Thứ Năm, 7 tháng 7, 2022

CHÂU THẠCH: MỘT KIỂU BÌNH THƠ TAI HẠI / Phạm Đức Nhì

 


 

       Nhà Thơ Lê Mai Lĩnh Và Tôi

       Tháng 6/ 2016 anh Lê Mai Lĩnh và tôi có  một cuộc tranh luận văn chương không được hòa nhã lắm. Mời độc giả đọc bài Văn Chương Đâu Phải Là Đơn Thuốc theo link dưới đây:

       http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/van-chuong-au-phai-la-on-thuoc.html

       (Năm năm sau cuộc tranh luận về bài thơ Tống Biệt Hành ấy anh  và tôi có một cuộc đối thoại ngắn dưới một bài bình thơ của tôi trên Facebook như sau:

       Le Mai Linh

       Tôi còn nợ anh món nợ TỐNG BIỆT HÀNH, nghĩa là sau này nghĩ  lại, tôi thiển cận, nghĩa là anh ĐÚNG tôi SAI.

Hì hì

 

       Nhi Pham

       Thôi, vụ Tống Biệt Hành, chúng ta “bắt tay” cho vui vẻ.

Tôi cũng thích lối phản biện văn chương của anh – rõ ràng, mạnh mẽ và “độc”.

 

Le Mai Linh Nhi Pham 

OK. Bắt tay. Cảm ơn anh.

Lâu nay tôi vẫn lấn cấn đó

 

       Sau 5 năm mới có cuộc đối thoại ngắn ngủi đó kể cũng hơi lâu. Nhưng đây là những lời chân tình của một bậc đàn anh trong giới văn chương như anh Lê Mai Lĩnh thì thời gian chờ đợi kể cũng đáng.

       Nói là nói vui vậy thôi chứ chả ai cứ sau mỗi lần tranh luận lại ngồi … chờ đợi. Cái vui ở đây là được thấy cách hành xử cao thượng của một nhà thơ, nhà văn kỳ cựu, có máu mặt.

       Phạm Đức Nhì xin được bày tỏ lòng ngưỡng mộ và cảm phục.

       Sau đó, đọc những bài bình thơ của tôi trên FB anh thường có những bình luận rất ưu ái.

       Thí dụ:

 

       Le Mai Linh

       Hay lắm. Không có NHI PHẠM thứ hai khúc chiết, chi ly như thế trọng sinh hoạt phê bình văn học thời nay.

Tôi không nói quá đâu.

       Còn viết riêng cho tôi anh cũng vỗ về hết mức:

       Ngoài thiên phú, bạn có vốn sống và căn bản kiến thức; mình đoán vậy

       Không có đủ ba thứ đó viết không vững như bạn được.

 

       Trao Đổi Về Thi Pháp

       Tôi với anh cũng có vài cuộc trò chuyện về Thi Pháp trong một số bài thơ của anh. Thấy anh có vẻ thật tình mong muốn tìm hiểu về mảng đề tài mà tôi đã bỏ nhiều công sức học hỏi, nghiên cứu nên tôi cũng dành thời gian trao đổi với anh.

Anh thường đặt vấn đề, tôi tạo một cái sườn gởi qua email rồi sau đó anh em trò chuyện qua Facebook (facetime). Vì là trao đổi riêng nên tôi chân tình nói  thẳng, nói thật. Và anh cũng vui vẻ, cám ơn.

Thế rồi mới đây anh nhắn tin cho tôi:

       “Bạn xem bài thơ mới đăng, Lời Tỏ Bày Cùng Các Con

       Từ đầu tới cuối, hồn thơ và mạch thơ, có liên tục, cao trào không , thưa ngài”

       Nể lời anh tôi đã gởi cho anh lời nhận xét “xổi” - chỉ viết trong 5 phút – làm cái sườn để trò chuyện (tôi dự định sẽ cùng anh chuyện trò trao đổi thêm nữa).

       Không hiểu sao anh LML đã đăng nhận xét lên FB và nhà bình thơ Châu Thạch đã vin vào đó để viết những lời bình cho bài thơ và nhân tiện lấy cớ chỉ trích tôi.

Tôi chưa hề và cũng sẽ không trách cứ anh Lê Mai Lĩnh về chuyện này. Nhưng dân chơi thơ như anh Châu Thạch mà lại đem những “trao đổi riêng tư bất thành văn” của người ta ra mà “phản biện” thì tệ quá.

Tệ hơn nữa là anh còn viết trong bài “phản biện” của mình:

Những nhận xét trên của nhà phê bình Phạm Đức Nhì đã được nhà thơ Lê Mai Lĩnh đăng công khai trên trang facebook của ông, điều đó có lẽ theo tôi là một cách trả lời khéo léo vừa thâm thúy vừa cao thượng của nhà thơ Lê Mai Lĩnh.

Phát biểu trên của anh Châu Thạch đã chứng tỏ anh không những kém cỏi trong lề thói giao tiếp với bè bạn văn chương mà còn mù tịt về phương cách đối nhân xử thế.

       Kết quả là anh đã nịnh không khéo nên “muốn nâng bi mà thành ra bóp dế”.

       Nhưng nhận xét riêng tư của tôi với anh Lê Mai Lĩnh về khuyết điểm của bài thơ Lời Tỏ Bày Cùng Các Con còn chưa đủ. Nếu nhận xét đầy đủ và cẩn thận, phải như sau đây:

       Ngôn ngữ thô ráp

Câu chỉ diễn nghĩa, không có nét đẹp văn chương.

Câu cuối tệ quá – “giữ làm người” quá dở.

Dùng/ sử dụng - điệp ý vụng về

       Phân mảnh đứt đoạn, tứ thơ không có dòng chảy.

Không có dòng âm điệu

Không có dòng cảm xúc

Không có cao trào

Không có hồn thơ

Lý trí nhiều, ít tình / chỉ có cảm xúc tầng 1, tầng 2 – không có cảm xúc tầng 3

       nghĩa là còn nhiều khuyết điểm hơn nhận xét trước.

       Có một chỗ tôi sai:

Thẳng/ thẳng – không nên gieo “vần nguyên chữ”

       Nhà thơ Trần Thị Cổ Tích chỉ ra và tôi đã nhận sai. “Thẳng/thẳng có chức năng nhấn mạnh, làm câu thơ mạnh hơn.

Dưới bài bình thơ của anh Châu Thạch nhà thơ Trần Thị Cổ Tích có một bình luận như sau:

       Đúng là bài này chỉ như văn xuôi xuống dòng nhưng nhà thơ LML đã có những câu thơ, những bài thơ độc đáo. Tìm đọc trên mạng sẽ gặp.

       Thơ “chỉ như văn xuôi xuống dòng” mà anh Châu Thạch còn cố “tỏ bày sự đồng cảm của mình về một bài thơ mà theo tôi không thể chê” thì không biết kiến thức về thơ của anh đã “trốn” đi đâu mất hết rồi.

Về những khuyết điểm của bài thơ tôi liệt kê trong “nhận xét” ở trên, nếu anh Châu Thạch không đồng ý bất cứ điểm nào, tôi sẵn sàng tranh luận.

Một Bài Thơ Hay Của Lê Mai Lĩnh

       Chẳng cần tìm đâu xa. Tôi đã gặp một bài như thế ngay trong inbox của mình. Anh Lê Mai Lĩnh trước đó đã gởi cho tôi email:

Hai bài thơ ANH HỨA. Và MỘT CHIỀU MƯA Trước đây tôi viết dạng thơ BẢY CHỮ. Nay tôi ngắt nhịp theo thơ TỰ DO. Nhờ bạn xem xem, như thế có ỔN không, có làm cho bài thơ mới hơn không?  Vậy thôi.

Cứ nói thật nhận xét của bạn, đừng e dè gì cả, tôi muốn vậy.

       ANH HỨA

Anh hứa

Sẽ không tiêu của em

Một đồng xu nào

Những đồng nhọc nhằn, chắt chiu

Góp gồm

Nhưng anh sẽ

Rộng rãi

Tiêu đời em

Như dời anh

Anh cho em phóng tay

Thỏa thích .

 

Anh hứa

Sẽ không cầm tay em

Bao giờ

Sợ chạm phải điều linh thiêng

Kỳ diệu

Nhưng anh sẽ

Bóp nát trái tim của em

Vì anh nghĩ

Anh có quyền làm như vậy.

 

Anh hứa,

Sẽ không chạm vào

Thịt đa của em

Sợ tan biến

Vỡ vụn

Khói sương

Nhưng anh sẽ dẫm nát

Cõi lòng của em

Vì anh nghĩ

Anh không thể làm khác được .

 

Anh hứa

Anh sẽ nỗi gió

Cho diều em lên cao

Cho tài năng, nhân sắc em

Lên cao

Nhưng hãy ở lại mặt đất

Cùng anh

Nghe em

Hời trái tim nồng

Người yêu dấu .

Anh Hứa là bài thơ không nhất khí liền mạch, chia làm 4 đoạn lại rất ít vần nên không có dòng âm điệu. Theo lệ thường thì sẽ không có dòng chảy tứ thơ, không có dòng cảm xúc, và dĩ nhiên, không có cao trào, không có hồn thơ.

May mắn cho người đọc thơ, thi phẩm tuy không có lòng sông nhưng lại có 4 cơn sóng tình cực mạnh nối tiếp nhau dâng trào ngay trên mặt đất. Hồn thơ bám theo trắng xóa cả một đoạn đường dài.

Anh Hứa, theo tôi, là một viên ngọc bị dính bùn, phải nói là xuất sắc, đặc biệt cả về tứ thơ, ngôn ngữ, hình tượng, biện pháp tu từ, bố cục, có cả hồn thơ.

Khuyết điểm là có vài chữ sai chính tả, cách “dàn xếp câu chữ” trong đoạn thơ không đẹp, viết hoa đầu dòng bừa bãi và đáng trách nhất là có 2 doạn trùng ý (đoạn 2 và 3)

Nói chung, bài thơ cần nhiều công tu chỉnh, nhưng thành quả sẽ là một thi phẩm có giá trị nghệ thuật cao.

 

Châu Thạch Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp

       Dưới đây là bài bình thơ của Châu Thạch “Đọc Bài Thơ ‘Lời Tỏ Bày Cùng Các Con’ của anh Lê Mai Lĩnh”.

Các con hãy tha thứ cho cha

Vì quá tin đời nên cha lầm lỗi

Các con hãy tha thứ cho mẹ các con

Vì quá tin người nên bị lừa dối

 

Nội, sẽ nuôi các con lớn khôn

Ngọai, sẽ nuôi các con lớn khôn

Các chú, các bác, các cô, các cậu

Sẽ nuôi các con lớn khôn

Sau khi đưa 2 khổ thơ vào bài bình, Châu Thạch viết:

“Đây là hai khổ thơ mang hai nỗi đau, nỗi đau tin người nên sa cơ thất thế, nỗi đau làm cha không nuôi được con mình.” Rồi anh tiếp tục giải thích và tán rộng thêm.

“Bước qua hai khổ thơ kế tiếp, Lê Mai Lĩnh bằng những lời nói đều đều, khô như con mắt ráo hoảnh, nhưng nó chứa trong sự khô đó nhừng lời thiết tha giáo huấn, như của một người cha sắp từ biệt con mình vĩnh viễn trong đời.”

Hãy cho ngoan, dù ăn sắn, ăn khoai

Dù ăn rau, ăn cỏ, cũng nên nhìn thẳng

Dẫu quanh năm không có miếng thịt nào

Cũng phải cố giữ gìn cho thẳng

 

Cố gắng khắc phục nghe các con

Rau cỏ cứ điều vào cho đầy bụng

Khi đau ốm, lấy rễ tranh mà dùng

Trời lạnh rét, lấy rơm mà sử dụng

Và anh tiếp tục tán rộng ý của hai khổ thơ.

“Với hai khổ thơ thứ 5 và thứ 6, người cha dùng lời yêu thương khích lệ con, tạo cho con trong cảnh cơ hàn có một niềm tin vào tương lai được đổi đời”

Cố gắng khắc phục nghe các con

Những khó khăn này chưa hết đâu

Dẫu hy vọng, lạc quan, còn đó

Cũng phải chờ qua hết đêm thâu

 

Cha không muốn các con mù chữ

Ví dù như thế cũng đành thôi

Cha chỉ muốn có điều ngôn ngữ

Phải thế nào cho có lý, hỡi ôi

Khổ thơ chót nhà thơ như truyền lại cho các con tinh thần bất khuất của mình, luôn luôn làm Người viết hoa dầu thân xác phải đọa đày:

Đã hai năm con sống mồ côi

Đã hai năm cha mẹ xa nhà

Xa mẹ xa cha con có biết

Nơi đây cha vẫn giữ làm Người

Rồi tiếp tục tán cho đến hết.

       Đến đây độc giả đã có thể thấy rõ ràng là Châu Thạch chỉ diễn giải tứ thơ chứ không đề cập đến kỹ thuật thơ hay thi pháp gì hết.

 

BÌNH THƠ LÀ GÌ?

       Đọc một bài thơ (để thưởng thức hoặc phê bình) là tìm trả lời của 2 câu hỏi:

       1/ What?

Tác giả viết cái gì? Ngôn ngữ văn chương là nhận biết tứ thơ

2/ How?

Viết thế nào? Đó chính là Phương Cách thi sĩ diễn đạt, chuyển tải Tứ Thơ đến người đọc.

Ngôn ngữ văn chương gọi là Kỹ Thuật Thơ; nếu dùng ngôn ngữ chuyên môn hơn một tý thì gọi là Thi Pháp, còn ngôn ngữ đời thường thì có thể gọi là Tài Thơ cuả thi sĩ.

Như vậy, phải tìm hiểu chữ HOW, phải bàn thi pháp mới biết bài thơ HAY hay DỞ, CÓ HỒN hay KHÔNG CÓ HỒN

Nếu nhà bình thơ (không bàn thi pháp) khen Ý của một đoạn thơ hoặc cả bài thơ HAY thì ok. Đó là quyền của ngài. Nhưng nếu có một chỗ nào đó ngài khen: “Đây là bài thơ HAY (RẤT HAY, XUẤT SẮC, TUYỆT VỜI)” thì đó là những lời nói bừa, nói bậy, nói không có chỗ dựa.

         Đã nói tới giá trị nghệ thuật của BÀI THƠ, đã mở miệng KHEN BÀI THƠ HAY hoặc CHÊ BÀI THƠ DỞ là đã phải xét tới THI PHÁP của bài thơ.

        Dưới đây là một thí dụ về thi pháp của một bài thơ nổi tiếng của Thế Lữ.

       THI PHÁP BÀI THƠ “NHƠ RỪNG”

       1/ Nhất Khí Liền Mạch

       Nhớ Rừng có hình thức Thơ Mới Biến Thể, nhất khí liền mạch, tứ thơ chảy thành dòng rõ rệt. Mỗi câu 8 chữ (ngoại trừ câu “Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” 10 chữ).

       2/ Vần:

       Vần chân liên tiếp, cả bài 47 câu, 23 cặp vần cứ đến hẹn lại lên. Dù tác giả đã sử dụng khá nhiều thông vận nhưng vì bài thơ dài và số chữ trong câu không đổi (8 chữ) nên hội chứng nhàm chán vần khá rõ nét.

       3/ Dòng Âm Điệu:

       Âm điệu du dương chảy thành dòng rõ rệt nhưng đọc khoảng 20 câu thì cảm giác du dương đã thành ngán ngẩm.

       4/ Nhịp Điệu:

       Số chữ không đổi cũng là nhân tố quan trọng làm nhịp điệu đều đều tẻ nhạt.

Thế Lữ viết Nhớ Rừng từ những ngày đầu của Phong Trào Thơ Mới (1936) nên việc tuân thủ luật tắc còn cứng ngắc. Chính điều này đã làm giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ khá nhiều.

       5/ Ngôn Ngữ Hình Tượng:

       Khá dễ hiểu, dễ cảm.

6/ Mô Gò Cản Đường

       Theo tôi, bài thơ có 2 mô gò cản đường:

       a/ Mượn hình tượng của con hổ để bày tỏ tâm sự của mình có một điều hơi kẹt. Khi con hổ thoát cũi về rừng làm Chúa Sơn Lâm nó sẽ là bạo chúa, độc tài, tàn bạo, uống máu ăn thịt thần dân của nó. Liệu những người yêu thơ, khi đọc Nhớ Rừng có tránh được căn bệnh SIDA Nhớ Rừng đó không?

       b/ Câu thơ “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” nói lên tâm trạng tuyệt vọng của con hổ, đã chảy ngược với dòng chảy của tứ thơ – mong ước đến độ khao khát được trở về làm Chúa Sơn Lâm cai quản cánh rừng xưa.

       6/ Vờn Bóng Giữa Sân:

       Câu chữ nối tiếp nhau nhắm “điểm đến của tứ thơ” thẳng tiến – không vờn bóng giữa sân.

       7/ Tâm Thế:

Tháo valve, mở lòng cho tâm sự và cảm xúc tuôn chảy. Tác giả viết trong lúc cao hứng, tâm thế vô cùng phấn khích.

       8/ Dòng Cảm Xúc:

       Dòng chảy của tứ thơ, dòng âm điệu và dòng cảm xúc - cả ba dòng nhập một - cùng hướng về “điểm đến của tứ thơ” thẳng tiến. Cảm xúc tầng 3 (mà đỉnh điểm là hồn thơ) lẽ ra rất mạnh nhưng vì khiếm khuyết trong cách gieo vần và tạo nhịp điệu nên không thể lên đỉnh điểm.

       Hơn nữa, còn có 2 mô gò cản đường nên cũng phần nào giảm bớt sự lớn mạnh của cảm xúc tầng 3.

       Tóm lại, có cảm xúc tầng 3 nhưng chỉ ở mức trung bình. Nói cách khác, hồn thơ chỉ ở mức trung bình.

Một thi phẩm có hồn thơ ở mức trung bình là đã được coi là thành công. Thi sĩ đã đi đúng hướng, tác phẩm chỉ còn một đoạn đường nữa là tới Bến Bờ Thi Ca.

 

       Châu Thạch Khi Bình Thơ Chỉ Nhìn Một Phía

Khi bình thơ Châu Thạch chỉ nhìn về một phía: Tứ thơ. Còn phần thi pháp - để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ thì lờ đi.

Đọc bài bình thơ của Châu Thạch rồi đọc Thi Pháp Bài Thơ “Nhớ Rừng” độc giả chắc cũng nhận ra là anh ta đã bỏ sót nhiều điểm quan trọng - những điểm làm chỗ dựa để kết luận mức độ hay dở của bài thơ, đặc biệt là cảm xúc và hồn thơ.

Nói rõ hơn là anh chỉ “nhìn” bài thơ và đối xử với nó như MỘT BÀI VĂN. Những gì tạo nên tính thơ, chất thơ anh tỉnh bơ tuôn vào sọt rác. Anh đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình.

Châu Thạch đã quy tụ quanh mình một số khá đông người thích và ca tụng lối bình thơ của anh. Họ, qua đọc những bài bình thơ của anh, đã hoặc sẽ trở thành những người đọc thơ, thưởng thức thơ khuyết tật (về mắt). Cũng giống như anh, họ chỉ có thể đưa mắt về hướng tứ thơ, còn quay sang hướng thi pháp hay kỹ thuật thơ thì mắt bị lóa, chẳng nhìn thấy gì.

Lời khen bài thơ hay hoặc chê bài thơ dở thường phát xuất từ cảm tính chứ không có chỗ dựa về học thuật nên rất ít trọng lượng.

 

Châu Thạch Bình Thơ Chỉ Khen Không Chê

Một điểm đặc biệt nữa trong cách bình thơ của Châu Thạch là “chỉ khen, không chê”.

Anh đã bỏ qua một nhiệm vụ quan trọng của người bình thơ:

Người êm ái mạch nước ngầm

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về

(Vân Anh, Mạch Nước Ngầm)

Nghĩa là chỉ ra những sai sót, bất cập của thi sĩ trong bài thơ

Một lần ngồi tán chuyện thơ ca với thằng bạn, hắn bỗng nổi hứng phát biểu:

Đọc những câu thơ hay tao cảm thấy như có một làn hương từ các con chữ bay lên thơm ngát, còn gặp phải những câu thơ “xấu xí” thì mũi cứ như hít cái gì đó nặng mùi, hôi hôi, khó chịu.

Mấy ngày sau tôi “chôm” cái ý đó viết thành:

Nói đến thơ

có câu thơ sang cả

có câu thơ hèn hạ

có câu thơ thẳng như đường đạn, lằn tên

có câu thơ ngả nghiêng, xiêu vẹo

có câu thơ tỏa ngát hương thơm

có câu thơ nực mùi xú uế

có câu thơ ngàn năm còn nhớ

và có rất nhiều câu thơ viết để rồi quên

(Nếu Thi Sĩ Chết)

Lối bình thơ chỉ khen không chê của Châu Thạch – không biết vô tình hay cố ý – đã bắt người thưởng thức thơ, bên cạnh những làn hương thơm ngát, không ít thì nhiều phải “hít cái gì đó nặng mùi, hôi hôi, khó chịu”.

Nếu bình thơ có khen, có chê thì độc giả còn biết đường chọn “những làn hương thơm ngát” ngửi chơi, còn “cái gì đó nặng mùi, hôi hôi, khó chịu” thì bỏ đi.

Đọc những bài bình thơ của Châu Thạch độc giả cứ phải hít cái mùi hôi hôi, khó chịu từ bài bình này qua bài bình khác, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác mà không biết. Đến một lúc nào đó có người hiểu chuyện hỏi tới thì trả lời:

“Tui đọc cả trăm bài thơ được ông Châu Thạch bình mà có thấy hôi hám gì đâu.”

Họ không biết Châu Thạch, bằng tài năng của mình, đã tạo cho họ thói quen ngửi “mùi hôi trong thơ” mà không còn thấy hôi nữa. “Hửi Hoài Hửi Hủy Hết Hôi”. Vâng! Đó là phương cách của Châu Thạch. Mũi họ đã mất khả năng phân biệt. “Thơm hôi gì cũng giống nhau ráo trọi”.

Một Thủ Thuật Thiếu Lương Thiện

Châu Thạch viết:

Qua sự nghiệp văn thơ lẫy lừng của nhà thơ Lê Mai Lĩnh, với trình độ thơ cổ thụ trên thi đàn, Lê Mai Lĩnh không thể làm một bài thơ “Ngôn ngữ thô ráp, câu chỉ tả nghĩa, không có nét đẹp văn chương, dòng âm điệu cà nhắc…” mà ông không biết, lại dám đăng công khai bài thơ dỡ như thế trên mạng. Phải chăng người chê bài thơ của Lê Mai Lĩnh cố ý hiểu sai thơ ông, hoặc quá chủ quan về tài thẩm thấu thơ của mình mà không chịu đắn đo, vội vàng phê phán?

Đánh giá chất lượng một sản phẩm công nghệ người ta có thể nói:

“Công ty X nổi tiếng về mặt hàng này nên cứ yên tâm - sản phẩm của họ luôn có chất lượng cao”.

Thơ không sản xuất theo quy trình công nghệ nên không thể phát biểu kiểu ấy được.

Vì thế bình thơ phải dựa vào văn bản, chữ nghĩa của bài thơ trước mặt mình mà bình, mà tán.

Nhà bình thơ có thể - nhiều khi là cần thiết – mô tả khung cảnh xã hội thi sĩ đang sống lúc sáng tác bài thơ, hoàn cảnh gia đình, tình yêu, hôn nhân, bè bạn … để độc giả hiểu và cảm thông được những tâm tình do hoàn cảnh phát sinh ra, và nhờ đó tiếp cận tứ thơ dẽ dàng hơn.

Nhưng lấy “sự nghiệp văn thơ lẫy lừng của nhà thơ” trong quá khứ làm chỗ dựa cho những lời khen quá lố của mình (về bài thơ) là đã bước qua ranh giới giữa lương thiện và bá đạo, thường không được giới phê bình chấp nhận. Phải sử dụng đến chiêu thức ấy chỉ chứng tỏ sự thiếu tự tin của người bình thơ và trong tâm hồn của ngài không có chỗ cho hai chữ Fair Play cư ngụ.

Tương tự như vậy, cũng không thể nói một thi sĩ “với trình độ thơ cổ thụ trên thi đàn” như anh Lê Mai Linh thì không thể không nhận biết những bất cập, thiếu sót trong bài thơ của mình.

Chỉ cần đọc bài thơ ANH HỨA của Lê Mai Lĩnh ở phần trên là đã có câu trả lời. Một bài thơ có nhiều ưu điểm như thế mà lại có 2 đoạn thơ - một “bóp nát trái tim của em”, một “dẫm nát cõi lòng của em” – trùng ý hết sức nặng nề, mà cho đến khi gởi bài thơ cho tôi tác giả vẫn còn chưa nhận ra để sửa chữa.

Đó là còn chưa kể những khuyết điểm nhỏ khác nữa.

Trường hợp “bài thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn (1) của nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo có thể nói là một thí dụ đặc biệt trong làng thơ Việt Nam.

Trong Đồng Dao Cho Người Lớn không có “cái tôi riêng tư” đối diện với cảnh thơ mà chỉ là tập hợp “hổ lốn” những câu nói, những phát biểu nặng chất lý trí của nhà thơ, xếp đặt tùy tiện, không theo một cấu trúc hay một thế trận nào. Mỗi phát biểu là một “triết lý vụn” về một khía cạnh nào đó của cuộc đời.

Nhà thơ đã quên tạo ra một khung cảnh để mời tâm hồn của mình bước vào cho “tâm đối cảnh” và “tức cảnh sinh tình”. Vì thế ĐDCNL nếu không gọi là Vè thì cũng là một cây dị chủng trong vườn thơ, không đủ điều kiện để được gọi là thơ.

Thế nhưng dân chơi thơ Việt Nam vẫn không biết, vẫn tán thưởng và còn trao tặng ĐDCNL nhiều phần thưởng cao quý:

1/ Được nhạc sĩ Đỗ Triệu An phổ nhạc.

2/ Được lấy tên đặt cho cả một tập thơ cùng tác giả

3/ Được ít nhất 3 người viết lời bình khen ngợi. (Đỗ Trọng Khơi, Trần Kim Lan và Trần Trung) 

4/ Được chọn là một trong 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ 20.

5/ Bài do Trần Trung viết lời bình được đưa vào tập Bình Thơ Từ 100 Bài Thơ Hay Thế Kỷ XX - Tập Hai

Đến đây độc giả có thể thấy anh Châu Thạch đã phát biểu kiểu “ăn ốc nói mò”. Mà lại ăn hơi nhiều ốc nên sai rất nặng.

 

KẾT LUẬN

“Không Bàn Thi Pháp”, “Chỉ Khen Không Chê” - hai thương hiệu đặc biệt của nhà bình thơ Châu Thạch - đã gây tai hại không nhỏ cho “làng thơ” Việt Nam. Một số bạn đọc gần gũi anh, quý mến cách bình thơ của anh, như đã giải thích ở trên, đã hoặc sẽ dần dần trở thành những người thưởng thức thơ khuyết tật.

Không biết anh Châu Thạch có nhận ra là mình “tay đã nhúng chàm” hay không? Có nghĩ đến việc “làm gì đó” để chuộc lại lỗi lầm, “cải thiện tình hình” hay không? Hay vẫn cứ tiếp tục con đường cũ, làm hoen ố tâm hồn lớp trẻ yêu thơ Việt Nam?

Chúng ta hãy chờ xem.

 

PHẠM ĐỨC NHÌ

nhidpham@gmail.com

              phamnhibinhtho.blogspot.com

 

       CHÚ THÍCH:

       1/ http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/07/ve-bai-tho-ong-dao-cho-nguoi-lon.html

Đăng theo nguyên bản của tác giả

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét