Trong một lần trà dư tửu hậu của anh em văn nghệ chúng tôi, khi đề cập đến “Đằng Vương Các Tự” của Vương Bột thấy nhiều trang mạng ghi:
“Lạc
hà dữ CÔ LỘ tề phi
Thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
(Vương Bột)
Nhiều
người gật gù khen, nhưng một số anh em khác không đồng ý, họ cho rằng gọi CÔ LỘ
là không đúng từ dùng của nhà thơ Vương Bột mà phải là CÔ VỤ mới đúng.
“Lạc
hà dữ CÔ VỤ tề phi
Thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
(Vương Bột)
Thế
là là có cuộc tranh cãi vui nhộn. Mọi người đều cùng truy cập internet, kết quả
tìm được thì CÔ VỤ và CÔ LỘ đều có cả, mà CÔ LỘ được tìm thấy nhiều hơn mới chết
chứ!
Tôi
nghiêng về ý kiến CÔ VỤ mới đúng là từ của Vương Bột dùng. Ngoài những trang mạng
có độ tin cậy cao vì có nguyên bản chữ Hán, dịch ra nghĩa đen và dẫn thơ dịch của
các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng như, Thơ Đường – Thời kỳ Sơ Đường (618-712),
Trang thơ Vương Bột... tôi còn tìm đọc thêm sách viết về Vương Bột in trước
1975.
Trang thơ Vương Bột... tôi còn tìm đọc thêm
sách viết về Vương Bột in trước 1975.
落霞與孤鶩齊飛,
秋水共長天一色。
Lạc
hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Xem
2 câu thơ viết bằng chữ Hán ở trên, ta thấy CÔ VỤ được ghi là: 孤鶩
Xin
dẫn vài đường links:
-
Trang thơ Vương Bột:
https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-B%E1%BB%99t/author-_ZqxSvkbsUwNbnMEINI85Q
-
Vương Bột, Đằng Vương các tự:
-
Thơ Đường – Thời kỳ Sơ Đường
https://tamdiepblog.wordpress.com/2022/03/21/tho-duong-thoi-ky-so-duong-618-712/#_Toc100157393
Một
số bài thơ chữ Hán khác có sử dụng từ CÔ VỤ:
•
Đăng Đằng Vương các 登滕王閣
(Lê Trinh)
Ngạn
chỉ đinh lan thanh nhiễm nhiễm,
Lạc
hà cô vụ ảnh phiên phiên.
•
Trấn Quốc lâu vọng Tây Hồ鎮國樓望西湖
(Ngô Thì Sĩ)
Lạc
hà cô vụ hồ thiên khoảnh,
Xích
luyện tùng hoa lộ sổ điều.
Và
từ những đường links cho ra từ CÔ LỘ, tôi tìm không thấy những câu chữ Hán minh
họa cho 2 câu đã nêu hoặc cho cả bài “Đằng Vương các tự”.
Nhưng
vì sao, từ nguyên tác CÔ VỤ lại bị biến đổi thành CÔ LỘ? Mà “cô lộ” lại phổ biến
hơn?
Vì
trong từ Hán Việt, LỘ 鷺 là
con cò, còn VỤ 鶩 lại
là con vịt trời (dã áp 野鴨).
Khổ
một nỗi, các dịch giả Việt Nam đã chuyển ngữ “cô vụ” là “Chiếc cò, cánh cò cô lẻ”
nên gây nhầm lẫn trong trí nhớ của một số người, khi họ đọc câu thơ Hán Việt
theo hồi ức, bỗng dưng biến thành “Lạc hà dữ cô LỘ tề phi”.
Thơ
Nguyễn Công Trứ viết về Con cò (Lộ):
Lộ
diệc vũ trùng trung chi nhất *
鷺亦羽蟲中之一
*
(Cò cũng là một trong những loài có lông vũ)
*
“Lạc
hà dữ CÔ VỤ tề phi
Thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
(Vương Bột)
Hai
câu thơ trên được các dịch giả Việt Nam chuyển ngữ như sau:
-
Trần Trọng San dịch:
Ráng
chiều rơi xuống, cùng CÁI CÒ đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời
kéo dài một sắc.
-
Mai Lăng dịch:
Ráng
chiều CÒ LẺ cùng bay,
Nước
thu trời rộng là đây, một màu.
-
Đinh Vũ Ngọc dịch:
Ráng
chiều CÒ LẺ cùng bay
Nước
thu xanh biếc chung màu trời xanh
-
Tạ Trung Hậu dịch:
Ráng
chiều và NHẠN LẺ cùng bay
Nước
biếc với trời dài một sắc
-
Một dịch giả tôi không nhớ tên đã dịch:
Chiếc
CÒ cùng với ráng sa
Sông
thu cùng với trời xa một màu
-
Hoài Thanh bình thơ:
“Từ
cánh CÒ của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không
bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới” (Thi
nhân Việt Nam)
*
落霞與孤鶩齊飛,
秋水共長天一色。
Lạc
hà dữ cô vụ tề phi,
Thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Lạc
hà là ráng chiều buông xuống, cô vụ tề phi là con vịt trời cô đơn đang cùng
bay. Thu thuỷ là sông nước mùa thu, trường thiên nhất sắc là trời rộng mênh
mông, chỉ có một màu.
Con
vịt trời cô đơn này không lẽ cũng là chú Uyên Ương gãy cánh của Kahlil Gibran
đang trải mối sầu lẻ bóng vào ráng chiều?
Từ
việc tìm hiểu CÔ VỤ và CÔ LỘ, tôi miên man đọc đến Đằng Vương Các Tự của Vương
Bột. Ôi chao, cái ông thi sĩ thời Sơ Đường này, ông đã lưu dấu ấn lại trong
truyện Kiều của Nguyễn Du qua một câu thơ điển tích thật hay:
“Duyên
Đằng thuận nẻo gió đưa”
(Kiều)
Và
trong một câu thơ điển tích khác cũng thật hay của Tô Đông Pha:
“Thời
lai phong tống Đằng Vương Các”
Hai
câu thơ điển tích của hai nhà thơ lớn ấy bắt nguồn từ giai thoại:
“Con
của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng
Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm
Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân
khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà
quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một
bài tự ngay bữa tiệc.
Vương
Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy
trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn
thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho
thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc
thi tài văn học xảy ra, bài Đằng Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải”
*
Bài
“Đằng Vương Các tự” viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển
khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp mà rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa
lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc,
phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của
chính mình.
Trong
văn nghiệp sáng rực của một cuộc đời ngắn ngủi, tác phẩm làm cho tên tuổi Vương
Bột trở nên bất tử lại chỉ là hai câu thơ tả cảnh tuyệt bút, cùng một đoạn thơ
tám câu ở cuối bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu thơ tả cảnh tuyệt tác đó là:
“Lạc
hà dữ cô vụ tề phi
Thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
Hai
câu thơ tuyệt bút ấy lại bị người đời sau cho là thừa chữ “dữ”, “cộng” (“dữ, cộng”
cùng nghĩa “với”, “cùng”). Nếu bỏ hai chữ
này thì càng tuyệt hơn, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí.
Đằng
Vương các tự 滕王閣序 là bài tự về gác Đằng Vương.
Vì
TỰ 序 có nghĩa:
1.
thứ tự
2.
bài tựa, bài mở đầu
Cho
nên ta có thể nói “Đằng Vương Các Tự” là bài giới thiệu về gác Đằng Vương.
“Đằng
Vương Các Tự” thường được gọi tắt là “Đằng Vương Các”. Gọi tắt như vậy để phân
biệt với “bài thơ Đằng Vương Các”. Cái gọi là “bài thơ” Đằng Vương Các, thật ra
chỉ là đoạn thơ cuối cùng trong bài Đằng Vương Các Tự. Tuy chỉ là một đoạn thơ,
một bộ phận trong bài Đằng Vương Các Tự, nhưng 8 câu thơ cuối thật hay, nhất là
4 câu cuối. Nếu tách riêng ra thì 8 câu thơ này là một bài thơ hoàn chỉnh. Vì vậy,
nó được nhiều văn nhân thi sĩ tán dương và ngâm ngợi. Tám câu thơ cuối bài còn
được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và trở nên “bài thơ Đằng Vương Các” và
cụm từ “vật hoán tinh di” (vật đổi sao dời) được sử sụng như thành ngữ. Mời thưởng
thức!
ĐẰNG VƯƠNG CÁC
Đằng
Vương cao các lâm giang chử
Bội
ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa
đống triêu phi Nam phố vân
Châu
liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn
vân đàm ảnh nhật du du,
Vật
hoán tinh di kỷ độ thu
Các
trung đế tử kim hà tại?
Hạm
ngoại Trường giang không tự lưu.
DỊCH:
Gác
Đằng cao ngất bãi sông thu,
Ngọc
múa vàng gieo nay thấy đâu?
Nam
Phố mây mai quanh nóc vẽ,
Tây
Sơn mưa tối, cuốn rèm châu
Đầm
nước mây vờn ngày tháng trôi,
Mấy
phen vật đổi với sao dời.
Con
vua thuở trước giờ đâu tá ?
Sông
lớn hoài hiên luống chảy hoài.
(Tương Như dịch)
Sau
khi trao đổi, phân tích, so sánh các bạn văn nghệ chúng tôi cuối cùng nhất trí
CÔ VỤ mới là từ ngữ đúng trong bài Đằng Vương Các Tự của Vương Bột. Còn CÔ LỘ
là từ ngữ bị hiểu chệch đi cần được đính chính.
La Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét