Thứ Ba, 10 tháng 1, 2023

VÀI NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG TRUYỆN KIỀU / Phạm Đức Nhì

 


    

 

Lời Nói Đầu  

Nhận xét về vần luật trong Truyện Kiều dễ dẫn đến tranh luận. Mà đề tài tranh luận ngoài chuyện đúng sai có tính học thuật cũng thường khi liên quan đến độ khả tín của văn bản cũng như uy tín của người khảo dị và hiệu đính.

Bài viết này dựa vào 2 bản nôm Truyện Kiều Liễu Văn Đường (Kiều 1866 và Kiều 1871) được ông Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị. Ông Nguyễn Quảng Tuân cũng kết hợp với 3 bản nôm khác - Kiều 1870, Kiều 1872 và Kiều 1902 - để cho độc giả một “dụng cụ” tra cúu rất tiện lợi, có thể so sánh từng câu giữa 5 bản Kiều”.

Ngoài ra ông cũng có trong tay bản Kiều 1874 do Đàm Quang Hưng sưu tầm nhưng chưa kết hợp với 5 bản Kiều trên.

Sau đây là danh sách 6 bản nôm Truyện Kiều được dùng làm tư liệu tham khảo:

 

Kiều 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

Kiều 1870
Bản Kinh đời Tự Ðức
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2003)

 

Kiều 1871
Bản Liễu Văn Ðường
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2002)

 

Kiều 1872
Tư liệu Truyện Kiều: Bản Duy Minh Thị
Nguyễn Tài Cẩn (Moskva)
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2002)

 

Kiều 1874
Tăng Hữu Ứng chép tay: Tự Ðức Giáp Tuất
Ðàm Quang Hưng sưu tầm, Huế
Bs Nguyễn Huy Hùng—Texas, Mỹ (2002)

 

Kiều 1902
Bản Kiều Oánh Mậu
Sưu tầm, khảo chú & chế bản Nôm: Nguyễn Thế & Phan Anh Dũng
Hiệu đính chữ Nôm: Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng.
Nxb Thuận Hoá — Huế 2004

  

Tóm Tắt Luật Bằng Trắc Của Lục Bát Chính Thống

 

Mời độc giả đọc đoạn thơ lục bát dưới đây:

 

Hôm qua chồng em về nhà

Dòm lui dòm tới rồi ra ngoài đường

Dáng đứng thểu não đáng thương

Muốn gọi, chợt nghĩ đến chàng lại thôi

 

Cặp lục bát đầu có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4 câu bát) vần trắc. Mười chữ còn lại có thể đều là vần bằng.

 

Cặp lục bát thứ hai cũng có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4 câu bát) vần trắc. Mười chữ còn lại có thể đều là vần trắc.

 

Chữ thứ 6 câu bát (ra) thanh ngang thì chữ thứ 8 câu bát (đường) thanh huyền.

Chữ thứ 6 câu bát (chàng) thanh huyền thì chữ thứ 8 câu bát (thôi) thanh ngang

 

 Từ đó tôi đã rút ra kết luận ngắn gọn rằng: Để làm thơ lục bát đúng luật chỉ cần:

 

1/ Chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát vần bằng; chữ thứ 4 câu bát vần trắc. Mười chữ còn lại bằng trắc tự do.

 2/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh bằng và ngược lại.

 

Truyên Kiều Tuân Thủ Luật Bằng Trắc Rất Nghiêm Chỉnh

 

Sau khi đã đọc kỹ từng câu trong 3254 câu của Truyện Kiều tôi nhận thấy tác phẩm được viết theo thể lục bát chính thống.

 

1/ Chữ thứ 4 của 1627 câu bát đều vần trắc.

2/ Chữ thứ 6 của 1627 câu lục đều vần bằng.

3/ Chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của 1627 câu bát đều vần bằng.

4/ Trong cả 1627 câu bát, nếu chữ thứ 6 thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh bằng và ngược lại.

 

Nên có thể nói chắc rằng: Truyện Kiều tuân thủ luật bằng trắc rất nghiêm chỉnh.

 

 Nhưng Với Vần Thì Lại Là Chuyện Khác.

 

Trong thơ lục bát có 4 điểm cần lưu ý khi nhận xét về vần là lạc vận, vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn (trở lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận).

 

Lạc vận được giới phê bình và thưởng thức thơ cho là lỗi – mà là lỗi nặng về kỹ thuật thơ. Còn vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn chỉ được xem là sự “không khéo” của tác giả.

 

Nhưng khi bài viết được phổ biến nhiều độc giả đã đề nghị cứ coi đó là lỗi để các nhà thơ cẩn thận hơn. Vì dù sao những "không khéo" đó cũng ảnh hưởng xấu đến âm điệu của câu thơ, đoạn thơ. Tôi xin để độc giả “tùy nghi cảm nhận”.

 

Trong bài này tôi chỉ bàn về lạc vậnvần nguyên chữ. “Vần ngang câu bát” và vần quẩn sẽ đề cập đến ở bài sau.

 

Truyện Kiều Có Câu Nào Lạc Vận Không?

 

Lạc vận là một lỗi nặng trong thơ lục bát. Với thơ lục bát đương đại, một câu lạc vận có khi làm cả bài thơ “xấu mặt”. Đọc đi đọc lại Truyện Kiều tôi thấy có một câu lạc vận và một câu khác đặt ra một dấu chấm hỏi khá lớn.

Câu sau đây tôi cho là lạc vận:

 

 Một vùng cỏ áy bóng 

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau

(Câu 97 – 98)

 

” và “vài” lạc vận.

 

Nhận định này của tôi (trong một bài viết khác) – do nguồn trích dẫn từ một văn bản chữ Việt - đã gặp sự phê phán của bác Vũ Nho (chủ trang web Vũ Nho Ninh Bình). Trong bài viết này tôi đã “mượn” dụng cụ của ông Nguyễn Quảng Tuân - so sánh từng dòng giữa các bản Kiều (chữ Nôm):

 

Câu

Bản

Bản Văn

98

Kiều 1866

󰊄囂囂𠺙𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.

98

Kiều 1870

𩙍囂囂𠺙󰜋𬏓𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một và ngọn lau.

98

Kiều 1871

󰊄囂囂𠺙𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.

98

Kiều 1872

𩙌囂囂𠺙𠬠𬏓𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một và NGỌN lau.

98

Kiều 1902

𫗄休休𠺙󰜋𢽼𦰤
Gió hiu hiu thổi một và(i) bông lau

 

Trong bản Kiều 1902 hàng chữ Nôm viết là 𢽼 (vài) nhưng hàng chữ “quốc ngữ” ở dưới viết (lầm?) là “và”

 

Trong 5 bản Nôm của Truyện Kiều có đến 3 bản viết là “vài” - trong đó có bản cổ nhất 1986 (1). Thêm vào đó, đa số bản tiếng Việt trên Net cũng viết như vậy nên dù có ý kiến trái chiều, tôi vẫn nghiêng về phía chữ “vài” – nghĩa là cho rằng đây là 2 câu lạc vận.   

 

Hơn nữa, đây đó trong Truyện Kiều có một số câu - ý tương tự - cũng viết là “vài”:

 

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(Câu 41-42)

 

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

(Câu 91-92)

 

Thú quê thuần hức bén mùi,

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.

(Câu 1593- 1594)

 

Lời quê chắp nhặt dông dài,

Mua vui cũng được một vài trống canh.

(Câu 3253-3254)

 

Có lẽ sợ giảm nét đẹp văn chương của Truyện Kiều một số người đã sửa chữ "vài" thành chữ "". Nhưng sửa như thế, theo tôi, quá gượng về ngữ nghĩa, làm "xấu mặt" câu thơ.

 

 

Ngoài ra, nói đến lạc vận, còn có một câu khác cũng khiến tôi băn khoăn:

 

 

Sượng sùng đánh dạn ra chào

Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần

 

trong đó “chào” với “tai” lạc vận rõ ràng, không phải bàn cãi. Có đến vài (1) bản Kiều tiếng Việt viết là “tai” nên tôi đã mạnh dạn lấy làm thí dụ (về lạc vận) trong một bài viết khác. Sau này đối chiếu với 5 bản Kiều chữ Nôm tôi mới thấy là mình sai; không phải sai về lập luận mà sai về nguồn trích dẫn có độ khả tín quá thấp.

 

Đối chiếu với 5 bản Kiều chữ Nôm:

 Top of Form

 

Câu

Bản

Bản Văn

1096

Kiều 1866

𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần.

1096

Kiều 1870

𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần.

1096

Kiều 1871

𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần.

1096

Kiều 1872

段催娘買𠯇𢭂慇懃
ĐOẠN thôi nàng mới rỉ trao ân cần.

1096

Kiều 1902

𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần

Bottom of Form

 

Như vậy đúng ra phải viết là:

 

Sượng sùng đánh dạn ra chào

Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần

(Câu 1095-1096)

 

Đây không phải là 2 câu lạc vận.

 

Riêng điểm này tôi phải công nhận bác Vũ Nho đúng, tôi sai. Xin cám ơn bác Vũ Nho đã chỉ điểm.

 

Tóm lại, trong 3254 câu của Truyện Kiều, theo tôi, có một cặp lạc vận.

 

  Một vùng cỏ áy bóng 

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau

(Câu 97 – 98)

 

” và “vài” lạc vận.

 

Nhận Xét Về Vần Nguyên Chữ Trong Truyện Kiều

 

Chúng ta thử đọc đoạn thơ dưới đây:

 

KHÔNG LÀ GIẤC MƠ

Yêu nhau thì phải nồng say

Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng

Cũng không một dạ hai lòng

Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau

Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)

 

Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “nguyên chữ” (lòng lòng) – hai chữ vừa trùng ý lại giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy không sai luật nhưng nghe có “cái gì đó” không thuận tai.

 

Tôi tưởng nhận xét như vậy là do cách thưởng thức thơ khó tính của mình, nhưng đọc chú thích của ông Nguyễn Quảng Tuân (phần dưới) thì thấy rằng các cụ xưa cũng dị ứng với vần nguyên chữ như tôi.

 

So sánh hai câu 3089 và 3090 giữa các bản Kiều:

 

Câu

Bản

Bản Văn

3089

Kiều 1866

緣箕固負之
Duyên kia có phụ chi tình,

3089

Kiều 1870

緣箕固負之
Duyên kia có phụ chi mình,

3089

Kiều 1871

緣箕固負之
Duyên kia có phụ chi tình,

3089

Kiều 1872

緣箕固負𠇮
“Duyên kia có phụ chi MÌNH,

3089

Kiều 1902

緣箕固負之
Duyên kia có phụ chi mình

 

 

Câu

Bản

Bản Văn

3090

Kiều 1866

麻算支挭鍾情爫𠄩
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?"

3090

Kiều 1870

𦓡筭技梗鍾情爫𠄩
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?”

3090

Kiều 1871

麻算支挭鍾情爫𠄩
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?”

3090

Kiều 1872

麻筭支梗鍾情爫𠄩
"Mà toan chia gánh chung tình làm hai?"

3090

Kiều 1902

麻算𢫟挭鍾情爫𠄩
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai”.

 

thì ông Nguyễn Quảng Tuân đã có một đoạn chú thích về câu “Duyên kia có phụ chi tình” (Liễu Vân Đường) như sau:

 

Hai bản Liễu Vân Đường (1866 & 1871) và Quan Văn Đường (1874) (bản 1874 không nằm trong 5 bản đối chiếu) đều khắc là “tình”. Sở dĩ có sự sửa chữa chữ “tình” ra chữ “mình” là để tránh trùng vần với câu dưới cũng có chữ “tình”. Nhưng chữ “mình” đây có thể hiểu là “chúng mình” và câu thơ cũng rõ nghĩa.

 

Vì thế, sau khi tra cứu kỹ, tôi đã không đưa 2 câu 3089 và 3090 vào danh sách các câu thơ “vần nguyên chữ” mà ông Nguyễn Quảng Tuân gọi là “trùng vần”. (2)

 

Sử dụng phương cách này tôi đã bỏ bớt mấy cặp có độ khả tín thấp khác trong một số bản chữ Việt trên Internet.

 

Như vậy, cả các cụ xưa và những người thưởng thức thơ đương đại (trong đó có tôi) phần đông cho rằng tạo vần nguyên chữ trong thơ lục bát là “không khéo”, là vụng - ngoại trừ trường hợp thật đặc biệt.

 

Theo sự sàng lọc của tôi (đối chiếu 5 bản Kiều chữ Nôm) Truyện Kiều có 8 cặp lục bát vần nguyên chữ, xin được liệt kê dưới đây. (Thay vì một cặp tôi trích cả 4 câu, mở rộng ngữ cảnh của đoạn thơ cho độc giả có chỗ dựa để nhận định xem cái hay về ý tứ và nghệ thuật của đoạn thơ có bù được cái vụng của cặp vần nguyên chữ hay không?) 

  

1/

 

Vân rằng: Chị cũng nực cười

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

(105 đến 108)

 

2/

 

Lượng xuân dù quyết hẹp hòi

Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?

Lặng nghe lời nói như ru

Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng

(345 đến 348)

 

3/

 

Nước trôi hoa rụng đã yên

Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian

Khuyển ưng đã đắt mưu gian

Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền

(1705 đến 1708)

 

4/

 

Thấy nàng mặt phấn tươi son,

Mừng thầm được mối bán buôn có lời

Hư không đặt để nên lời

Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen

(2089 đến 2092)

 

5/

 

Tin vào gởi trước trung quân

Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ

Một tay gây dựng cơ đồ

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!

(2461 đến 2464)

 

6/

 

Giác Duyên nghe nói mừng lòng,

Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường

Đánh tranh chụm nóc thảo đường

Một gian nước biếc mây vàng chia đôi

(2695 đến 2698)

 

7/

 

Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê

Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao

Xuân huyên lo sợ biết bao

Quá ra khi đến thế nào mà hay

(2835 đến 2838)

 

8/

 

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên?

Trong sao châu nhỏ duềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!

(3201 đến 3204)

(Duềnh quyên: Vũng nước trong sáng đẹp hoặc có ánh răng soi.)

 

Trước khi tìm hiểu trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện Kiều thì những cặp nào là vụng, không khéo và những cặp nào là “phá lệ” của cụ Nguyễn Du để thực hiện một chức năng thẩm mỹ, tôi viết vài hàng làm chỗ dựa để lý giải.

 

Chỗ Dựa Để Lý Giải

 

Một chữ, một nhóm chữ, một câu hay một đoạn trong bài thơ đều có ít nhất một chức năng: Chức năng truyền thông. Chúng kết hợp với nhau cung cấp thông tin cần thiết để độc giả có thể “bắt” được, hiểu được những suy nghĩ, tâm tình mà thi sĩ muốn chia sẻ.

 

Nếu thi sĩ chọn một thể thơ nào đó – trong bài này thi sĩ chọn thể thơ lục bát – thì ngoài những nguyên tắc văn phạm, mỗi chữ, nhóm chữ, câu, đoạn còn phải tuân thủ những quy định về luật (bằng trắc) và vần của thể thơ này.

 

Thêm vào đó còn có những điều chưa thành luật, chưa thành quy định, nhưng nếu thi sĩ “không khéo” mắc phải sẽ tạo thành hội chứng nhàm chán vần, giảm giá trị của bài thơ. Tôi muốn nói đến “vần nguyên chữ”, “vần ngang câu bát” và “vần quẩn”.

 

Một chức năng khác thường được nói đến trong thơ là chức năng thẩm mỹ. Mỗi chữ, nhóm chữ, câu, đoạn được tác giả giúp tự trang điểm hoặc cùng với các chữ, nhóm chữ, câu hay đoạn khác (trong cùng bài thơ) phối hợp với nhau “làm đẹp” – để độc giả ngoài cái “sướng” “bắt” được, hiểu được suy nghĩ, tâm tình của tác giả còn được thưởng thức nét đẹp văn chương của bài thơ.

 

Nếu tác giả không phải vô tình (hoặc “kẹt”) mà tự ý phá luật, bỏ vần hoặc chấp nhận vướng vào một chỗ “không khéo” nào đó thì thường là muốn bộc lộ một cái gì đó lạ, hay hoặc độc đáo hơn.

 

Trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện Kiều thì trong cặp đầu tiên

 

Vân rằng: Chị cũng nực cười

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

(105 đến 108)

 

Thúy Kiều nhắc lại chữ “xưa” để Thúy Vân thấy câu trả lời của mình (Kiều) “đúng điểm”, xác đáng. “Lý do thật đặc biệt” ở đây là: Chữ “xưa” ấy “bất khả thay thế” và làm tăng giá trị nghệ thuật của đoạn thơ.

 

Cái hay ở đây không những bù được cái vụng mà còn có lời nữa.

 

Còn 7 cặp vần nguyên chữ khác từ số 2 đến số 8 (ru ru, gian gian, lời lời, đồ đồ, Đường đường, bao bao, Quyên quyên) chỉ cung cấp thông tin để độc giả hiểu ý, không có chức năng thẩm mỹ đặc biệt. Cụ Nguyễn Du, trong 7 cặp lục bát này, đã vướng vào chỗ “không khéo”, chịu thiệt về mặt kỹ thuật thơ mà chẳng kiếm chác được tí gì ở phần chức năng thẩm mỹ.

Thật đáng tiếc!

  

Hết Phần I

 Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 ……………………………..

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

Những trang Web viết “rỉ tai”

https://sites.google.com/site/khonggianketnoidqt/truyen-kieu-tron-bo

https://download.vn/truyen-kieu-44606

https://hoavouu.com/images/file/DsgIQGAx0QgQALg_/tuyenkieu.pdf

2/

 Tôi tránh dùng nhóm chữ “trùng vần” vì sợ hiều lầm là nhiều cặp vần liên tiếp trong một đoạn thơ. (Không là vần nguyên chữ nhưng các cặp đều “bắt vần”).

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét