn
bản tình ca
nửa chiều nhan sắc
miếu đền tôi
hoa cỏ ngát hương
(Thiên
Hà)
Tứ Thơ
Thi
sĩ Thiên Hà – qua bài thơ – đã cố gắng bày tỏ một vài cách ứng xử của mình trước
cảnh đời. Những cách ứng xử nếu được tuân thủ một cách vui vẻ, tự nguyện như có
“một niềm tin thiêng liêng” sẽ giúp ông biểu hiện một cá tính, nhân cách đặc biệt
trước “bàn dân thiên hạ”
Bên
cạnh đó ông cũng chia sẻ những trải nghiệm riêng tư về tình yêu, tình người và
trên “trường văn trận bút”.
Ngôn Ngữ, Hình Tượng
1/
Theo cách suy nghĩ của người Việt Nam miếu đền là nơi tàng trữ những gì quan trọng,
quý giá, linh thiêng (về mặt tinh thần) của người đời. Cho nên có thể nói cái tựa
Miếu Đền Tôi rất độc đáo, đã nêu bật được tầm quan trọng, “niềm tin thiêng
liêng” của tác giả đối với nội dung của tứ thơ.
2/
Câu cuối của 6 đoạn
a/ Miếu đền tôi hoang mạc cõi nhân gian.
b/ Miếu đền tôi cõi tạm chốn dương trần.
c/ Miếu đền tôi cõi trú kẻ lạc đàn
d/ Miếu đền tôi lảnh lót tiếng sâm cầm
e/ Miếu đền tôi trầm mặc với thế nhân.
f/ Miếu đền tôi hoa cỏ ngát hương
đều là những câu thơ “nặng
ký”, tóm kết ý chính của đoạn thơ một cách khéo léo và sâu sắc. Những câu thơ
còn lại “yếu cơ” hơn nhưng cũng tạm coi là hoàn thành nhiệm vụ “diễn giải” theo
ý của tác giả.
Thể Thơ:
Thơ
Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn. Có 24 câu, phân thành 6 đoạn, mỗi đoạn 4
câu, diễn tả một ý riêng biệt. Tứ thơ không có dòng chảy. Đây là loại thơ viết
theo lối Kiếm Tông chú trọng cái hay, cái sâu sắc, mới lạ của câu chữ, ý tứ,
các biện pháp tu từ - nói chung là cái đẹp văn chương.
Vần Và Nhịp Điệu
1/ Vần: Miếu Đền Tôi có 6 đoạn, 24 câu, được gieo vần gián cách (1/3 thanh trắc,
2/4 thanh bằng), 12 cặp vần cứ đến hẹn lại lên nên hội chứng nhàm chán vần khá
rõ nét. Do cứ hết đoạn lại chuyển vần nên bài thơ không có dòng âm điệu.
2/ Nhịp điệu: Số chữ trong câu thay đổi với biên độ rất hẹp (6 câu
7 chữ, 17 câu 8 chữ, 1 câu 10 chữ) nên nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt.
Bố Cục, Thế Trận
Bài
thơ có 6 đoạn thì 3 đoạn đầu là 3 cách ứng xử trước cảnh đời.
1/
Không điện ngọc cung son
chẳng cần chi lăng tẩm
không là vua
dinh thự cũng chẳng màng
là kẻ lạc loài
giữa rừng sâu núi thẳm
miếu đền tôi
hoang mạc cõi nhân gian.
Câu
thơ chính mang trọn sức nặng ý nghĩa của đoạn 1 là “miếu đền tôi hoang mạc cõi
nhân gian”. Tác giả muốn sống như Tarzan, một “kẻ lạc loài giữa rừng sâu núi thẳm”.
Đó chỉ là một phát biểu về cách ứng xử chứ không phải trải nghiệm cụ thể của
thi sĩ trước cảnh đời. Ba câu trước đó chỉ diễn giải để tạo độ khả tín, sức
thuyết phục cho câu thơ chính mà thôi.
2/
Rất đêm bao dung
rất ngày độ lượng
biết giận hờn
mà cũng biết ăn năn
rất bơ vơ
không công hầu khanh tướng
miếu đền tôi
cõi tạm chốn dương trần.
Tương
tự như đoạn 1, ở đây tác giả coi đời mình chỉ là “cõi tạm chốn dương trần”. Đó
là ý chính; phần còn lại của đoạn thơ chỉ là cành lá trang điểm.
3/
Khúc sinh ca
bi hùng lạc điệu
giữa đầm lầy
bầy dã thú hỗn mang
có giống loài
ỷ mạnh ăn hiếp yếu
miếu đền tôi
cõi trú kẻ lạc đàn
Cũng
giống như hai đoạn trên, ở đoạn 3 tác giả coi đời mình chỉ là “cõi trú kẻ lạc
đàn” (câu cuối); phần còn lại là mấy lời giải thích.
Đoạn
4 dưới đây vừa là cách ứng xử và cũng vừa là trải nghiệm của tác giả “giữa trường
văn trận bút”
4/
Sáu mươi năm
cuộc tình bút mực
lắm nhục nhằn
mà rất đỗi ung dung
rồi ngẩn ngơ
giữa trường văn trận bút
miếu đền tôi
lảnh lót tiếng sâm cầm
Đoạn
thơ này có nhóm chữ “lắm nhục nhằn” làm tôi hơi thắc mắc. Tôi hỏi thì được tác
giả trả lời: “Trước 75 viết không khéo dễ bị cho là Việt Cộng; sau 75 sơ suất một
tý thì bị quy là Việt Gian, Phản Động”.
Tôi
tìm hiểu tiểu sử thì được biết ông đã từng “tham gia phong trào Sinh Viên Học
Sinh đấu tranh chống chính quyền và viết thơ văn phản chiến trước năm 1975.”
Còn
sau năm 75 thì chỉ cần đọc cái tựa bài viết của Lại Văn Long:
Nhà
Thơ Thiên Hà - Một Phóng Viên Đàn Anh Trong Đại Gia Đình Báo Công An Thành Phố(3)
là đủ thấy ông đã nhiễm chứng bệnh “teo chim” khá nặng, nhất là hơn nửa đời còn
lại. Như vậy nhóm chữ “lắm nhục nhằn” ông đã viết rất thật lòng. Cái cảm giác cắn
răng nuốt nhục, tỏ vẻ “rất đỗi ung dung” viết ra những câu thơ, những đoạn văn
“luồn lách tránh đạn” thật đau đớn đối với người cầm bút.
Bỏ
qua những quan điểm, lập trường chính trị để chỉ nhìn về khía cạnh văn chương,
sự chân thật của ông trong đoạn thơ rất đáng kính trọng. Đọc những đoạn thơ như
thế, cũng giống như ông, tôi cảm thấy đâu đó quanh mình hình như đang “lảnh lót
tiếng Sâm Cầm”
Hai
đoạn cuối(5,6)
là trải nghiệm với những “suối thương em” và “sóng thương em” - những “người
đàn bà đi qua đời tôi” - của thi sĩ.
5/
Suối thiêng em
dặm dài đo nỗi nhớ
mái tình thơ
xanh biếc bến tâm hồn
ai đã khuất
và, những ai còn đó
miếu đền tôi
trầm mặc với thế nhân.
Thi
sĩ Thiên Hà sinh năm 1940, lập gia đình năm 33 tuổi (1973). Được hơn 6 năm thì
người vợ bỏ đi để lại cho ông hai đứa con - đứa 5, đứa 6 tuổi. Giờ đây, nhìn lại
những người phụ nữ đến tụ hội với “mái tình thơ xanh biếc bến tâm hồn” của mình
thuở ấy ông không khỏi “trầm mặc với thế nhân” – nghĩa là trầm ngâm suy nghĩ về
nhân tình thế thái. Câu thơ “ai đã khuất và những ai còn đó” (số nhiều) đã giúp
tôi không lầm với “sóng thiêng em” ở đoạn cuối.(4)
6/
Sóng thiêng em
cuộn trào như thác
cho mạch thơ
lai láng suối nguồn
bản tình ca
nửa chiều nhan sắc
miếu đền tôi
hoa cỏ ngát hương!
Đây
là đoạn thơ viết về người phụ nữ đã đem đến cho ông tình yêu và hạnh phúc ở cuối
đời. Bốn năm sau khi bị tình phụ (ở tuổi 43) ông đã gặp và nhúm lại ngọn lửa
tình với chị Ngọc An (trẻ hơn ông một con giáp), viết lên “bản tình ca nửa chiều
nhan sắc”. Cho đến khi tôi viết những dòng chữ này, sau gần 40 năm, mạch thơ
trong bản tình ca đó vẫn “lai láng suối nguồn” và trước căn nhà của đôi vợ chồng
già ở đồi Tăng Nhơn Phú(4) vẫn “hoa cỏ ngát hương”.
Bài
thơ có 6 đoạn thì 3 đoạn đầu là 3 cách ứng xử trước cảnh đời – tác giả chỉ nói
đến chứ không bộc lộ những trải nghiệm cụ thể của mình.
Thay
vì nói “Anh yêu em say đắm” - một phát biểu “chung chung” - nhà thơ Nguyên Sa
đã viết:
Áo
nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo
nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ
thư tình chưa đủ nghĩa yêu thương
Anh
thay mực cho vừa màu áo tím.
(Tuổi Mười Ba)
Tác
giả Tuổi Mười Ba đã bộc lộ trải nghiệm sinh động cụ thể của tâm mình. Viết như
thế tình tứ, hấp dẫn và “thơ” hơn rất nhiều.(6)
Ba
đoạn sau của Miếu Đền Tôi viết theo lối này nên thi sĩ đã có thể đưa độc giả đến
tận cánh cửa trái tim của ông để cùng trải nghiệm, lúc thì tận cùng đau đớn,
khi thì trầm mặc suy tư và lúc khác, là cả một quãng đời ngập tràn hạnh phúc.
Đoạn
Kết Của Bài Thơ
Thi
sĩ đã chọn “trải nghiệm với người tình cuối đời” để làm đoạn kết cho bài thơ.
Cuộc
đời ông như thế là có hậu. Cho đến khi tôi viết lời bình cho Miếu Đền Tôi ông
đã gần 40 năm được “đầu gối tay ấp” với người mình yêu và cũng hết lòng yêu
mình trong một gia đình vợ chồng con cháu hòa thuận, ấm êm.
Câu
“Miếu đền tôi hoa cỏ ngát hương” đã được đặt vào vị trí đẹp nhất trong bài thơ.
Có thể nói đó là câu thơ đắc địa, tỏa hương thơm ngát, để lại ấn tượng ngọt
ngào, sâu đậm trong tâm hồn người đọc.
Tâm Thế Của Thi Sĩ:
Nhà
thơ Thiên Hà viết Miếu Đền Tôi với tâm thế muốn chia sẻ tâm tình với độc giả
(Share feelings with them). Ông cũng có thể đang ở trạng thái xốn xang, rung động
nhưng bị thể thơ “bó buộc tay chân” nên không thể tạo cao trào để cảm xúc tầng
3 xuất hiện được.
Cảm Xúc
1/ Cảm xúc tầng 1: Mạnh mẽ tỏa ra từ câu chữ, nhất là 3 đoạn cuối, bộc
lộ trải nghiệm của thi sĩ.
2/ Cảm xúc tầng 2: Do bố cục mạch lạc nên cảm xúc tầng 2 cũng có thể
nói là mạnh, gây cảm giác thích thú cho độc giả như được xem đội bóng có đấu
pháp toàn đội hợp lý, hiệu quả đang biểu diễn trên sân cỏ.
3/ Cảm xúc tầng 3: Do tứ thơ và âm điệu không có dòng chảy nên không có
dòng cảm xúc; không có “sóng sau dồn sóng trước”, không có cao trào, không có cảm
xúc tầng 3 - loại cảm xúc cao cấp nhất – và dĩ nhiên, không có hồn thơ.
Kết Luận
Thi
sĩ Thiên Hà viết Miếu Đền Tội có vẻ như là để “khoe” một triết lý sống thanh
cao bằng những cách ứng xử của bậc “bề trên” thường được người đời nể trọng.
Nhưng
“mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, những đoạn mang nặng tính triết lý ấy lại
rất mờ nhạt trên trang thơ. Ngược lại, những trải nghiệm đời thường ở mấy đoạn
khác thì nhiều cảm xúc, cứ dai dẳng bám theo tâm trí người đọc, lưu lại dấu ấn
sâu sắc đầy tính nhân văn.
Không
biết nên gọi đó là tài thơ hay may mắn? Nhưng gọi là gì đi nữa thì Miếu Đền Tôi
cũng là bài thơ đáng đọc.
League
City tháng 6/2022
Phạm Đức Nhì
CHÚ
THÍCH:
1/
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2022/05/thi-phap-bai-tho-thang-nam-toi-i-tim-toi.html
2/
Sâm Cầm, theo tác giả là một loài chim “dân dã”
3/
Báo Công An Thành Phố HCM số ra ngày 25/05/2005
4/
Thủ Đức
5/
Phỏng vấn vợ chồng thi sĩ Thiên Hà, báo Phụ Nữ Thành Phố
6/
Thủ pháp Show, Don’t Tell của Âu Mỹ
Tell:
(Kể, nói) Michael rất sợ bóng tối.
Show:
Bộc lộ (hiển thị) trải nghiệm cụ thể
Khi
mẹ anh tắt đèn và rời khỏi phòng, Michael căng thẳng. Anh thu mình dưới tấm
chăn, nắm chặt ga trải giường và nín thở khi gió lướt qua tấm rèm.
Trong
ví dụ “hiển thị”, thay vì chỉ nói rằng Michael sợ bóng tối, anh ta đã được đặt
vào một tình huống để trải nghiệm về nỗi sợ hãi đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét