ĐỌC “TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ THÂM TÂM
Châu
Thạch
TỐNG BIỆT
HÀNH
Đưa người, ta không đưa qua
sông
Sao có tiếng sóng ở trong
lòng?
Bóng chiều không thắm, không
vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt
trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng
dưng…
Li khách! Li khách! Con đường
nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay
không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn chiều hôm
trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ
sót
Ta biết người buồn sáng hôm
nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm
thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc
khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
./.
Thâm
Tâm
Lời Bình của Châu Thạch
Bài
thơ “Tống Biệt Hành” được nhà thơ Thâm Tâm sáng tác vào khoảng năm 1940. Kể từ
khi ra đời đến nay đã trên 75 năm bài thơ luôn luôn được yêu thích và đã được
đưa vào sách giáo khoa của học đường.
Hành
là một thể thơ cổ, thường được xử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẩn, bi
hùng. Bài thơ “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm có hai nhân vật, người đưa tiễn và
người ra đi. Tâm trạng của người ra đi được biểu hiện qua lời của người đưa tiễn
và ngược lại, tâm trạng của người đưa tiễn cũng là tình cảm của người ra đi.
Vào
đề với bốn câu thơ, tác giả đã cho ta nghe sự va đập dồn dập của nhiều âm
thanh:
Đưa
người, ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Vế
thơ có nhiều chữ “không” và lạ thay, nội chứa trong chữ “không” đó nẩy sinh chữ
“có”: Không sông thì lại có tiếng sóng, không thắm thì có mắt trong, không vàng
vọt thì có hoàng hôn. “Không” và “có” là hai từ đối lập nhau, lại hoà hợp trong
vế thơ nầy, tạo thành âm thanh biểu hiện nỗi ấm ức trong lòng. Đọc vế thơ ta thấy
ngay nhiều nghịch lý xảy ra giử cảnh và người đưa tiễn cũng như người ra đi.
“Đưa
người, ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?”
là
nghịch lý xảy ra đối với người đưa tiễn
Và
“Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt
Sao
đầy hoàng hôn trong mắt trong?”
là
nghịch lý xảy ra đối với người ra đi.
Khung
cảnh bên ngoài đối chọi với tình cảm trong lòng là một nghệ thuật điêu luyên
trong sáng tác. Tác giả dùng phương pháp “tá khách hình chủ” nghĩa là mượn cái
nầy để làm nổi bậc cái kia giống như Nguyễn Du đã dùng cái đẹp của Thuý Vân để
gần cái đẹp của Thuý Kiều, làm cho Thuý kiều nổi bậc thêm lên.
Ở
đây Thâm Tâm đã dùng hai sự kiện “không” và “có”, mục đích dùng cái không của
không gian để làm nổi cộm lên cái có trong tâm hồn. Cái có ở đây là nỗi buồn ly
biệt.
Qua
vế thứ hai của bài thơ:
Đưa
người, ta chỉ đưa người ấy
Một
giã gia đình một dửng dưng...
Li
khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí
lớn chưa về bàn tay không
Thì
không bao giờ nói trở lại!
Ba
năm mẹ già cũng đừng mong
Đoạn
nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết
ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy
thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch
xuất quân, như lời thề non nước.
Qua
hai vế thơ kế tiếp như sau:
Ta
biết người buồn chiều hôm trước
Bây
giờ mùa hạ sen nở nốt
Một
chị, hai chị cũng như sen
Khuyên
nốt em trai dòng lệ sót
Ta
biết người buồn sáng hôm nay:
Giời
chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em
nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói
tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Đoạn
nầy có tác giả bình thơ nhận xét rằng “Không những tầm thường mà còn hơi “sến”
nữa”. Thật ra nhà thơ Thâm Tâm rất rành tâm lý. Ở hai vế thơ trên biểu hiện niềm
đau quặn thắt trong lòng người đưa tiễn, sự xúc động đã dâng lên cao độ khi thốt
lên tiếng kêu đau thương “Li khách! li khách!”.
Qua
hai vế thơ nầy lời thơ trở nên kể lể vì niềm đau đã được nén xuống, hơi thở nhẹ
đi, con tim bình tịnh lại. Nỗi đau không còn là ngọn lửa bùng lên nữa mà bây giờ
nó là ngọn lửa âm ỉ đốt cháy trong lòng. Lời thơ kể lể ở đây không phải là “tầm
thường”, không phải là “sến” mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc
gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.
Vế
chót của bài thơ như sau:
Người
đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như ly rượu cay
Có
người cho rằng vế thơ nầy “Quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình”. Thật ra đây là
một vế thơ rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả. Những điều mà người
ra đi phủ nhận trong vế thơ nầy chính là những điều mà người ra đi canh cánh
bên lòng.Chữ “thà” ở đây không có nghĩa là “xem như không có” mà chữ “thà” ở
đây có nghĩa là “không bỏ đi được”.
Nếu
người ra đi ngày ấy xem mẹ như lá, chị như bụi và em như ly rượu cay thì người
đó không đáng để đưa vào thơ. Ta hãy đọc một đoạn thơ có chữ “thà” trong bài
“Khúc Tình Buồn” của Nguyễn tất Nhiên để hiểu thêm về chữ “thà’ của Thâm Tâm:
“Người
từ trăm năm/ về qua sông rộng/ ta ngoắc mòn tay/ trùng trùng gió lộng/ thà như
giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn
không...”.
Ta
thấy rằng, khi người yêu qua sông, Nguyễn Tất Nhiên ngoắc mòn tay gọi người yêu
trong vô vọng. Lúc đó nhà thơ càng dùng chữ “thà” thì càng đau đớn gấp bội.
Tình yêu lúc đó càng mảnh liệt đến nỗi nhà thơ muốn “Thà như giọt mưa” thì vẫn
còn có để đến với em hơn là không chi hết. “Thà” của Nguyễn tất Nhiên và Thâm
Tâm là từ ngữ đã vượt ra ngoài nghĩa của cái chữ thường tình. Nó khẳng định một
tình yêu mảnh liệt với người yêu trong thơ Nguyễn Tất Nhiên và nó cũng khẳng định
một tình yêu mảnh liết với mẹ, với chị, với em trong thơ Thâm Tâm.
Gần
đây có ý kiến cho rằng “Mức độ nổi tiếng của Tống Biệt Hành không tương xứng với
giá trị nghệ thuật của nó vì các lý do sau:
- Được
Hoài Thanh là nhà phê bình danh tiếng ưu ái giới thiệu trong Thi Nhân Việt Nam.
Do đó người sau vì uy tín của Hoài Thanh và Thi Nhân Việt nam cứ thế ca ngợi,
tán dương theo.
-
Được cả chính quyền miền Bắc và miền Nam Việt Nam cần người lên đường phục vụ
cho chế độ nên giúp sức phổ biến vì lý do chính trị.
- Được
đưa vào nhà trường giảng dạy nên thầy giáo, học sinh cứ tán tụng, không dám bày
tỏ ý kiến đối nghịch vì sợ bị trù dập.”
Nhận
xét như thế tôi cho là quá bất công với Tống Biệt Hành vì:
- Hoài
Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa
vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của
các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống Biệt
hành có giá trị nghề thuật cao. Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám
chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán
tụng nó theo Hoài Thanh. Điều đó không thể nếu tự Tống Biệt Hành không có giá
trị ngang tầm với danh của nó.
-
Chình quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế
độ mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một
sự ra đi vu vơ không mục đích rỏ ràng.
- Bài
thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định
giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng
dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều
đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của Tống
Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch
trong công luận.
Thật
ra với thời gian 75 năm, kịnh nghiệm cho ta thấy có nhiều tác phẩm hời hợt, được
vinh danh gượng ép vì một lý do nào đó đã lần lược mai mọt hết với thời gian rồi.
Riêng Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, nó vẫn còn sống thắm tươi trên diễn đàn văn
học và trong lòng nhiều thế hệ. Nó không chết đâu, và mức độ nổi tiếng của nó rất
tương xứng với giá trị nghệ thuật của chính nó vì Tống Biệt Hành là khúc ca tiễn
biệt rất hay mà tiễn biệt thì ở thời đại nào cũng có xảy ra ./.
Châu
Thạch
LẠI BÀN VỀ TỐNG BIỆT HÀNH
(Trao đổi với nhà văn Châu Thạch)
Lời Nói Đầu
Cách đây không lâu anh Nguyễn
Khắc Phước có thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn Nghệ Quảng Trị, một
trang thuần túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời tôi có bỏ ra vài
buổi dạo qua trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để ý đến những cây
bút phê bình văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm được cảm tình
của tôi với cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.
Hôm nay đọc được bài Đọc Tống
Biệt Hành Thơ Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và Văn Đàn Việt) trong
đó anh có nhắc đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống Biệt Hành - của
tôi nên xin phép được trao đổi với anh trong tinh thần “bạn văn” cùng viết trên
một diễn đàn văn học.
Những Đoạn Được Phê Phán:
1/ Anh nhắc đến hai đoạn
thơ:
Ta biết người
buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ
sen nở nốt
Một chị, hai chị
cũng như sen
Khuyên nốt em
trai dòng lệ sót
Ta biết người
buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa
thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ
đôi mắt biếc
Gói tròn thương
tiếc chiếc khăn tay…
rồi anh viết: Đoạn này có tác
giả bình thơ nhận xét rằng “không những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’ nữa.”
Theo anh thì: “Lời thơ kể lể
ở đây không phải ‘tầm thường’, không phải ‘sến’ mà nó là dàn nhạc trầm lặng da
diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.”
Theo tôi, hai đoạn thơ đã có
những khuyết điểm sau đây:
a/ Nói chuyện “chiều
hôm trước” mà dùng trạng từ chỉ thời gian “Bây giờ” là không chính xác.
Muốn chính xác, muốn hay, phải dùng từ khác.
b/ So sánh “sen nở nốt”
với “dòng lệ sót” rất khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa và dòng lệ còn
sót lại của mấy người chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh đó quá xa cách,
không tương hợp. Phép “so sánh” không hay.
c/ Chữ “dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm giá trị của chữ “sót”.
d/ “Giời chưa mùa
thu tươi lắm thay” là một
câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả đoạn
thơ.
e/ Đọc hai câu:
Em nhỏ ngây thơ
đôi mắt biếc
Gói tròn thương
tiếc chiếc khăn tay
tôi tưởng tượng trước mắt
mình một em nhỏ, đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm
chiếc khăn tay như muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình
ảnh ấy vừa khô cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật. Ngây thơ đôi mắt biếc
như em nhỏ thì biết gì mà thương với tiếc? Chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.
Trên đây là một vài chi tiết
khiến tôi đưa ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường mà lại còn
‘sến’ nữa.” Anh Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc
gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự
phán xét sau cùng cho độc giả.
2/ Vế Chót Của Bài Thơ
Người đi? Ừ nhỉ,
người đi thực!
Mẹ thà coi như
chiếc lá bay
Chị thà coi như
là hạt bụi
Em thà coi như
hơi rượu cay
Có người cho rằng vế thơ này
“quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình.” Theo anh thì: “Thật ra đây là một vế thơ
rất hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”
Tôi không nghĩ như vậy. Trên
bề mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ ràng là cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình. Hơn nữa,
đó không phải là tâm trạng, cách suy nghĩ của chính người ra đi nói ra mà chỉ
là sự võ đoán của người đưa tiễn. Cho nên nếu nói đến giá trị nghệ thuật thì
mấy câu thơ ấy chỉ như là rượu giả, khó làm vừa lòng những tay sành rượu.
3/ Hoài Thanh Không Ưu Ái
Châu Thạch cho rằng Hoài
Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa
vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của
các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống
Biệt hành có giá trị nghề thuật cao.
Tôi đồng ý với anh Châu Thạch
là TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ nào đó, phải hợp “gu” với
Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng được
Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi.
Thời gian qua đi, cách nhìn
nhận và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh - đặc biệt lúc ông còn
sống - khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những ý kiến trái ngược hoặc
khác với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng có nhưng cái sợ lớn nhất
là sợ bước vào một trận chiến không cân sức với một đối thủ quá mạnh.
Anh Châu Thạch còn viết rằng:
“Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành
là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh.”
Theo tôi, chỉnh sửa một điểm
nào đó trong truyện Kiều không khó vì không bị đè nặng bới một sức ép chính trị
tâm lý nào. Miễn là anh có kiến thức rộng về văn học, thơ ca và đủ tự tin để
viết. “Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một chính sách lớn của nhà nước trong
hoàn cảnh chiến tranh, lúc người chống lưng cho nó vừa có văn tài, vừa có quyền
uy ngất ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn chương.
4/ Hàng Vạn Bài Thơ Khác
Thì Sao?
Châu Thạch viết: “Chính quyền
miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình
trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi
vu vơ không mục đích rõ ràng.”
Những bài thơ viết để trực
tiếp phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy nhưng thơ thì không
nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ này thường là người
nằm trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì công việc, vì “cái
ghế”, vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị coi thường, khinh
rẻ. Thậm chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội chửi thề ngay cả
trước mặt công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi e rằng quá lố).
Chỉ có những bài thơ tác giả
có tay nghề cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm xúc thật của mình nhưng ý
tứ của bài thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối, chính sách của chính phủ nên
được phổ biến trong quảng đại quần chúng. Vâng! Chính những bài thơ ấy mới hấp
dẫn người đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo, làm theo tiếng gọi của tứ thơ
(hoặc ý thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.
5/ Bài Thơ Được Đưa Vào
Nhà Trường
“Bài thơ được đưa vào nhà trường
tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật cao của
bài thơ. (Điều này không phải
lúc nào cũng đúng). Nhiều
năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê
trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của
Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối
nghịch trong công luận.”
Vào trường học là có giáo án,
thi cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của mình để đánh đổi lấy một
cơ hội được phản bác điều mình được dạy trong trường lớp? Có thầy, cô giáo nào
dám dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở các trường cao đẳng hay đại
học sư phạm? Vả lại, nếu người phản bác không có thực tài, không chọn đúng thời
điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca mới, không có sự hỗ trợ
của một vài nhân vật có chức quyền trong ngành, những ý kiến phản bác sẽ như
muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.
Giá Trị Nghệ Thuật Của Tống
Biệt Hành
1/ Khuyết Điểm
Ngoài những khuyết điểm ở hai
đoạn thơ nói về chị và em TBH còn có những yếu kém sau đây:
a/ Câu “Đưa người ta chỉ đưa người ấy” có vẻ ngây ngô và đóng góp
rất ít cho bài thơ.
b/ Cái dở nhất của TBH, theo tôi, là có nhiều đoạn người ra đi
không được bày tỏ trực tiếp mà cảm xúc, tâm trạng của anh ta lại do người tống
biệt võ đoán và nói hộ. Độc giả có cảm giác như được Thâm Tâm mời đến thưởng
thức món thuốc lá gia truyền rất ngon, nhưng khi gặp nhau thì chỉ được hút một,
hai hơi; sau đó là ngồi ngửi khói (hút gián tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết
ở ngôi thứ nhất” đã bị vi phạm mà không có lý do chính đáng.
2/ Ưu Điểm
Dù vậy TBH cũng vẫn là một
bài thơ hay. Chỉ với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa một cách tài tình tâm trạng
của người đưa tiễn – và với khả năng quan sát tinh tế, đã “bắt” được nỗi buồn
của người ra đi:
Đưa người ta
không đưa qua sông
Sao có tiếng
sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không
thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng
hôn trong mắt trong?
Để tả cảnh chia ly 4 câu thơ này có thể
hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào của bất cứ tác giả nào trong Phong
Trào Thơ Mới.
Cái độc đáo nữa của TBH là
“điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển
chuyển như phần nhiều thơ bây giờ”. (1)
Đứng bên cạnh những bài thơ
có âm điệu du dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH có dáng dấp độc đáo, gây
được sự chú ý ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.
Cái hay nhất của TBH là - mặc
dù nhân vật và khung cảnh khác xa nhau - đã gợi được không khí hào hùng, bi
tráng của cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh
Kha sang sông Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng. Người đọc, đặc biệt là nam nhân,
cảm thấy hào khí bốc lên cao ngất, thân này kể bỏ, gia đình (mẹ, chị và em)
cũng coi như không có, vì lý tưởng, vì nước quyết ra đi để thỏa mãn chí lớn của
người trai.
Chí lớn không về
bàn tay không
Thì không bao
giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già
cũng đừng mong.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Châu
Thạch khi anh viết:
Đoạn nầy ý nói
người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau
ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy thật rắn
rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất
quân, như lời thề non nước.
Tóm lại, nếu đặt ưu và khuyết
điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay. Ưu điểm rất độc đáo và gây
được ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn thơ thường được ngâm nga
trong những buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên đường. Nhưng khuyết điểm
cũng không ít, trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong việc sáng tác thơ ca.
Riêng về tứ thơ thì tôi cho
rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi, phải nhờ vào cái bóng của một
“khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có được sức hấp dẫn người đọc như
nó đã có.
Hơn nữa, như đã phân tích ở
trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu)
không phải là thứ “tông” phát xuất từ chính trái tim người tống biệt mà chỉ là
cảm xúc của người ra đi được người tống biệt đoán ra.
Khách mời của bữa tiệc TBH
tưởng như mình sắp sửa qua sông Dịch để cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy
ly, nâng cao và hô một tiếng “dzô” thật lớn rồi uống cạn để thấy hào khí trong
người mình dâng lên cao ngất. Đến khi tỉnh dậy sau cơn say khướt, thấy nhức đầu
một cách khó hiểu nhưng cũng không biết là mình uống phải rượu giả, toàn nước
lã pha cồn.
Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác)
thì hoàn toàn khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm sự được chính tác giả thốt
ra trong lúc ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục khơi trong” của lý trí nên
cũng rất thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say hay tỉnh, cũng thấy bốc cao
ngất trời và nóng bỏng.
Trong trò chơi bình thơ, với
tôi, chê lầm một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm một câu (bài) thơ dở là một
lỗi nặng, ảnh hưởng đến uy tín của người bình thơ. Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có
lúc lỗi lầm? Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi và sửa chữa.
Nhưng bình một bài thơ mà –
vì một lý do nào đó ngoài thơ - thấy một điểm hay mà không dám khen, thấy một
điểm dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương tâm mình
và tội với thơ. Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với sự hiểu
biết và cảm nhận của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã cho tôi
cơ hội đọc kỹ lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà tôi – vì
muốn hướng sự chú ý của độc giả vào những điểm chính – đã bỏ qua. Và chuyện
đúng sai xin nhường cho độc giả phán xét.
Kết Luận
Với bài thơ Tống Biệt Hành
anh Châu Thạch và tôi có vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là chuyện thường
tình trong bình phẩm thơ ca. Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu Thạch có số bài
gấp nhiều lần số bài của tôi. Anh là cựu binh, còn tôi là lính mới. Cũng may là
trên chốn văn chương nên tôi mới dám mạnh dạn trao đổi với anh.
Qua hai bài viết, một của anh
và một của tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch – “cả hai chúng ta đều có
lợi”. “Và biết đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật
gù khoái chí”.
……………..
Chú thích:
1/ Chữ của Hoài Thanh
Galveston, Texas 10/18/15
PHẠM ĐỨC NHÌ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét