Nhà thơ Kha Tiệm Ly
Than ôi!
Rừng Gò Tháp mấy dặm sầu
giăng,
Dân Cao Lãnh muôn hàng lệ đổ!
Nhớ người hào kiệt, cỏ cây
lúc thảm lúc sầu
Xót kẻ hùng anh, trăng sao
khi mờ khi tỏ!
Nhớ xưa,
Sông Côn(1) trùng trùng linh mạch,
sản sinh bao liệt nữ kiên trung,
Núi Thơm(1) ngân ngất khí thiêng,
phát tích những anh tài văn võ.
Thôn Cù Lâm(1)
xuất thiếu niên tài tuấn, đấu vỏ, kéo bè, sức mạnh siêu quần, dân lành cùng thời
tôn gọi Ngũ Linh(2)
Đất Ba Giồng(3)
nạp hào kiệt hảo bằng, đánh Tây, dẹp Rợ, công cán hơn người, vua sáng đương triều
sắc phong Thiên Hộ.
Súng Lang Sa đạn bay sáu tỉnh,
gót giày đinh dẫm nát xóm thôn; tàn ác sao loài quỷ trắng hung tàn.
Người Nam Kỳ lệ ngập chín
sông, tiếng than oán thấu tận trời xanh, thương xót quá kiếp dân đen thống khổ!
Kẻ im miệng thì bị rỉa thịt
rút xương,
Người phản kháng phải chịu cắt
hầu chặt cổ!
Vì thế, Võ tướng quân:
Trương cờ nghĩa nạp đệ huynh
bốn hướng; cờ bảo quốc, cờ an dân, cờ giành lấy độc lập tự do,
Tuốt gươm thiêng kết giao hào
kiệt ba miền; gươm trừ ác, gươm diệt thù, gươm chém tan ba đào giông tố.
Xứ Ba Giồng chiêu dân lập ấp,
gạo trắng nước trong: chỗ lý tưởng cho nghĩa sĩ ẩn mình.
Đất Gò Tháp xây lũy ngăn thù,
bưng rộng trấp sâu: vùng đắc địa để anh
hùng dụng võ.
Bài quyền Yễm Bách(4),
nhắm quân thù giương mạnh thần cung, tên bắn mút tầm,
Đường roi Song Đôi(4),
cùng hảo hán chỉ thẳng bảo đao, ngựa phi thẳng vó!
Rõ ràng!
Tháp Mười đầm lầy miên dã, tạo
bao tử địa quỷ khốc thần sầu.
Cao Lãnh cạm bẫy kinh người,
góp những chiến công trời long đất lỡ.
Trận Mỹ Trà(5)
giáp công ba mũi; phá tàu thủy, phá nhà việc, phá hết kho tàng; quân thù nghẹt
xác.
Trận hỏa công lửa cháy bốn bề;
đốt thằng lính, đốt thằng quan, đốt rụi cánh đồng; lính Tây phơi sọ(6).
Rắn thần(7) nhe nanh há họng, mổ
thằng nhỏ, mổ thằng to, đám quan binh súng bỏ đầy đường.
Trâu binh(8) hữu đột tả xông, chém
đằng trước, chém đằng sau, lũ cướp nước thây nằm vô số!
Dân Mỹ Ngãi, dân Ba Giồng, Rạch Ruộng(9)…,
sát cánh kề vai, bám thế đất, quyết đưa thuyền độc lập cặp bờ.
Đốc Binh Kiều, Lảnh Binh
Thăng, Bà Bướm(10)… chung lưng đấu cật, dựa lòng dân cùng
trương buồm tự do căng gió.
Cao quý thay!
Trời cao lồng lộng, vì độc lập
giống nòi, chí anh hùng đặt tại non cao.
Súng đạn ầm ầm, vì cơm áo
muôn dân, chuyện sanh tử xem như cây cỏ!
Xông pha sóng gió, tay giữ vững
chèo,
Đối mặt quân thù, gươm bung
khỏi vỏ.
Đồng Tháp Mười thập phần hiểm
trở, địch quân càng mạnh, càng kiên định chồng thù.
Dòng Cửu Long chín khúc liệt
oanh, giông tố càng to càng oai hùng sóng vỗ
Oanh liệt thay!
Dù nửa đời oanh liệt, mà dân
Nam Kỳ chích đầu với mảnh khăn tang,
Bởi một trận cuồng phong, mà
thần Biển Cả rước người về cùng tiên tổ!
Sống một lần, uy danh làm khiếp
vía với vạn vạn địch quân, nào cần chi sắc phán đại thần,
Thác một lần, tên tuổi được
tôn thờ trong triệu triệu trái tim, đâu cầu được siêu thăng tịnh độ!
Máu ghi công, xương ghi đức,
sử sách thiên thu ghi nét chữ rành rành.
Sống làm tướng, thác làm thần,
nhật nguyệt nghìn năm soi tiếng tăm lồ lộ.
Người đương thời than:
“Ai về Đòng Tháp mà coi,
Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạnh
lùng”
Ô hô!
Máu cần phải đỏ, máu cần phải
tươi, máu đổ vì dân, không hổ thẹn muôn người.
Mộ đâu cần lớn, mộ đâu cần
cao; mộ ở lòng người mới trường tồn thiên cổ.
Sống vì dân, sống vì nước,
bia đá khắc sâu người ái quốc vạn kỷ không phai
Nghĩa bằng biển, nghĩa bằng non, sử xanh đậm nét tiếng anh hùng
thiên thu còn đó.
Xót thương thay!
Thương anh hùng xả thân cứu
nước, bao ngày vào tử ra sinh.
Thương nghĩa binh đổ máu phơi
xương, cả đời dầm sương dãi gió!
Thương người quên mình vì nước
mà xác thân dập vùi nơi góc biển ven gành.
Thương người gởi xác sa trường
mà hồn phách dật dờ chốn ngàn lau nội cỏ!
Thương người tăm hơi vời vợi,
chập chờn trong con sóng lênh đênh,
Thương ai chiếc bóng lạnh
lùng, hiu hắt dưới đèn khuya mờ tỏ!
Nợ tổ quốc, nợ đồng bào dù đã
vẹn toàn,
Nợ anh hùng, nợ tào khang vẫn
còn dang dở!
Tướng quân ôi!
Nợ dân đã trả, thần nhân sao
chẳng nghênh ngang gõ bước về trời,
Chí lớn đền xong, anh hùng
sao chưa ung dung vén mây lướt gió?
Ân như sông, ân như núi, đã
được muôn người ghi dạ khắc xương,
Danh dậy đất, danh dậy trời,
đâu cần mấy tiếng khua chiêng đánh mõ?
Hôm nay,
Muôn người vọng bái, chốn đền
thiêng nghi ngút khói trầm bay,
Một dạ hướng về, miền linh địa
đớn đau dòng lệ nhỏ!
“Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”(11);
hình hài dẫu nát tan, nhưng ô nhục vạn kỷ vẫn lưu truyền,
“Khả mai cốt bất khả mai
danh”(12);
xương cốt bị chôn vùi, mà thanh danh thiên thu không hoen ố.
Ngôn từ vụng dại mà tâm ý vô
cùng, kính tiễn đấng hùng anh ngọc bộ đăng trình.
Lễ vật thô sơ nhưng thâm tình
viên mãn, ngưỡng mong đại tướng quân thần uy chiếu cố.
Bậc tiên hiền một thưở ban
ân,
Chúng hậu sinh muôn đời ngưỡng
mộ!
Thượng hưởng!
KHA TIỆM LY
…………………………………
Chú thích:
(1). Những địa danh tại quê hương Thiên Hộ
(2).Ngũ linh: 5 trái linh, mỗi trái 60kg, Võ Duy Dương xách
2 trái, cặp nách 2 trái, cắn 1 trái. Người đời thấy ông sức khỏe thần kỳ nên
tôn ông là Ngũ Linh Dương.
(3). Ba Giồng: Đia danh ởCao Lãnh, căn cứ địa của nghĩa quân
(4). Hai thế võ bí truyền của Thiên Hộ Dương
(5). Mỹ Trà: Một địa danh ở
Cao Lãnh, nơi xảy ra trận đánh khốc liệt; quân Pháp đại bại
(6).Phơi sọ: Trong trận hỏa công, quân Pháp chết như rạ,
thây phơi đầy đồng; cánh đồng nầy gọi là Đồng Phơi Sọ
(7). Rắn thần: Tương truyền Thiên Hộ Dương có rắn thần giúp
sức.
(8). Trâu binh: Thiên Hộ Dương có một vị tướng có tài điều
khiển trâu bằng mõ, được phong là Ngưu Quân Thượng Tướng.
(9). Những địa danh tại Đồng Tháp
(10). Tên những tướng lãnh của Thiên Hộ Dương
(11). “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (câu nói xưa):Thà chịu
chết chớ không chịu nhục
(12). “Khả mai cốt bất khả mai danh”(câu nói xưa):: Có thể
chôn xương cốt chớ không thể chôn danh tiếng./.
********
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét