Tiếc Thương Hòa thượng Thiền sư Thích Tuệ Sĩ viên tịch chiều 24.11.2023. Trong niềm suy niệm về Tuệ Sỹ khi Thầy vừa tạ thế, chúng ta hãy cùng thắp nén hương cầu nguyện cho linh thức của Người được siêu thoát.
Trong quyển “ĐI VÀO CÕI THƠ”, Bùi Giáng viết
về Tuệ Sĩ:
“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông
viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô
cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn
thơ thâm viễn u u...
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ
chữ Hán của ông:
Thâm
dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện
tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp
cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải
tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai
rai thử viết:
Thâm
dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện
tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu
bồng tâm sự tân toan lệ
Trí
Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy
thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà
sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ
Việt phi phàm? Một bài thơ “KHÔNG ĐỀ”
của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ”.
*
Có lẽ Bùi Giáng là người
phát hiện và bình bài thơ KHÔNG ĐỀ này đầu tiên trong tập 1, ĐI VÀO CÕI THƠ.
Thế mà, bỗng dưng bài
thơ biến cái tên thành KHUNG TRỜI CŨ và từ ngữ CUNG TRỜI trong bài thơ lại biến
thành KHUNG TRỜI.
“Cung
trời” như là một cõi trời, một cảnh giới còn “khung
trời” chỉ là một không gian bị hạn chế. bị đóng khung…
CUNG TRỜI trong Phật
giáo được biết qua sáu cõi, đó là:
1. Tứ thiên vương
thiên.
2. Đao lợi thiên.
3. Dạ ma thiên.
4. Đâu Suất thiên.
5. Hóa Lạc thiên.
6. Tha hóa tự tại
thiên.
6 “cung trời” đã nêu ở trên thuộc về Dục giới. Ngoài ra còn có Tam
thanh thiên giới, Phạn Thiên giới, Vô sắc giới, Sắc giới nữa, gồm tất cả 36
cung trời.
Xin chỉ đề cập vài CUNG
TRỜI nhiều người biết:
- Cung Trời Đao Lợi:
Đây là phẩm mở đầu của
Kinh Địa Tạng. "Đao Lợi" là
tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "tam
thập tam", tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Tuy gọi là cõi trời "Ba Mươi Ba", nhưng đó không
phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ
hai, rồi đến tầng trời thứ ba,... cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Cõi trời Ba
Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này
thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân
bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba
Mươi Ba là Đế Thích. Trong Kinh A Di Đà có nói đến "Thích Đề Hoàn Nhân", tức là vị Đế Thích này vậy. Ngoài
ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam
Mô Nhân Đà La Da", thì Nhân Đà La Da cũng chính là Thiên Chủ Đế Thích.
Ở cõi trời thì Đế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một
vị Hộ Pháp.
- Cung trời Dạ Ma:
Dạ Ma thiên (夜摩天)là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời
cõi Dục. Cũng gọi Diệm ma thiên, Viêm ma thiên, Tu viêm thiên, Li tránh thiên,
Tô dạ ma thiên (Phạm, Pàli: Suyàma), Tu dạ ma thiên.
Cung trời Dạ Ma là cõi
trời này ánh sáng rực rỡ, không chia ngày đêm, người ở cõi trời này lúc nào
cũng yên vui sung sướng không thể nghĩ bàn. Hơn nữa, theo luận Chương sở tri
quyển thượng nói, thì tầng trời 33 (trời Đao lợi) thường đánh nhau với A tu la,
nhưng cõi trời Dạ ma thì xa lìa sự tranh đấu, vì thế gọi là Li tránh thiên.
Chúng sinh được sinh vào cõi trời này là nhờ đời trước thích tu các hạnh không
giết hại, không trộm cướp, không gian dâm v.v..., tự mình giữ giới, lại khuyên
người giữ giới, làm các việc lợi ích cho mình và người. Dạ ma là tầng trời đầu
tiên (thấp nhất) trong các cõi trời ở trong hư không
- Cung trời Đâu Suất:
Đâu suất thiên 兜率天 thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ
là Tri-túc thiên có nghĩa là:
Tusita (skt)—Đâu Suất Đà—Tầng trời Đâu Suất, cõi trời
Tri Túc hay cõi Tịnh Độ của Đức Di Lặc, nơi mà chư Bồ Tát tái sanh vào trước
khi sanh vào cõi Phật
Cung trời Đâu Suất xuất hiện rất nhiều trong Kinh
Quán Di Lặc Bồ tát thượng sanh Đâu Suất.
Theo từ điển Phật học
Hán Việt của nhà nghiên cứu Đoàn Trung Còn, từ Đâu Suất, Đâu Suất Đà có nghĩa
là Tri Túc, Hỷ Túc, Diệu Túc, Thượng Túc.
Trước kia, Đức Thích Ca
Mâu Ni chưa thành Phật, thì làm Bồ tát Hộ Minh ngự nơi Cung trời Đâu Suất. Chừng
ngài từ giã cung Đâu Suất mà xuống trần làm Phật thì ngài phó chúc lại cho đức
Di Lặc, dặn đức Do Lặc kế tiếp ngài nơi cung ấy mà giáo hóa chư Tiên và chư Bồ
Tát.
- Cung Trời Hóa Lạc:
Hoá lạc thiên (化樂天) Phạm: Nirmàịarati-deva. Dịch âm: Ni ma
la thiên, Duy na la nê thiên. Cũng gọi Hóa tự tại thiên, Hóa tự lạc thiên, Bất
kiêu lạc thiên, Lạc vô mạn thiên, Vô cống cao thiên, Lạc biến hóa thiên. Tầng
trời thứ 5 trong 6 tầng trời cõi Dục, tức là tầng trời ở dưới cõi trời Tha hóa
tự tại và ở trên cõi trời Đâu suất. Vì người cõi trời này tự biến hóa ra 5 trần
cảnh để vui chơi, cho nên gọi là Hóa tự lạc.
Cung Trời Hóa Lạc thiên
cao hơn cung Trời Đâu Suất một bậc. Một ngày ở đây bằng 800 năm ở cõi người,
chúng sinh ở đây có thọ mạng trung bình 8000 năm. Thân của chúng sinh ở đây
phát sáng. Nam nữ ở đây cười với nhau là nữ thụ thai và trẻ con sinh ra trên đầu
gối, nghĩa là hóa sinh, không phải thai sinh. Trẻ con vừa sinh ra đã bằng cỡ trẻ
con loài người 12 tuổi.
Cung trời này cùng với
các cung Dạ ma, Đâu suất, Tha hóa tự tại đều có 3 việc thù thắng hơn cõi Diêm
phù đề là: sống lâu, xinh đẹp và vui thú.
*
Trong 2 câu thơ Bùi
Giáng làm nối tiếp thơ Tuệ Sĩ:
“Phiêu
bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí
Hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Cụm từ “Trí Hải đa tàm” được hiểu như thế nào
đây?
- Cách hiểu thứ nhất:
“Đa” 多 nghĩa là “nhiều”
“Tàm”
蚕 nghĩa là “con tằm /
lông mày”
“Đa
tàm” 多蚕 nghĩa là “nhiều lông
mày”, “lông mày dày, rậm”
Trí Hải là tên ni cô được
Bùi Giáng nhắc đến hai lần trong lời kể ở trên, nên cụm từ “Trí Hải đa tàm” có nghĩa là “Trí
Hải nhiều lông mày, lông mày Trí Hải dày, đẹp”
Đây chỉ là lời đùa cợt
cho vui của Bùi Giáng. Mà Bùi Giáng đã từng đùa gọi ni cô Trí Hải là “mẫu thân Phùng Khánh” đó thôi:
“Trí Hải Ni Cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi
tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ
ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi.
Sự
tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.
Phùng
Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của
tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng
phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?
Phân
tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của
tôi.
Huống
nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng,
Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên
Thy Sỹ.
Ai
đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả
đấy?
Mỗi
phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát
ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là
do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.
Tôi
suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới
dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu
dám bốc đồng mà gọi bướng!”
(Trích: Bùi Giáng
Thi Ca Tư Tưởng - Saigon 1969)
Cho nên, 2 câu thơ
“Phiêu
bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí
Hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Trí Hải viết hoa, tức
là ám chỉ tên của ni cô.
Có thể hiểu là:
“Nỗi lòng xôn xao nước
mắt chua cay rơi
Nhìn đôi mày đẹp của Trí Hải làm tâm hồn rối
như tơ.”
Tâm
sự lâng lâng, dòng lệ chua cay
Trí
Hải mày tằm, trúc rối như tơ
Phải chăng “Trí Hải đa tàm”,Trí Hải mày tằm với
nhan sắc như thế đã lắm phen làm Bùi Giáng “mơ
màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn
ra ào ào”.
- Cách hiểu thứ hai:
TÀM 惭 nghĩa là hổ thẹn
Trí hải 智海
nghĩa là “biển trí”
Đa tàm多慚
nghĩa là hổ thẹn nhiều (trước, với)
“Trí
hải đa tàm” nghĩa là “hổ thẹn nhiều trước biển trí”
Câu “trí hải đa tàm trúc loạn ty” có thể hiểu
là “Biển học mông mênh (trí hải) làm thẹn lòng rất nhiều vì đầu óc mình không
minh mẫn (rối loạn)”
Trở lại 2 câu thơ đầu của Tuệ Sĩ
“Thâm
dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi”
Tuệ Sĩ đang nói về triết
lý Nghiệp / Karma. Nghiệp thiện ác đã gieo, bây giờ (hiện tiền) tác giả bâng
khuâng với “bóng nghiệp” nên trước mắt còn thấy liễu rớt hoa bay.
Nên hai câu thơ:
“Phiêu
bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí
hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Có nghĩa:
Tâm
sự bâng khuâng, dòng lệ chua cay
Hổ
thẹn với ‘biển trí’ (vì chưa ngộ được), rừng trúc rối như tơ.
Hiểu như vậy thì bài tứ
tuyệt “Vô đề” ý mới liền mạch được.
Quý bạn nghiêng về cách
giải thích nào nhỉ!
*
Xin dẫn những bài thơ có dùng chữ Đa tàm多慚 nghĩa là hổ thẹn nhiều
Thơ Trần Tung:
Đa
tàm thân trọc phùng thời trọc,
Tiểu
tại tâm thanh ngộ quốc thanh.
(Thoái cư-Ẩn cư)
Dịch:
Thân
đục thẹn sinh thời buổi đục,
Lòng
trong may gặp nước nhà trong.
Thơ Kiều Nguyên Lãng:
Thượng
quốc ân thâm tình dị cảm,
Tiểu
bang tục bạc lễ đa tàm.
(Tống Bắc sứ Ma Hợp)
Có nghĩa:
Ơn
thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người,
Phong
tục nước nhỏ đơn giản, thẹn lễ nghi có phần sơ suất.
Thơ Trần Nhân Tông:
Nhất
thị đồng nhân thiên tử đức.
Sinh
vô bổ thế trượng phu tàm.
(Họa Kiều Nguyên Lãng Vận)
Có nghĩa:
Thương
yêu mọi người như nhau là đức của Vua,
Sống
mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.
Bùi Giáng viết nhiều tùy bút văn học, đặc
biệt là tùy bút về thi ca.
Thơ
của các thi sĩ được Bùi Giáng cảm nhận theo một phong cách riêng “rất Bùi
Giáng” thật dí dõm. Tuệ Sĩ là nhà thơ đầu tiên được Bùi Giáng bình thơ trong tập
ĐI VÀO CÕI THƠ. Bùi Giáng viết cảm nhận thơ như người bạn tri âm đồng điệu và
bài TUỆ SĨ của ông để lại những “dư vang nghệ thuật” trong lòng người đọc.
La
Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét