Thứ Ba, 16 tháng 10, 2018

HAI BÀI THƠ NÓI VỀ THỜI LÀM QUAN VÀ KHI VỀ CHÍ SĨ CỦA CỤ TIẾN SĨ ĐẶNG XUÂN BẢNG / Lê Văn Hy




         Đó là bài thơ “Giữ mực thanh liêm” và “vui thú nhà nông” rút trong 10 bài thơ hay của cụ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng: Cảm hứng, Đề động Bích Đào Nga Sơn, Đề núi Dục Thúy, Đề núi Hàm Rồng, Đề núi Phật Huỳnh, Đêm nghỉ ở Thanh Hóa, Giữ mực thanh liêm, Ngẫu hứng, Vui thú nhà nông và Tợ Vịnh.
        Bài thơ Giữ mực thanh liêm nói về việc làm quan ở thời phong kiến.

        Vốn là người đã từng “Quan trong năm bẩy bận, quan ngoài tám chín phen”. Như khi thì làm Giám sát Ngự sử ở trong triều đình Nguyễn, khi thì làm quan Bố chính ở tỉnh Tuyên Quang, làm Tuần phủ các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương nên cụ hiểu việc làm quan từ chân tơ kẽ tóc. Làm quan cũng có năm bảy loại, có người giữ được đạo đức, thương dân thì là quan thanh liêm, có người là quan tham thì cậy quyền làm điều thất đức vơ vét của dân để vinh thân phì gia.
        Chớ nghĩ là quan đã bảnh bao
        Yêu nhau một giống nghĩa đồng bào
        Bới lông tìm vết lòng không nỡ
        Giục bị xui nguyên tộ biết bao
        Cụ đã vạch ra lũ sai nha lòe dân, lũ cường hào nịnh hót theo đóm ăn tàn, dựa thế quan trên để sách nhiễu dân:
        Dấu đỏ lòe dân trò lính lệ
        Môi thâm hót nhảm lũ cường hào
        Viết đến đây tôi bỗng nhớ lại trong sách giáo khoa tiểu học thời trước Cách mạng tháng Tám có bài tập đọc nói về một ông quan thanh liêm khi về chí sĩ nhà vẫn nghèo. Bà vợ thường phàn nàn về nỗi nhà nghèo, ông cười mà nói rằng: “Bà không nhớ khi xưa ta phải đi cắt cỏ trâu, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc hay sao. Nay được như thế này bà còn đòi gì nữa. Lại còn muốn lấy của phi nghĩa để làm giàu ư?”…
        Bao nhiêu năm làm quan dưới chế độ phong kiến, cụ hiểu rõ quan lại đồng liêu với cụ, người thanh liêm thì ít, người chuyên mánh lới vơ vét của dân thì không phải ít. Cái mánh khóe lòe bịp dân để kiếm tiền (ở đây cụ gọi là xu) của họ không phải cụ không biết, nhưng nghĩ thương dân mà không nỡ lấy của dân, như hai câu thơ ở trên. Còn hai câu kết của bài thơ lại khẳng định lại một lần nữa:
        Kiếm xu không phải mình không thạo
        Bắt nạt dân đen có thế nào
        Cụ Đặng Xuân Bảng là người có tuổi thọ cao (1828 – 1910), 83 tuổi, ở cái thời “Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm” mà thọ đến như cụ đã là cao lắm. Vì thế cụ có thời gian làm quan khá lâu, thời gian về chí sĩ cũng nhiều. Vốn xuất thân trong một gia đình nông thôn làng Hành Thiện Nam Định, cụ hiểu nhiều về nông dân, những người trồng dâu nuôi tằm, cấy lúa ngoài đồng, trồng cây trong vườn. Bài thơ “Vui thú nhà nông” đã thể hiện rõ điều đó.
        Cụ nhận rõ ở thời cụ đã có nhiều nông dân giầu lên về sự chăm làm cày sâu cuốc bẫm, cấy lúa ngoài đồng và chăm lo vườn cây ao cá.
        Kể chi ao cá với vườn rau
        Cầy cấy siêng năng cũng đã giầu
        Cụ ca ngợi cảnh đẹp ở nông thôn: Đỏ rỡ bên đê hàng lúa bắp/ Xanh rì bãi cát mấy ngàn dâu. Cụ ca ngời tiềm năng của đất đai đồng ruộng “tấc đất tấc vàng”. Cụ còn vận dụng ca dao tục ngữ, ngạn ngữ viết lên hai câu thơ nối tiếp của bài thơ:
        Ơn trời đổ xuống mưa như mỡ
        Lộc đất đùn lên ruộng cũng mầu
        Hai câu kết của bài thơ ca ngợi thú vui của nhà nông, đặc biệt là thú vui làm vườn, trồng cây ăn quả, trồng rau để mùa nào thức ấy cung cấp nguồn thực phẩm cho cuộc sống:
        Phong vị điền gia coi cũng thú
        Mùa nào thức ấy chuối cam rau.
        Hai bài thơ “Giữ mực thanh liêm” và “Vui thú nhà nông” là hai bài thơ thất ngôn bát cú, rất chuẩn xác trong Luật thơ Đường về nội dung là tính hiện thực có tầm khái quát rộng lớn, ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Lê Văn Hy
Lê Xá, thị trấn Mỹ Lộc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét