Nhà thơ ZuLu DC tên thật Cao Duyên, sinh quán Trà Liên, Triệu phong, Quảng Trị, tốt nghiệp Hàng Hải Thương Thuyền, Đại học bách Khoa Phú Thọ - Sài Gòn, hiện trú tại California, Hoa Kỳ.
Thật tình, tôi không hiểu vì sao nhà thơ dùng
bút hiệu là ZuLu DC. DC có thể Là Cao
Duyên tên ông, còn ZuLu nghĩa là gì? Tra
cứu trên goole tôi thấy ZuLu là một dân tộc ở Nam Phi. ZuLu theo ngôn ngữ bản xứ
có nghĩa là một Thiên Đường. Người ZuLu xem quê hương mình như một Thiên Đường
trên trái đất, họ xem trọng trinh tiết cả nam và nữ. Như vậy có thể phỏng đoán
Cao Duyên lấy bút hiệu của mình là ZuLu DC để bày tỏ một hoài bảo về những điều
tốt đẹp xảy ra trên trái đất nầy, cũng
như bày tỏ cả tấm lòng trinh nguyên của ông luôn trung thành với lý tưởng đó.
Theo
nhà thơ Nguyễn Đại Hoàng thì “ZuLu –
trong tiếng Anh có nghĩa là Sky – Bầu trời”. Vậy từ đó cung có thể phỏng đoán
Cao Duyên lấy bút hiệu ZuLu DC để bày tỏ
một tâm hồn phóng khoáng, tự do, bày tỏ
một tình yêu bao la rộng lớn cho tha nhân và cho đất nước quê hương.
Khi
tôi còn ở trong quân đội, lệnh truyền qua máy truyền tin cho những lần khởi
hành là ZuLu (đi). Nhà thơ ZuLu DC từng ở
trong quân đội, cũng có thể chữ ZuLu ám ảnh, khiến ông đem nó vào đời mình, một
cuộc đời luôn ₫i xa xứ!
Rồi
một hôm được nghe bài hát “Bên Đơi Có Nhau” phổ nhạc từ thơ ZuLu DC, tôi tìm đọc
bài thơ ấy và tôi khẳng đjnh được suy nghĩ của mình về bút hiệu của Cao Duyên
có thể đúng. Bài thơ viêt về “Sau CoVid tình người thắm lại/Dân tộc bừng lên từ
hồn quê” như một bài hịch. Bài hịch “Bên
Đời Có Nhau” với lời thơ êm đềm nhưng sâu sắc, chặc chẽ, sắc bén, khích lệ tình
cảm, tinh thần con người đã bệ rạc, bi thiết trong cơn đại dịch. Bài thơ khiến
tôi liên nghĩ đến tiếng kèn khi Chúa tái lâm trong Kinh Thánh. Sau tiếng kèn
đó, nhân loại có 1000 năm hạnh phúc, loài người với loài người, loài người với
loài vật, loài vật với loài vật sống hoà bình, thân ái bên nhau.
Bài
thơ “Bên Đời Có Nhau” như một khải tượng, một mơ ước, một tiên tri,
một lời khuyên cho “tình người thắm
lại/ Dân tộc bừng lên từ hồn quê!”. “Bên Đời Có Nhau” kỳ vọng “Chữ
nghĩa giờ đây thay áo mới” như là sự đổi mới nền văn hoá trì trệ,
kỳ vọng “Mặt giả lâu nay hiện mặt người” như là con người từ bỏ tội
lỗi, quay về chân thiện mỹ. Đây là một bài thơ chan chứa, thể hiện niềm
ước mơ tươi đẹp của chính mình cho bạn bè, cho anh em và cho cả dân
tộc. Bài thơ như tặng mỗi người
chúng ta một bông hoa thắm. Nếu mỗi chúng ta cầm bông hoa đó đi trên
đường đời thì hạnh phúc sẽ đến với ta và những người lân cận! Tất
nhiên thơ chỉ là ước mơ, nhưng những ước mơ thánh thiện đem tâm hồn thanh khiết
của nhà thơ làm ngọn gió yêu thương xoa dịu nỗi đau đang xảy ra trên trần thế.
Nhà
thơ ZuLu DC sinh ra tại Quảng Trị, nơi biên cương của hai chế độ, nơi có dòng
sông Bến Hải giới tuyến của cuộc chiến tranh, nơi có Đại Lộ Kinh Hoàng, có Cổ Thành Quảng Trị mà bom đạn biến thành núi xương
sông máu. Nhà thơ ZuLu DC theo học tại Huế,
nơi cố đô có hoàng thành, lăng tẩm
trầm mặt, mốc meo, có sông Hương núi Ngự
nên thơ nhưng buồn hiu hắt. Ra đời, nhà
thơ ZuLu DC làm thuỷ thủ lênh đênh trên biển cả. Cuối cùng nhà thơ ZuLu DC đánh
mất quê hương, định cư nơi xứ người. Tất cả đã vào thơ, khiến thơ của ZuLu DC
có nhiều cung bậc trăn trở, trăn trở ngay trong những lúc có niềm vui.
Thật
vậy, hảy đi vào nơi quê hương mà đất đã hoá tâm hồn tác giả:
Quê
hương tôi có dòng sông Thạch Hãn
… Đất
nước chia hai một nhịp cầu
Từng
vết chém thơ rướm máu
Nhìn
mặt anh em lòng đau
(Biết
Nói Sao Hơn)
về
Quảng trị
Sông
Bến Hải
Như
người con gái
Thất
tiết trước khi lấy chồng
Thạch
Hãn
Dòng
sông không phải dòng sông
Nước
cạn nguồn đau lòng với đá
(Từ Đàn Nam Giao Đến Sông Thạch Hãn)
Cỗ
Thành dù tan nát
Vẫn
lưu những bóng hình
…
Quảng Trị này Quảng Trị
Ta
là thằng trôi sông
…
Đã bao lần ta gọi
Quảng
Trị - Quảng Trị ơi
Ta
là thằng đi lạc
Lạc
mất quê hương rồi
(Lạc Đời)
Lấy
một ít câu thơ trong nhiều bài thơ mà ZuLu DC viết cho quê hương sinh ra mình
làm dẩn chứng, ta đủ hiểu nối đau âm ỉ, tiềm tàng, bất tận trong lòng thi nhân.
Nỗi đau ấy đã thành thơ, thơ không có nước mắt, thơ không có tiếng rên, chỉ có
lời tâm sự gởi vào tứ thơ ẩn chứa “Từng vết chém thơ rớm máu ”!
Thế
rồi nhà thơ đi học xa làng, tuổi thư sinh là tuổi mộng mơ, ghi dấu biết bao
nhiêu kỷ niệm trong dòng sông ký ức của đời người. Không thể không nói đến những bài thơ về Huế
của ZuLu DC, vì nơi đó có “màu xanh của đất”,
“màu xanh của trời” và “Xanh trong lòng tôi” tức là trong lòng nhà thơ
ZuLu DC mãi mãi!:
Huế
ơi Huế ơi
…
Huế giữ giùm tôi
Nắng
mai đĩnh Ngự
Gió
chiều sông Hương
Và
những con đường
Có
em sóng bước .
(Kỷ
Niệm)
Sông
Hương vẫn cứ sông Hương ấy
Nước
chảy tang thương đã mấy dòng
Chẳng
lẽ về đây ta nín khóc
Là
vui là Huế của ta không.
(Huế
Của Ta)
Anh
nhớ vô cùng, anh nhớ Huế ơi
Hương
Giang, con nước trôi ngày tháng
Thành
quách rêu phong lưu dấu xưa
Chỉ
thiếu tình em cùng với Húê
Để
anh nhìn em đã HÚÊ chưa !
(Lời Hẹn)
Nhà
thơ ZuLu DC vào đời, trải qua vô vàn biến cố của đất nước làm ảnh hưởng cuộc sống
của mình. Ông từng chạy nạn chiến tranh, từng là một thuỷ thủ lênh đênh
trên biển, rồi từng là một người lên rừng đốn củi bứt mây, rồi lại
lưu lạc xứ người. Cuộc đời nhà thơ
trải qua nhiều biến chuyển, nên thơ
ông sáng tác là loại thơ trường đời, trăn trở những mất mát xảy
ra. Đọc bài thơ “Động Đền” của ông,
lòng ta không khỏi cảm hoài những kỷ niệm đẹp không còn nữa ngày
nhà thơ quay lại. Động Đền một vùng đất làm dinh điền ở Hàm Tân,
Bình Thuận, nơi định cư mới cho những gia đình chạy nạn chiến tranh,
cửa nhà và quê hương bị chìm trong khói lửa. Nhà thơ đã định cư ở
đây một thời gian, ra đi rồi quay lại để thấy mình không tìm lại được
những gì mà ngày trước mình cho là “như đất hứa”. Bài thơ như tiếng
thở ra đầy ưu tư của đứa con quay lại mà chốn xưa không còn nhận ra
mình. Bài thơ làm rát lòng ta như “dây gàu ba đoạn nối/Quay hoài quay
mãi rát bàn tay”:
Xưa
ta ở cạnh người hàng xóm
Gặp
gỡ đôi lần chẳng nói chi
…Trở
lại Động Đền sau cuộc thế
Dốc
dài cát bỏng chân ta đau
…Ngụm
nước dây gàu ba đoạn nối
Quay
hoài quay mãi rát bàn tay
…Động
Đền thuở trước như đất hứa
Bây
giờ trong ta là nhánh sông
…Có
một hồi chuông đâu vọng tới
Mơ
hồ nòi giống của ta xưa
Đớn
đau như thể dòng nước mắt
Buồn
như lịch sử trút cơn mưa
(Động Đền: 34 câu, rút còn 12 câu)
Động
đền là bài thơ hay tuyệt vời, là bài thơ
tường thuật một phần đời ZuLu DC, cũng là một phần đời của hàng vạn con
người trong thế hệ của ông phải chịu cảnh “Buồn như lịch sử trút cơn mưa”!
Sinh
ra và lớn lên giữa thời tao loạn, ZuLu DC cũng
như bao chàng trai trong thế hệ của ông, phải đầu quân nhập ngũ. Nhà thơ
nhớ đến quân trường xưa và nhớ đến những ngày hành quân gian khổ. Thơ về lính của
ZuLu DC đậm chất lãng mạn hơn là khí thế
hào hùng, không có bom đạn và hoả châu, chỉ có yêu thương dáng kiều, yêu thương
cả khi nhìn người nữ chiến binh phe địch:
Đã
có một thời tuổi trẻ của chúng ta
đượm
chất thơ bi tráng
của
một thời vói mộng trời cao,
…
thời của binh lửa có nhau,
của
dáng kiều thơm mộng mị,
của
những chén rượu sa trường
hùng
khí,
(Quân
Trường Xưa)
Thương
quá đôi mắt U-Minh Hạ
Nửa
thế kỷ vẫn như hôm qua
Cô
gái nhìn ta bằng uất hận
Ta
nhìn cô gái như em ta
(Đôi Mắt U-Minh-Hạ)
Trên
đây chỉ đề cập đến một vài bài thơ về một phần đời bôn ba của tác giả. Thơ ZuLu
DC còn chất chứa bao nỗi niềm, tạo nên bao vết hằn trong tâm khảm ông. Những nỗi niềm đó đã biến thành thơ nói về mẹ,
về em, về tình yêu trai gái, về bạn bè và về những vui buồn đến trong cuộc sống.
Nói
về mẹ và em, bài thơ “Trăng Vu Lan” của ZuLu DC có thể làm thành suối lệ trong
những tâm hồn nhạy cảm với thơ:
TRĂNG
VU LAN
Đọc
bài thơ em viết
Anh
thành ra đứa bé
Ở
một góc trời lạ
Thương
mẹ và nhớ em
…
Bao nhiêu là cây xanh
Bao
nhiêu là hoa lá
Là
bấy nhiêu lòng anh
Là
yêu thương nhớ mẹ
…Mẹ
giờ thân hoá đá
Em
giờ hiu hắt thêm
(Bài thơ 25 câu, rút còn 10 câu)
“Đọc
bài thơ em viết/ Anh thành ra đứa bé” cho ta hiểu rằng nước mắt đã chảy thành
dòng trên những trang thơ. Không có đứa
bé nào “Thương mẹ và nhớ em” mà không khóc thành tiếng, không khóc nức nở,
không có dòng lệ trôi dài trên đôi gò má. Nhà thơ ZuLu DC chắc chắn cũng vậy
khi ông nói rằng ông thành ra đứa bé. Trăng mùa Vu Lan cũng là trăng mùa Mưa
Ngâu. Khác một chút là mưa ngâu ở trăng thượng tuần, nước mắt của Ngưu Lang -
Chức Nữ đổ xuống trần gian . Bài thơ “Trăng Vu Lan” nhà thơ nhắc đến mẹ và em,
cho ta một liên tưởng đau lòng đến sự chia ly cách trở trong mùa Mưa Ngâu. Sư
chia ly cách trở của xưa và nay đều đau khổ như nhau.
Tình
yêu nam nữ là thứ thơ mà không một nhà thơ nào không viết. Ngoài những bài thơ
cho em trong những cuộc tình nên thơ, say đắm hay chia ly như bao bài thơ của
thi sĩ đời nầy, nhà thơ ZuLu DC đặc biệt có một
bài thơ tình độc đáo. Trong bài thơ ấy, ZuLu DC cũng đi tìm là Diêu Bông
cho em như ngày xưa Hoàng Cầm đi tìm lá Diêu Bông cho chị, nhưng chàng đi đến tận
xứ Man Thiên mới phát hiện nàng đứng đó,
tay cầm lá Diêu Bông giấu ở sau lưng:
Đi
hết núi anh tìm mà chưa gặp
Hoàng
hôn tím tiếp tiếp bình minh hồng
...Anh
cứ đi, đi mãi tới đầu sông
Đến
tận man thiên nước chảy xuôi dòng
Anh
chợt nhận ra một điều rất thật
Tay
Em sau lưng giấu lá diêu bông .
(Man Thiên: Bài thơ 12 câu, rút còn 6 câu)
Man
thiên có thể hiểu là “chốn đất thiên ở thời nguyên thủy”. Chốn đất thiên nầy hiểu
xa một chút chính là vườn Địa Đàng, nơi khai sinh loài người theo Kinh Thánh. Nếu
hiểu như vậy thì nhà thơ đã quay về quá khứ trong hư cấu, trong tưởng tượng hay
trong giấc mơ thật sự cúa mình. Và vì thế người đọc thơ cũng có thể cảm nhận được
một giấc thụy du dài triền miên trong cuộc đi tìm lá Diêu Bông.
Lá
Diêu Bông không có bao giờ, giấc thụy du tìm lá Diêu Bông dầu cho dài suốt đêm
thì cũng ngắn so với cuộc đời. Lá thì không có, mộng cũng không lâu, bài thơ
thì ngắn nhưng tất cả là một cảm tác tuyệt vời, một trí tưởng tượng hoàn toàn
nghệ thuật, một bài thơ chan chứa tình, mơ mộng như hồn bướm và siêu thoát quay
về chốn cội nguồn, chốn nguyên thủy, có bóng em tươi cười, ngỗ nghịch, với lá
hoa Diêu Bông giấu sau lưng làm em trở thành thánh nữ, hiển hiện trong tâm hồn
bất kỳ ai đó yêu thơ.
Nhà
thơ ZuLu DC có những bài thơ Tứ Tuyệt mà ông gọi là “Thơ Rơi” chất chứa những ưu tư, cô đọng những điều suy
nghiệm, những bâng khuâng trong cuộc sống,
trong triết lý, trong tâm linh. Những bài thơ nầy mang nhiều ẩn dụ, ta đọc lên
như chiêm nghiệm những gì trong bao la, được thu vào trong chiếc hồ lô thơ bé
nhỏ nhưng quyền phép vô cùng:
Khi
về đứng giữa bờ thiên cổ
Thấy
những tàn phai thân ái xưa
Thấy
những bâng khuâng còn sót lại
Nói
cười như thể trong cơn mơ.
(Bâng Khuâng)
“Khi
về đứng giữa bờ thiên cổ”: Thiên cổ là gì? Là nghìn xưa, rất lâu đời. Bờ thiên
cổ là gì? Là ranh giới giữa nghìn xưa và thời gian sau đó. “Thấy những tàn phai thân ái xưa”: “Thân ái”
không phải là vật chất, thân ái thuộc về tâm hồn. Câu thơ gom cả cảnh và tình
trong chữ “thân ái” cho ta một nỗi buồn man mác như mất một quá khứ, như hối tiếc
một thời đã qua trong dĩ vãng xa xưa. Và nhà thơ thấy tiếp những gì? “Thấy những
bâng khuâng còn sót lại”: “Bâng khuâng” là gì? Là những cảm xúc xảy ra lúc đó,
những luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, gây ra trạng thái ngẩn ngơ trong
lòng. Câu thơ nhấn mạnh cho ta thấy nhà thơ muốn buông bỏ quá khứ, muốn quên đi
mà không thể nào quên được. “Bâng khuâng còn sót lại” là tiếng khóc trong lòng,
là giọt lê nuốt vào , là con tim đau không co mà thắt, là khi muốn quay đầu bỏ
đi mà vẫn chôn chân tại chỗ, đứng ngẩn ngơ nuối tiếc . Câu thơ thứ tư trở thành
câu thơ để đời, nhờ tác giả tinh tế đặt nó dưới ba câu thơ kia, làm cho nó trở
nên vô cùng ý vị.
Đọc
"Bâng Khuâng" của DuLu DC, ta thấy cả một tâm hồn cô liêu buồn hiu hắt.
Tâm hồn đó cô liêu đến cùng tận cái cô liêu, hiu hắt đến cùng tận cái hiu hắt,
khiến cho bài thơ có bốn câu mà sự tàn phai trút từ thiên cổ về trong hiện tại,
đến nỗi nhà thơ nói cười như trong cơn mơ!
Sau
đây là vài bài thơ rơi khác:
THƠ VỚI TÌNH
Thơ
được như quà bánh
Không
đói vẫn cứ ăn
Tình
đời như thuốc đắng
Chửa
nổi buồn được khộng?
Đem
bánh so với tình đời là một ý thơ vô duyên lạ, vô duyên khi ta chợt
đọc nhưng hữu lý khi ta suy gẫm tình đời. Bánh thì khi không đói cũng
có thể ăn, nó vô hại, nhưng tình đời thì không phải khi nào cũng như
thuốc đắng. Có khi tình đời ngọt ngào hơn cả mật. Thế nhưng đoản
khúc 4 câu của ZuLu DC không đúng mà cũng không sai. Không đúng là khi
ai đó đang lạc quan yêu đời, nhìn đâu cũng thấy màu hồng tươi đẹp.
Không sai là khi ai đó gặp sự cố buồn, bi quan nhìn đời thấy một màu
đen tối.
NÓI ĐI
Trên
tà áo tím ngày xưa
Vẫn
ngan ngát những nắng mưa cuộc đời
Giá
như nói được thành lời
Nói
đi áo hỡi áo ơi lời gì?
Chắc
chắn người con gái mặc tà áo tím ngày xưa đẹp lắm, tà áo tím của
nàng không khác chi tà áo lụa Hà Đông trong thơ Nguyên Sa đã làm cho
“Nắng Sài Gòn chợt mát” thì nhà thơ Zuu DC mới nhớ đến ngày nay.
Chắc chắn người con gái năm xưa không thành công trong cuộc đời, không
vinh hoa phú quý gì nên chiếc áo ngày xưa đã phai màu, chỉ còn ngan
ngát chút dư hương vì phải hứng chịu “nắng mưa cuộc đời”. Chắc chắn
người con gái năm xưa nín chịu, không thổ lộ, không nương tựa vào
chàng nên nỗi đau thốt lên trong thơ là của thi nhân, của ZuLu DC chớ
không phải của nàng.
Nhà
thơ không nhận được tâm tình của người thiếu nữ năm xưa (có thể là
người yêu tha thiết một thời của chàng) nên thi nhân thốt lên câu thơ
hờn dỗi, thúc giục chiếc áo vô tri hãy nói đi, nói đi, nói một lời.
Sư thật tà áo tím năm xưa đã nói nhiều khi nhà thơ nhìn thấy nó
“Vẫn ngan ngát những nắng mưa cuộc đời”. Chỉ bốn câu thơ thôi nhưng
hàm chứa thân phận của một hồng nhan, lòng tự trọng của một người
nữ và tình yêu chan chứa của một cuộc tình không đến với nhau!
ĐI TU
Chày
kình dóng một hồi chuông lạ
U
uẩn lòng ta nhân thế ơi
Có
cảnh chùa nào không có Phật
Ta
về xuống tóc đi tu thôi.
Chày
kình nhấn một hồi chuông mà không làm cho thanh thoát lòng người, lại
khiến nhà thơ “U uẩn lòng ta nhân thế ơi”. Đúng rồi, bởi vì hồi
chuông nhà thơ nghe là “hồi chuông lạ”. Có hồi chuông lạ không? Không
có, chỉ có thi nhân lạ với hồi chuông vì cái tâm khổ đế chán đời
còn nặng nề . Chính cái tâm nặng nề đó khiến nhà thơ muốn tìm một
cảnh chùa không có Phật để xuống tóc đi tu. Không có Phật thì đi tu làm gì? Đi tu
với ai? Có lẽ nhà thơ đi tu với tình, bởi chán đời thì bỏ đời đi tu
Phật được, chán tình thì bỏ tình đi tu Phật được, nhưng thất tình
thì còn yêu, còn nhớ, còn thương, không thể nào đi tu chùa Phật được
đâu. Bài thơ đọc nghe lạ lắm, nghịch
lý lắm, nhưng có nghịch lý như thế thì ta mới thấy ý thơ lạ như
tiếng chuông cũng lạ làm u uẩn lòng người. Không biết nếu có ngôi
chùa không Phật, tác giả sẽ đi tu một mình hay đi tu với một nàng
xinh đẹp. Đi tu kiểu như thế, nhà thơ đã hứa sẽ xuống tóc nhưng xuống
tóc để quy y với nàng chớ không thể nào quy y với Phật được đâu!
Kết Luận:
Tập
thơ ZuLu DC có trên 100 bài thơ, có trường thi như “Động Đền”, có đoản thi như
“Bâng Khuâng”, tất cả như những con suối nhỏ, như những dòng
sông chữ nghĩa trôi giữa đôi bờ giấy. Đó là nhưng con nước văn chương
lung linh dưới trăng sao màu quê hương, màu tình yêu, màu sự sống mà, với năm
hay mười trang giấy nầy không nói được một phần rất nhỏ của ưu tư, của trăn trở,
của suy nghiệm, của thương nhớ, của sung sướng và của khổ đau một đời thi nhân,
người dầu trong hoàn cảnh nào thì tâm hồn
vẫn như Tùng Bách vương cao giữa bầu trời trong trẻo vô biên hay bão tố
kinh hoàng. Xin mời quý vị hãy lên thuyền, chèo vào những con nước, những dòng
sông ấy, thử ngắm và đánh giá những gì tôi viết, tôi tôn vinh, tôi tán tụng vì
tôi đã được ưu tiên đi vào chốn ấy. Tất nhiên tôi phải chịu hết trách nhiệm những
gì tôi đã viết ra đây./.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét