(Bản thảo)
TỰ BẠCH
Nhiều năm kể từ ngày rời quân ngũ, tôi thường
nhớ về những đồng đội đã cùng tôi sống chết có nhau trong những năm tháng chiến
đấu ở Quảng Trị năm 1972 và những năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới,
mong mỏi cơ duyên gặp lại nhau, nhưng không làm sao thực hiện được. Vợ tôi gợi
ý: “Hay là ông viết hồi ký về những ngày sống chiến đấu trong quân đội đăng
lên mạng. Biết đâu, đồng đội ông đọc được sẽ liên hệ với ông. Ông viết ra cho
nguôi ngoai nỗi nhớ đồng đội cũng tốt chứ…” Nghĩ vợ nói phải, tôi bắt tay
vào viết hồi ký. Tôi viết như dốc bầu tâm sự, như giãi bày bộc bạch lòng mình,
như chuyện trò cùng đồng đội. Những gì tôi viết ra đều là những sự thật tôi trải
qua, chứng kiến, tai nghe, mắt thấy. Tôi không quan tâm đến chau chuốt câu văn,
nghĩ sao viết thế, thấy sự thật thế nào viết thế.
Tôi viết hồi
ký được kỳ nào, đăng luôn lên mạng kỳ đó. Hồi ký của tôi lên trang blog một thời
gian thì tôi nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc động viên, nhận xét nhật ký
trung thực. Nhờ việc đăng hồi ký lên mạng mà tôi được một số đồng chí lãnh đạo
Hội Cựu chiến binh bảo vệ thành cổ Quang Trị năm 1972 biết và kết nạp tôi vào hội.
Đài truyền hình Nam Định mời tôi tham gia buổi giao lưu giữa đài với cựu chiến
binh bảo vệ Quảng Trị năm 1972… Nhờ đăng hồi ký, tôi gặp lại được anh Nguyễn
Công Sự ở Vụ Bản là chiến sĩ cùng đánh trận An Tiêm với tôi, anh Lê Thanh Oai ở
xã Mỹ Thắng (huyện Mỹ Lộc, Nam Định) là thủ trưởng chỉ huy chúng tôi trong trận
bảo vệ cảng Cửa Việt... Gặp lại nhau, chúng tôi xúc động vô cùng. Thời tuổi trẻ
hào hùng sống lại trong chúng tôi.
Thủ trưởng cũ của tôi - anh
Lê Thanh Oai có lần bảo: “Chú nên xin lệnh xuất bản in cuốn hồi ký để lưu lại
cho con cháu biết cha ông chúng đã sống và chiến đấu như thế nào. Chú nên in sớm,
để anh em đồng đội chúng mình được đọc và nhớ về một thời tuổi trẻ. Đồng đội
chúng mình đều đã trên bảy mươi tuổi rồi, chú nên in sớm nhé!”. Tôi hiểu điều
anh Lê Thanh Oai muốn nói, nên mạnh dạn gửi bản thảo đi nhà xuất bản để xin lệnh
in…
Nếu may mắn cuốn sách của
tôi được ra đời đến tay bạn đọc, tôi vô cùng biết ơn bạn đọc bớt chút thời gian
đọc những dòng tâm sự về một thời áo lính của tôi…
Thành Nam, tháng 2 - 2017
TRẦN
MỸ GIỐNG
GIA ĐÌNH
Cụ
tổ họ Trần nhà tôi về sinh cơ lập nghiệp ở làng Trà Lũ (nay bao gồm các xã Xuân
Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương và Nam Điền thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)
từ khoảng nửa đầu thế kỷ 15. Cụ ở làng Kim Lũ, tục gọi làng Lủ nay thuộc Hưng
Yên. Có người lại bảo làng Kim Lũ thuộc Hà Nội. Để nhắc con cháu nhớ về làng gốc
của cha ông, các cụ đặt tên làng mới là Trà Lũ.
Chữ
KIM đổi lấy chữ TRÀ
Còn một chữ LŨ để mà làm ghi.
Hồi ấy, Trà Lũ là vùng sình lầy, đầy lau sậy
giáp biển Đông. Cụ tổ họ Trần cùng các họ khác đứng chân ở vùng đất nổi Trà Lũ
lập ra Trà Lũ Trung (tức Xuân Trung bây giờ), Trà Lũ Bắc (tức xã Xuân Bắc), Trà
Lũ Đông (tức xã Xuân Phương). Nam Điền (nay là xã Xuân Nam) là đất trại cấp cho
những gia đình đi lính làm ăn phụ thuộc vào Trà Lũ Trung.
Đầu thế kỷ 19, khi nghĩa quân Phan Bá Vành
nổi lên chống lại triều đình, hầu hết dân làng tôi đi theo. Trà Lũ trở thành đại
đồn của nghĩa quân. Năm 1827 khởi nghĩa thất bại, cả làng tôi bị triệt hạ, hơn
800 người bị giết. Cho đến giờ, họ Trần tôi vẫn rất tự hào có tướng quân Hai
Đáng nổi tiếng trong nghĩa quân.
Gia phả họ Trần nhà tôi chỉ chép được 15, 16 đời. Cụ tổ đời thứ
10 là cụ Trần quý công huý Oánh tự Huệ Văn đi lính giữ chức Tiền cường cơ lục đội,
Chánh đội trưởng. Ông nội tôi là cụ Trần Hanh sinh hai trai là bố tôi và bác Vượng,
hai gái thì một người mất sớm, một người không có con. Năm 1985 bác Vượng tôi mất.
Sau đó ít năm bác gái cũng qua đời. Năm 1994 mẹ đẻ tôi mất. Mẹ cả tôi mất từ
1945. Năm 2008 bố tôi qua đời. Năm 2013 cô tôi mất. Vậy là thế hệ bố tôi không
còn ai.
Khi còn sống,
bác Vượng tôi rất hay văn nghệ. Ông từng làm đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều
năm. Trong kháng chiến, ông làm công tác tuyên truyền, bị địch bắt tra tấn
thành bệnh. Năm 71 tuổi ông mất. Bác tôi có 5 con gái (Hương, Bình, Thường, Sướng,
Thảo), hai trai là anh Hữu và anh Quang. Cả hai anh hiện ở Giao Lạc thuộc Giao
Thuỷ. Anh Hữu đi bộ đội, về phục viên, có thời làm Phó Chủ tịch xã. Anh Quang
thời trẻ đi bộ đội biên phòng rồi về phục viên. Vợ cả anh đi làm ô sin ở bên
Hàn, bỏ anh lấy chồng khác. Anh lấy bà hai kém anh hai chục tuổi.
Ông nội tôi mất từ khi tôi chưa ra đời. Bà Nội tôi sống 83 tuổi
thì mất. Phần mộ của bà để ở Giao Lạc, nơi anh Hữu cư trú hiện nay. Khi còn sống,
bà tôi luân phiên ở với bác Vượng và bố tôi. Khi bác tôi đi khai hoang ở Yên Thế
(Bắc Giang) thì bà sống với bố tôi. Khi bác Vượng bỏ vùng Yên Thế về Giao Lạc
(Giao Thủy – Nam Định) thì bà tôi lại luân phiên ở với hai con trai. Bà tôi từng
là cơ sở nuôi dấu cán bộ trong kháng chiến. Sinh thời, bà làm nghề bán gạo, gọi
là nghề hàng sáo. Từ ngày tôi ra đời và biết được thì đã thấy bà già cả, mắt mờ
rồi. Tôi yêu bà lắm. Hồi bé, tôi thường đòi ngủ chung giường với bà. Tôi khoanh
tròn trong lòng bà, háo hức nghe bà kể chuyện cổ tích rồi ngủ thiếp đi.
Bố tôi
hai vợ. Bà cả là bà Trần Thị Tý mất khi tôi chưa ra đời. Bố tôi kể: Hồi ấy
nghèo đói lắm, bố tôi phải đi làm thuê làm mướn ở xa, khi về quê thì bà Tý và
hai con đã qua đời. Lúc đó bố tôi đã có hai người con, cô lớn tên là Ngọ (thường
gọi cô Gái lớn để phân biệt với cô Gái em ruột tôi mất khi 3 tuổi), đứa bé thì
chưa đặt tên. Nỗi đau buồn vì mất bà Tý của bố tôi càng lớn thêm khi ông mất
luôn cả hai người con. Bố tôi hỏi các con của ông đâu thì bà nội và bà ngoại
tôi (tức bà sinh ra bà Tý) đều không cho ông biết. Bố tôi đoán rằng hai bà đã
bí mật cho hai cháu đi làm con nuôi người ta để có hy vọng các cháu được sống.
Nhưng đó chỉ là hy vọng. Sau này tôi được bà con trong làng nói cho biết hai
anh chị tôi mất năm đói 1945 rồi.
Bà hai là
U tôi. Sau khi bà Tý mất, bố tôi mới lấy U tôi. Bố tôi nuôi chú ruột là ông Đức
vì cha mẹ ông Đức mất sớm. Khi ông Đức lớn đã đi du kích và hy sinh năm 1952 ở
Thái Bình. Vì thế bố u tôi được hưởng chế độ gia đình liệt sĩ. Bố tôi có tiếng
là hiền lành. Mọi việc lớn trong gia đình do U tôi quyết đoán.
Ông ngoại tôi là ông Trần Mỹ Riệm, có
tiếng đẹp trai và rất “công tử”. Gia đình ông ngoại tôi là gia đình khá giả thời
đó. Ông tôi làm nghề may và lấy hai bà vợ. Năm u tôi 13 tuổi thì ông ngoại tôi
mất. Bố tôi bảo: “Ông ngoại mất do bị người ta đánh thuốc độc vì ghen ghét... Họ
lừa cướp ba cái máy khâu của ông”. Bà ngoại tôi bỏ đi lấy chồng. Bà vợ hai ông
ngoại tôi sinh hai con gái là dì Răm và dì Ngọ, cũng bỏ về quê Đông Hưng (Thái
Bình) rồi mất ở đấy. Một tay mẹ tôi tần tảo nuôi hai em. Khi lớn lên, dì Ngọ đi
du kích, dì Răm đi tu. Hoà Bình lập lại, mẹ tôi đón dì Răm về và gả cho ông Sử
là chú rể tôi bây giờ. Dì chú Sử đưa gia đình lập nghiệp ở Trí Thiện (Giao Thuỷ).
Dì Ngọ lấy ông Bảng, có 4 con trai hiện còn ở Trà Lũ Bắc (Xuân Bắc). Ông Bảng mất
sớm, mấy đứa con còn nhỏ nên dì tôi rất vất vả trong cuộc sống.
Bà ngoại tôi thường gọi là bà Kẹo vì bà bán kẹo đắng, sau khi
ông ngoại tôi mất, bà lấy ông Nhì người Xuân Bắc. Hai ông bà sống nghèo khổ và
không có con. Ông Nhì làm nghề bán thịt chó. Hồi nhỏ, tôi thường theo bố tôi
lên thăm ông bà. Mỗi khi bố tôi lên thăm, ông Nhì giữ bằng được bố tôi uống rượu
ăn thịt chó với ông. Ông Nhì mất, bố u tôi đón bà ngoại tôi về nuôi dưỡng. Bà
ngoại và u tôi xung khắc nhau. Bà tôi đòi ở riêng. Bố tôi chiều bà, bèn làm một
cái chái phía đông cho bà ở. Hàng ngày bà vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bà rất quý
tôi. Mỗi bận đi chợ, bà lại mua cho tôi khi thì cái bánh đa, khi củ khoai lang.
Ngày ba bữa, bố u tôi đưa cơm cho bà để bà ăn một mình cho thoải mái. Bà đã lẫn
nhưng vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bố u tôi không giám cản bà. Mỗi khi có người hỏi
bà đã ăn cơm chưa, dù vừa ăn xong, bà vẫn bảo chưa được ăn gì. Năm 1976, tôi
đang đóng quân ở Vĩnh Phú thì được tin bà mất. Nghe vợ tôi kể, hôm bà mất, bà vẫn
khoẻ bình thường. Bà bảo đem cho bà cốc nước chè. Uống xong bà gọi cô Hà lại, móc ruột tượng có ít tiền đưa
hết cho cháu rồi bà đi. Hôm đưa đám bà, trời mưa to. Mọi người phải đè ván xuống
mới lấp được đất. Sau này sang số cho bà, tôi mua tiểu từ Nam Định, lai bằng xe
đạp về. Nhưng ngày sang số bà, chỉ có bố tôi, chú Đằng và ông Số là bạn bố tôi
thực hiện. Khi tôi ra quân, về hỏi mộ bà thì bố tôi và chú Đằng đều nhớ không
chính xác. Năm sang số cho U tôi, tôi nhờ người đưa luôn bà vào khu mộ tổ thì
không tìm thấy mộ bà. Trước đây, do bà ngoại tôi bỏ con đi lấy chồng sau khi
ông tôi mất, nên họ nhà ông ngoại tôi không nhận bà, không cho đưa bà vào khu mộ
tổ của họ chồng. Đến khi tôi lớn, quyết đưa bà vào khu mộ tổ họ nội tôi thì lại
không tìm được mộ bà. Tôi vô cùng áy náy vì việc này mà không biết làm thế nào.
Bà ngoại đẻ ra mẹ cả tôi là bà Thụ. Mặc dù mẹ cả tôi là bà Tý
mất đã lâu, nhưng bà ngoại vẫn đi lại thường xuyên với nhà tôi. Bố tôi không bỏ
buổi nào những ngày bên nhà vợ cả ông có việc. Chúng tôi cũng rất yêu quý bà.
Tôi còn nhớ như in hình ảnh bà mặc váy đen, thắt ruột tượng nâu, áo cánh gụ, ăn
trầu bỏm bẻm. Mỗi bận bà lên chơi, tôi quấn quýt với bà cả buổi. Có lần bọn bạn
rủ đi đá bóng, ham quá, tôi muốn đi chơi nhưng lại sợ khi tôi đi chơi thì bà bỏ
về. Tôi hẹn đi hẹn lại với bà rằng bà phải ở chơi chờ cháu về. Để yêm tâm, tôi
buộc ruột tượng của bà vào cối xay thóc. Khi tôi chơi bóng xong thì bà đã về.
Tôi khóc ầm ĩ bắt đền bố u tôi. Sau này bà bị đau mắt, chữa chạy không khỏi
thành ra mù. Khi bà mất, người ta chở thuyền đưa bà ra nghĩa trang. Tôi dắt chú
Đằng, đầu đội lá khoai, đi bộ theo trên bờ đưa tiễn bà.
Bố
u tôi làm ruộng, nhưng đất hiếm nên sống chính bằng nghề bán hàng sắt. Hàng
ngày bố u tôi đi các chợ Trung, chợ Bắc, chợ Thanh Nhang, chợ Bể... từ tinh mơ
đến tối. Chợ xa hai mươi cây số mà bố tôi gánh hàng nặng trên sáu chục ký đi bộ
quanh năm. Hai vai bố tôi nổi u to bằng cái bát ăn cơm do đòn gánh đè lâu ngày.
Có thời khó khăn, bố tôi bỏ đi thân tàng, tức là đi khai thác nứa gỗ ở Thanh
Hoá, hoặc mạn ngược xuôi về bán. Vất vả cả đời nhưng không có thời kỳ nào bố u
tôi giàu có cả. U tôi đẻ mấy bận đều không nuôi được. U tôi buồn đến phát điên.
Sau có tôi ra đời u tôi mới khỏi bệnh. Đứa em liền tôi là cô Gái mất lúc ba tuổi.
Sau tôi còn có các chú Đằng, Giang, Hải và cô Hà. Chú Đằng đi trung cấp thuỷ lợi,
công tác ở Đội thi công cơ giới Bộ Thuỷ lợi. Chú có thời đi I Rắc lao động
nhưng gặp lúc chiến tranh phải về nước, được đền bù ít tiền đủ mua cái xe máy.
Chú Giang, chú Hải đều là sĩ quan công an thành phố và tỉnh. Cô Hà làm Kế toán
trưởng Công ty Điện báo, điện thoại Nam Định. Nay các em tôi đã nghỉ hưu.
Không ai nhớ chính xác là tôi sinh năm nào. U tôi bảo :
- Hồi “hai năm bốn tháng” (từ 1947 đến 1949) đã có thằng Giống
rồi. Khi tản cư sang Thái Bình, lúc qua đò thằng Giống khóc to, người tản cư
đòi bóp chết thằng Giống vì sợ lộ, sợ bọn giặc bắn, tôi ấn vú vào miệng cho nó
nín mà.
Theo như U tôi nói thì tôi phải ra đời trong khoảng 1947 -
1949. Khi đi học vỡ lòng, tôi khai sinh 1950 cho đúng tuổi đi học. Tên tôi ghi
trong “tờ khoán” bán cho Đức Thánh Trần là Trần Hùng Triệu, nhưng ai cũng gọi
tôi là Giống, lâu rồi không ai nhớ tên chính thức của tôi. Từ khi đi học đến
nay, tôi vẫn giữ cái tên Trần Mỹ Giống.
Từ 1950 đến
1952, nhà tôi bị giặc đốt ba lần, vì bố u tôi là cơ sở cách mạng. Năm 1953, bố
u tôi tản cư lên Bùi Chu, tiếp tục buôn hàng sắt. Mỗi lần giặc đến nhà bắt người
đi phu, đi lính, bố tôi thường nấp trên gác xép. Tôi canh nhà, giặc hỏi thì bảo
bố tôi đi lính rồi. Em Gái tôi năm đó hơn 2 tuổi, đẹp như đức mẹ ở nhà thờ
thiên chúa giáo. Mỗi khi tôi dắt em tôi đi chơi ở chợ Bùi, ai trông thấy em Gái
cũng khen em đẹp như Đức Mẹ đồng trinh và cho anh em tôi quà bánh. Năm ấy có dịch
đậu mùa, hai anh em tôi đều mắc bệnh. Tôi qua khỏi, nhưng em Gái không qua được.
Ông Cầm đưa thi hài em về chôn ở tha ma cầu Mới. Lâu rồi nên mộ em thất lạc.
Cho đến hiện nay, mỗi khi đi đâu qua cầu Mới, tôi lại thầm gọi tên em.
Hoà bình lập lại, gia đình tôi trở về quê. Bố u tôi hiến đất của
tổ tiên cho xã làm nghĩa trang liệt sĩ. Bố tôi và bác Vượng ra mẩu đất mom sông
làm nhà. U tôi lần lượt sinh các em Đằng, Giang, Hà, Hải ở đây. Cải cách ruộng
đất, nhà tôi được cấp 3 sào ruộng xứ đồng Nam Điền. Bố U tôi vẫn đi bán hàng sắt.
U tôi nhờ bác Riễn cùng làng trông nom chúng tôi và cho các em tôi bú mớm. Anh
em tôi lớn lên trong sự yêu chiều của U tôi.
Khoảng năm 1956 cậu Hoà bị giặc bắt đi Lào trốn về được. U tôi
nuôi và cưu mang cậu, khi cậu lấy bà Gái thì cho cậu làm nhà ở mẩu vườn trước
nhà tôi. Khi còn sống, cậu từng bị địa phương nghi theo địch, bị giam và bị tra
tấn gãy răng. U tôi một lòng thăm nuôi cậu. Sau được minh oan, cậu làm đội trưởng
sản xuất một thời gian rồi theo nghề làm kẹo bánh. Lúc đã khá giả, cậu mợ mua
nhà mới rộng rãi hơn, trả lại đất cho U tôi.
Bác Vượng
tôi làm nhà sau lưng nhà tôi. Năm 1968 bác đi khai hoang vùng kinh tế mới ở Yên
Thế, rồi về Giao Lạc bây giờ, bác đã bán lại đất cho U tôi. Đất bác ở ngày trước
nay bố tôi thừa kế cho chú Đằng làm nhà ở.
ĐI HỌC
Hồi bé, tôi là đứa nghịch ngợm. Ba năm đi học vỡ lòng tôi mới
được vào lớp một. Năm đầu tôi học cô Nhường, bỏ dở vì tội lén đổ mực ra ghế cô
ngồi. Năm sau học chú Bình, tôi bị đuổi học vì tội chửi chú là ông Bình sẹo
(thái dương chú có cái sẹo lớn). Năm thứ ba mới học yên ổn vỡ lòng.
Thuộc xã Xuân Trung, nhưng vì học sinh đông nên bọn trẻ xóm
Đông Thành chúng tôi lại được phân bổ học ở Trường cấp I xã Xuân Phương. Tôi
còn nhớ thày Hy già rất nhiều lần phạt béo má tôi vì tội tôi nghịch ngợm. Một lần
chơi diều tôi bị ngã gẫy tay trái, sợ bố u mắng nên tôi trốn trong đống rơm.
Đau quá, tôi lịm đi. Tới khuya vẫn không thấy tôi về, bố tôi đi tìm không thấy
tôi, ông hoảng lên. Anh Hữu sợ quá mới nói cho bố tôi biết tình trạng của tôi.
Bố tôi bế tôi sang ông lang Cợn người cùng làng, nhờ ông cứu chữa. Ông lang Cợn
hỏi tôi toàn chuyện đâu đâu làm tôi không để ý đến tay đau, rồi bất ngờ ông giật tay tôi thật mạnh. Ông bó
tay tôi bằng nẹp tre và bột. Tay tôi sưng tấy lên, đau buốt. Người tôi sốt hầm
hập. Nửa đêm, U tôi ngồi bên mép giường, xoa lên tay đau của tôi. Tay U tôi lạnh
như đồng làm tôi giảm hẳn đau. U tôi cứ ngồi xoa cho tôi như thế mấy đêm liền.
Sau này tôi nói lại chuyện đó, U tôi rất ngạc nhiên. U tôi nói với bố tôi:
- Khéo mẹ
già về chăng...
U tôi thường
gọi bà vợ cả của bố tôi là mẹ già. U tôi thắp hương khấn vái rì rầm. Bà mẹ cả
tôi có tiếng là linh thiêng. Từ lần đánh đòn tôi vì tôi hư, bị bà cả phạt tự
đánh vào ngực, u tôi sợ không giám đánh tôi nữa. Lại một lần bố tôi đuổi đánh
tôi vì tôi đánh nhau với trẻ con. Hai bố con tôi chạy quanh cái bàn gỗ. Chợt u
tôi kêu lên:
-
Có con rắn!
Tôi
và bố tôi đều nhìn thấy con rắn to bằng song cửa sổ đuổi theo bố tôi. Hai bố
con tôi nhảy vội lên bàn đứng ôm nhau tránh rắn. Mọi người soi tìm thì lại chẳng
thấy rắn đâu. U tôi lại bảo:
-
Khéo mà bà mẹ già về chăng.
U
tôi lại thắp hương khấn bà cả.
Tôi
hay nằm mơ thấy một người đàn bà mặc váy, quấn ruột tượng, đội khăn mỏ quạ đen.
U tôi bảo đó chính là hình ảnh của bà cả. Khi tôi ra đời thì bà cả đã mất, làm
sao tôi lại mơ thấy bà? Cậu Hoà có lần báng bổ thần phật, tự nhiên đau bụng quằn
quại mãi không khỏi. U tôi thắp hương kêu cầu bà cả, rồi nhai lá trầu không nhổ
nước xoa vào bụng cậu. Thế mà cậu khỏi ngay. Từ đó cậu không giám coi thường
chuyện cúng bái nữa. Bà con làng xóm thường khi gặp việc khó khăn hay ốm đau là
lại nhờ u tôi kêu cầu bà cả phù hộ. Sau này được học lên đại học, tôi vẫn không
sao giải thích được chuyện tôi chứng kiến kể trên. Tôi xây mộ cho bà cả và
không quên thắp hương khấn bà mỗi khi về quê.
Phải gần
tháng sau ông lang Cợn mới tháo bột cho tôi. Từ đó tay trái tôi yếu hẳn, không
xách được vật nặng.
Năm lớp 4
tôi học thày Trạch. Thày Trạch hay phạt tội nghịch ngợm của tôi, nhưng lại rất
yêu tôi. Ông thường xuyên giao cho tôi chữa bài tập toán thay ông. Nghịch ngợm,
nhưng năm nào tôi cũng đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.
Mùa hè năm lớp 4 lên lớp 5, tôi bị sốt
cao liên miên. U tôi mời y sĩ trạm xá xã khám và cho thuốc, tôi uống mãi cũng
không khỏi. Hơn tháng trời tôi nằm liệt giường, sống thoi thóp, người chỉ còn
da bọc xương. Thấy tôi thất thần, bố u tôi ngồi khóc bên giường. Tôi bay lơ lửng
trên kèo nhà, nhìn thấy rõ tất cả. Tôi nghe u tôi bảo bố tôi:
- Ông chuẩn
bị quần áo mới cho thằng Giống đi, nó khó mà qua khỏi.
Vừa khi
đó, ông Đằng cùng xóm đi làm ăn xa về qua, nghe tiếng bố u tôi khóc, ông liền
vào hỏi han và xem xét người tôi. Ông bảo:
- Đậu
lào đây mà. Thuốc chữa sao khỏi. Cho tôi cái kim và cái dao bào.
Ông Đằng
dùng củ nghệ kỳ vào cổ, lưng và ngực tôi. Từng vốc ghét như đầu bút chì từ người
tôi rơi xuống chiếu. Ông lấy kim khêu thịt ở cổ tôi, cắt bằng dao bào nghe tanh
tách. Ông khêu và cắt thịt hết ở cổ, lại đến ngực và lưng tôi. Tôi chợt thấy
đau nhói khi ông cắt thịt ở lưng liền kêu to lên. Ông Đằng vui vẻ bảo:
- Sống rồi.
Đến chiều
thì tôi gần như hết sốt. Đến tối tôi đòi ăn. Ba ngày sau tôi đã đi lại được
bình thường. Bố u tôi đem thúng gạo tám biếu trả ơn ông Đằng.
Bọn trẻ xóm tôi thường tập trung ở sân chung của xóm, nơi dùng
để hội họp làng. Tối tối chúng tôi chơi trò “mô đầu” làm náo loạn cả xóm. Chúng
tôi chia làm hai phe, rồi xông vào nhau, cứ ai đập tay được vào đầu đối phương
là “diệt một địch”. Ai bị “chết” phải ra khỏi cuộc chơi mà... nhìn bọn bạn chiến
đấu. Ban ngày chúng tôi chơi trò đánh khăng, đánh đáo, đánh vành xe, chơi bi.
Những trò chơi của chúng tôi ngày xưa, bây giờ không thấy trẻ con chơi nữa. Thường
các chiều hè, chúng tôi tắm tập thể, thi bơi, thi lặn, thi nhảy cầu trên con
sông làng. Cây cầu gỗ xóm tôi có tên là Cầu Trường vì ngày trước ở đó có trường
học chữ nho. Cây cầu đó là nơi tụ tập, ngồi hóng mát của trẻ con. Những đêm
trăng sáng, tôi thường ngồi trên cầu thổi sáo tới khuya.
Chúng tôi
là trẻ con nghèo, áo quần thiếu thốn, vá víu, lại luôn đói bụng. Chúng tôi bày
trò ăn trộm chuối xanh, mít, cam... của hàng xóm, rấm trong các đống rơm rạ,
khi trái cây chín thì tổ chức liên hoan. Một chiều 30 tết, u tôi phát hiện ra
tôi ăn trộm chuối xanh rấm trong đít voi sành ở nghĩa trang liệt sĩ, bà chửi
tôi một trận nên thân. Từ đó tôi cạch, không bao giờ giám theo bạn đi ăn trộm nữa.
Lên cấp hai, cả lũ trẻ Xuân Trung đều học ở Xuân Phương, vì
khi đó Xuân Trung chưa có trường cấp hai. Năm lớp 6, tôi gửi hai bài thơ dự thi
cuộc thi thơ của trường tổ chức, đoạt giải nhì. Đài truyền thanh huyện đưa tin
mấy lần nhắc đến tên tôi, tôi sinh ra kiêu, và cứ tưởng mình thành nhà thơ đến
nơi rồi. Tối tối, tôi mang chiếu manh ra đường nằm nghe loa truyền thanh xã
Xuân Phương, chờ nghe buổi tiếng thơ, rồi làm thơ khoe bạn bè. Tôi học vào loại
đầu lớp, nhất là môn văn. Các thày cô giáo đều yêu quý tôi.
Năm
tôi học lớp 7, cái Nụ, bạn cùng lớp tự nhiên tâm thần, luôn mồm nói yêu tôi.
Người nhà phải cùm chân Nụ để nó không trèo cây nhảy xuống đất. Bà ngoại Nụ
sang tìm tôi, thí thỏn đưa tôi về... “xem cái Nụ có khỏi bệnh không”. Trông thấy
tôi, Nụ tỉnh như người bình thường, không nói. Tôi về rồi, Nụ lại lên cơn điên.
Người nhà đưa Nụ đi Hà Nội chạy chữa. Khi khỏi bệnh, Nụ đi vùng kinh tế, rồi lấy
chồng, có con. Từ ngày ấy, tôi chưa một lần gặp lại Nụ.
Ngày
học cấp hai tôi chơi với các bạn Xuân Phương thân hơn các bạn Xuân Trung, vì
tôi học ở Xuân Phương từ nhỏ. Tôi thân nhất chị Khổng Thị Oanh, và Huệ. Chị
Oanh rất giỏi văn. Năm lớp 6 chị đạt giải nhất cuộc thi thơ của trường cấp hai
Xuân Phương. Tôi thường sang chơi ở nhà chị và Huệ tới khuya. Cuối năm lớp 7,
không hiểu sao Huệ tránh mặt tôi, rồi đi trung cấp, lấy chồng và ở Nam Định.
Năm 2002 tình cờ gặp Huệ, tôi mới biết lý do Huệ tránh tôi là do có mảnh giấy
ai đó dán vào cửa nhà Huệ viết “Nếu mày yêu thằng Giống thì tao giết chết”. Tôi
không hề biết chuyện này. Tôi dò hỏi bạn bè ngày ấy nhưng không tìm ra thủ phạm.
Đúng là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Tuổi học trò chúng tôi nghịch lắm.
Thân nhất trong số bạn trai của tôi là Trần Hùng Cưu, cùng
xóm. Gia đình Cưu bị quy địa chủ, bị tịch thu tài sản. Cưu thường phải nhịn ăn
đi học. Tôi thương bạn, sáng nào cũng dậy sớm nấu cơm, rồi nắm một nắm cơm to
giấu vào cặp mang cho Cưu ăn. Sợ bố u biết, tôi xới cơm lồng phồng lên cho đầy
nồi. U tôi biết, nhưng bà lờ đi như không biết gì. Bà thường nhờ Cưu khi thì
quét tước, lúc bổ củi giúp, rồi giữ Cưu cùng ăn cơm với cả nhà. Năm tôi vào cấp
ba thì Cưu đi bộ đội. Năm 1969 tôi trọ học ở Đình Bảng (Bắc Ninh), một buổi
trưa ngủ mơ thấy Cưu đứng trước mặt tôi nói “Tao chết rồi”. Tỉnh dậy tôi còn
bàng hoàng. Mấy năm sau mới có giấy báo tử của Cưu gửi về địa phương kèm thông
báo Cưu được truy tặng Huân chương chiến công.
Cùng học cấp hai với tôi có chị Liên, người cùng xã. Tôi và chị
rất quý nhau. Chị nhận tôi là em kết nghĩa. Bố chị là ông địa chủ Khuyến, bị bắn
hồi cải cách. Bố tôi vốn có thời đi ở và làm thuê cho ông Khuyến. Hôm chính quyền
xã tổ chức đấu tố ông Khuyến, đội cải cách cứ yêu cầu bố tôi lên đấu tố ông. Bố
tôi kiên quyết không nghe. Ông nói:
- Ngày ấy không có địa chủ Khuyến thì không biết tôi có còn sống
không. Nhờ ông Khuyến mà tôi có việc làm, có cái ăn mà sống đến giờ. Người ta cứ
tố điêu cho ông. Tôi không thể làm việc thất đức như vậy.
Quả nhiên sau đó có công văn của tỉnh gửi về ân xá cho ông
Khuyến. Tiếc là công văn về không kịp.
Từ khi lên cấp ba, chúng tôi phải học ở Xuân Thuỷ, cách nhà
tôi tới 6 km. Sáng sáng bọn trẻ Đông Thành tập trung ở nhà tôi, khi đủ mặt mới
đi bộ tới lớp. Dì Ngát, dì Tý, Loan, Ngọc, Thuý là 5 cô gái học với tôi suốt ba
năm cấp ba. Bọn con trai có Nghĩa gù, Chiến béo, Bũng, Phái, Giác, Tuấn, Hiếu,
Đỗ Tý. Hết năm lớp 8 thì Chiến đi bộ đội,
sau chuyển ngành làm cán bộ tổ chức Bệnh viện Giao Thuỷ. Giác hy sinh ở miền
Nam. Hết lớp 10 thì Tuấn, Hiếu đi làm ở xưởng đóng tàu thuyền Nam Định. Hiện
nay Hiếu về quê nuôi gà công nghiệp. Tuấn mất vì bệnh ung thư. Bũng đi bộ đội,
rồi chuyển ngành về Xuân Thuỷ. Bũng từng giữ chức Phó chủ tịch huyện Xuân Trường.
Phái đi bộ đội, đóng lon Trung tá thì mất vì ung thư. Nghĩa học xong Tổng hợp
văn thì về Viện Ngôn ngữ, rồi đỗ Tiến sĩ, lấy vợ Hà Nội. Đỗ Tý vào Đại học Bách
khoa, ra trường làm tới Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty cơ khí xây dựng Hà Nội.
Vợ Tý là Hà cùng học cấp ba, nguyên kỹ sư nông nghiệp Sở Nông nghiệp Nam Định
nghỉ hưu sớm theo chồng về Hà Nội. Năm 2015 Tý mất đột ngột. Tôi vào Đại học
thư viện. Dì Tý, dì Ngát tôi và Loan, Ngọc
đều vào Sư phạm, đi dạy học. Dì Tý dạy Địa lý cấp ba Giao Thuỷ, dì Ngát dạy cấp
hai Nam Điền (Nam Trực), Loan dạy văn cấp ba Xuân Trường B, Ngọc dạy văn cấp ba
Hải Hậu A. Riêng Thuý đi Đại học nông nghiệp, ra trường đi miền núi mãi sau mới
chuyển về được Giao Thuỷ.
Ngoài số bạn học cùng xã, tôi còn chơi thân với Đường (Xuân
Nghĩa), Hiểu, Hà (Xuân Kiên). Vì bố là địa chủ nên Đường không được đi đại học,
ở nhà làm ruộng. Hiểu học xong lớp 10 cũng ở nhà làm nghề thợ mộc. Hà đi đại học
nông nghiệp về công tác ở Sở Nông nghiệp Nam Định, rồi lấy Đỗ Tý.
Năm lớp 10, tôi được chọn vào đội tuyển giỏi văn của trường.
Các vòng thi từ trường, miền tới vòng sơ tuyển cấp tỉnh, tôi đều đứng thứ nhất,
thứ nhì. Đến vòng chung khảo tỉnh thì tôi bị loại vì đề văn hỏi về văn học dân
gian, chúng tôi chưa được thày dạy văn bồi dưỡng. Thày dạy văn tôi là thày Bùi
Hoàng Kim. Ông thuộc dạng người sống thiên về nội tâm, giàu tình cảm. Ông thường
hay đi thăm các gia đình học sinh và sống chan hoà, giản dị. Chúng tôi rất quý
ông còn vì ông yêu văn nghệ. Ông thường chủ trì các tiết mục của lớp tôi dự thi
với trường. Ông khen tôi thổi sáo khá hay. Trong học bạ của tôi ông còn ghi rõ
là “Có năng khiếu sáo trúc”. Năm 1967 ông dẫn tôi cùng đoàn văn nghệ của trường
đi Hội diễn văn nghệ do Ty giáo dục tổ chức ở Lý Nhân. Tiết mục sáo trúc của
tôi được giấy khen. Năm 1998, ông mất ở Nam Định.
Năm lớp 10, chúng tôi phải trọ học ở Xuân Thuỷ. Tôi và Đỗ Tý
trọ chung nhà. Hàng tuần chúng tôi về nhà lấy gạo, củi đưa lên nơi trọ. Có lần
u tôi đội bó rơm lớn, tay dắt cô Hà lên chơi với tôi. Mỗi tuần u tôi cho tôi 6
bơ gạo (khoảng 4 - 5 kg). Củi và thức ăn mặn mang ở nhà đi dùng cả tuần. Chúng
tôi chỉ phải mua rau hàng ngày. Một bận về đột xuất, bắt gặp cả nhà tôi ăn độn
toàn củ chóc và khoai, tôi giật mình. Hoá ra tôi vô tâm nhận sự quan tâm hết
lòng của u tôi. Dì Mùi bảo nhỏ cho tôi biết là cán bộ phòng thuế tịch thu gánh
hàng sắt của nhà tôi vì bố U tôi trốn thuế. Bố tôi phải bỏ đi than tàng kiếm sống
cả năm trời. Đỗ Tý bàn với tôi, mỗi tuần mỗi người chỉ ăn ba bơ gạo, để giảm bớt
gánh nặng cho u tôi.
Năm 1968, chúng tôi thi tốt nghiệp, đề lịch sử coi như không
tính vì đề ra có vấn đề. Tý và tôi đều là học sinh giỏi nên cả hai được nhà trường
cho làm lý lịch xét đi học nước ngoài. Tý là con gia đình liệt sĩ nên xã cho đủ
hai lý lịch và đồng ý cho đi nước ngoài. Tôi bị ông Vinh phó chủ tịch xã phê
vào lý lịch là “Mẹ buôn gian bán lậu, gia đình chưa có ai tham gia bộ đội nên
không đồng ý cho đi đại học”. Năm ấy nhà nước ta xét tuyển đại học mà không tổ
chức thi. Khi có kết quả thi tốt nghiệp thì Tý bị điểm toán thấp nên phải học
trong nước. Người ta xếp Tý vào Đại học Bách khoa. Tôi toàn điểm 4 và 5 nhưng lại
không được chính quyền đồng ý cho đi học nước ngoài. Ngày ấy chủ nghĩa lý lịch
còn nặng nề lắm. Chờ đến hết tháng 10 - 1968 mà chẳng thấy được gọi đi học trường
nào, tôi buồn rũ rượi. Bố tôi đạp xe 60 cây số lên tận Lý Nhân (nơi cơ quan tỉnh
sơ tán bấy giờ) tìm gặp ông anh vợ (anh bà vợ cả của bố tôi) là bác Lê Văn Lễ
làm Phó ty Văn hoá nhờ giúp đỡ. Bác Lễ sang hỏi ban tuyển sinh. Cán bộ ban tuyển
sinh nể bác nhưng tìm mãi không thấy tên tôi ở trường nào, họ mới lục tìm trong
đống hồ sơ không cho đi học thì thấy hồ sơ của tôi. Nhờ chuyện này mà bố tôi biết
xã phê lý lịch cho tôi như kể trên. Bác Lễ đảm bảo lý lịch nhà tôi là thành phần
tốt và đề nghị Ban tuyển sinh xắp xếp cho tôi đi học. Người ở Ban tuyển sinh bảo
chỉ còn Đại học nông nghiệp và Cao đẳng thư viện là đang tuyển người. Bác Lễ
quyết định cho tôi đi học thư viện. Sự kiện này quyết định cuộc đời tôi gắn bó
với nghề thư viện sau này. Bác Lễ hứa khi tôi học xong sẽ nhận tôi về làm việc
với bác. Nhưng tôi phải bỏ dở học để đi bộ đội. Hơn chục năm sau tôi mới chuyển
ngành về Hà Nam Ninh thì bác Lễ đã nghỉ hưu và mất.
Tháng 11 - 1968, có giấy gọi tôi nhập học. U tôi chạy vạy vất
vả để lo cho tôi có các tư trang cần thiết. Hồi ấy, tôi chưa từng có một cái quần
Tây và áo sơ mi trắng. Ba bộ quần áo cũ của tôi đều là quần giải rút, áo tứ
thân nhuộm nâu. Năm ấy Trần Phú Câu là bạn học cùng xóm có lệnh đi bộ đội, Câu
đã nhượng lại cho tôi cái quần Tây cạp liền ka ki với giá rẻ. Tôi mừng như bắt
được vàng. U tôi mua thêm cho tôi cái mũ lá. Thế là đủ tư trang nhập học. Nhân
có xe com măng ca của ông Việt Hùng - người cùng thôn làm Cục trưởng cục đường
bộ về chơi, U con tôi xin đi nhờ lên Hà Nội. Ngày ấy đường xá đâu có tốt như
bây giờ, phương tiện giao thông lại vô cùng khó khăn, nên được ông Việt Hùng đồng
ý cho đi nhờ, U con tôi mừng lắm. Xe xuất phát từ 6 giờ chiều, mãi nửa đêm mới
tới Hà Nội. Tôi say xe lả lướt, nôn suốt dọc đường. Ông Việt Hùng nhiệt tình giữ
u con tôi nghỉ lại nhà ông. Sáng hôm sau, từ tinh mơ, u con tôi đã đi bộ ra bến
Nứa, định đi ô tô sang Yên Viên bắt tàu hoả đi Bắc Giang, nhưng xếp hàng tới
chiều vẫn không mua được vé xe, u con tôi quyết định đi bộ 12 km sang ga Yên
Viên. Tại ga Yên Viên, u con tôi xếp hàng mất hai ngày mới mua được vé đi Bắc
Giang. Trong khi chờ tàu ở Yên Viên, tôi gặp chị Yến (người Nam Trực), Toàn, Yến,
Chơi và cái Vinh (người Thái Bình) cùng vào đại học thư viện với tôi. Thằng
Toàn ít hơn tôi một tuổi, có bố dẫn đi, trông nó như trẻ con. Chúng tôi nhập hội
với nhau cùng đi Bắc Giang. Tới ga Bắc Giang, trời vừa sáng. Cả bọn lại dắt díu
đi bộ dọc theo đê sông Thương, gần 20 km mới tới Hồng Phong, Yên Dũng - Nơi trường
thư viện sơ tán. Chúng tôi được cán bộ nhà trường bố trí ở khu nhà khách, chờ
phân bổ vào ở nhờ nhà dân. Sáng hôm sau, U tôi
cùng một số phụ huynh khác đi bộ ra ga Bắc Giang về quê. U tôi dặn dò
tôi từng ly từng tý, rồi dúi cho tôi 70 đồng. Bấy giờ 70 đồng là số tiền không
nhỏ, hơn cả tháng lương của trưởng phòng cấp huyện. U tôi về rồi, tôi buồn ngơ
ngẩn.
Tôi được phân công cùng Châu (người Thanh Hoá) và Bút (thành
phố Nam Định) ở nhờ nhà bác Phong. Hai vợ chồng bác đông con nên nhà rất nghèo.
Ngôi nhà của bác lợp lá lúp xúp trên sườn đồi bạch đàn. Ba thằng chúng tôi ngủ
chung một chõng tre, cùng một tổ học tập. Châu giọng trọ trẹ, tính thẳng thắn,
không biết cách nói khéo, tính lại chi li vì Châu đã lấy vợ nên phải lo kinh tế
gia đình. Tôi chưa có kinh nghiệm sống nên không thích Châu. Trái lại với Châu,
Bút rất khéo nói, phong cách hào hoa kiểu thành thị nên tôi rất thân với Bút.
Hai chúng tôi như hình với bóng, ăn chung, tiêu tiền chung, ngủ chung, dùng
chung va li. Còn Châu thì một mình thui thủi, lặng lẽ. Sau này ra công tác, khi
biết tin Châu mất đột ngột ở Thanh Hoá, tôi cứ ân hận mãi về sự lạnh nhạt của
mình với Châu trong năm học thứ nhất.
Tháng đầu tiên nhập học, chúng tôi lao động xây dựng trường.
Ngày hai bữa trưa và tối, chúng tôi luân phiên nhau trực nhật: đi lấy cơm cho cả
tổ, ngày chủ nhật giúp nhà bếp nấu cơm. Đang ăn sáng và trưa, lại được ăn no,
giờ ăn trưa và tối, lại chỉ có một nắm mì hấp và lưng bát cơm, tôi luôn trong
tình trạng đói. Có hôm trực nhật gánh cơm qua đồi bị ngã, lại phải nhịn ăn. Tôi
và Bút ăn quà hàng ngày. Lúc đầu chỉ có 1 hào 1 quả trứng, sau tăng giá lên ba
hào. Bọn học sinh tức khí, nửa đêm ra đốt quán của mấy người hàng quà. Tính tôi
hào phóng, sau một tháng bao bạn bè ăn quà hết cả 70 đồng u tôi cho. Thương bọn
học sinh đói, bác Phong thường nấu cơm độn thêm nhiều sắn mời chúng tôi ăn.
Lớp tôi có 30 nam, 30 nữ. Tuy cũng bè phái, cũng có lúc giận
nhau, nhưng bao trùm tất cả là rất yêu quý nhau. Bút rất thích Hải vì Hải xinh
gái nhất nhì lớp. Tôi thường viết thư, làm thơ hộ Bút gửi tán Hải. Một lần sau
khi đọc bài thơ tôi viết hộ Bút gửi tỏ tình với Hải, ví Hải như hoa, Hải đã trả
lời Bút bằng một bài thơ lục bát, đại ý nói mình là hoa hồng đầy hương sắc và
kiêu hãnh chứ đâu phải loại hoa muống vô vị, đừng có động vào mà gai đâm chảy
máu tay.
Năm 1983 tôi chuyển ngành về Thư viện
tỉnh Hà Nam Ninh. Khi đó Hải và Bút đã lấy nhau và đã có hai con. Một lần sang
thăm Thư viện Nam Định, cậu Toàn phó giám đốc Thư viện Thái Bình, bạn học cùng
lớp đùa hỏi Hải:
- Bây giờ
bà có còn là hoa hồng nữa không?
Hải cười:
- Tôi ra hoa muống rồi.
Trong số bạn nữ ở lớp có mấy người tỏ ra thích tôi, nhưng tôi
lại chỉ thích có mình Khế. Hồi ấy, Khế gầy và xanh xao ốm yếu. Gặp Khế lần đầu,
tôi linh cảm cuộc đời mình sẽ gắn bó với Khế. Chúng tôi bắt đầu gần gũi nhau,
đi chơi với nhau thường xuyên hơn. Sau một tháng lao động, tôi đã quyết định ngỏ
lời yêu với Khế. Và thế là hai chúng tôi chìm đắm trong hạnh phúc và chịu bao
thiệt thòi đau khổ. Chuyện yêu nhau, tôi chẳng hề che giấu ai. Cô Nga chủ nhiệm
lớp gọi tôi lên gặp và ra điều kiện:
- Nếu cậu muốn học, thì thôi yêu. Nếu còn yêu đương vi phạm kỷ
luật nhà trường thì sẽ bị đuổi học.
Tôi cãi lại cô:
- Em không thấy có luật nào nhà nước cấm chúng em yêu đương.
Cô muốn đuổi thì đuổi, em không thể không yêu.
Cô Nga chỉ còn biết lắc đầu thất vọng. Cô chỉ đạo lớp họp hai
tối liền để kiểm điểm chúng tôi. Các vị cán bộ lớp, phân đoàn trưởng, Ban chấp
hành chi đoàn, tổ trưởng học tập được quán triệt tư tưởng trước, đã thi nhau
phân tích “tác hại của chuyện yêu đương” và thiên về đổ lỗi cho tôi. Khế thẳng
thắn tuyên bố:
-
Tôi yêu anh Giống. Cảm ơn các đồng chí đã nói hộ tôi lời yêu.
Tôi như được tiếp thêm sức mạnh và quyết học giỏi để... cho bọn
nó biết mặt. Ý nghĩ sẽ sống trọn đời với Khế càng rõ rệt trong đầu. Kết quả là
ba năm tôi bị hạnh kiểm D và C. Vì thế, dù tôi toàn điểm khá giỏi nhưng vẫn
không được công nhận là học sinh tiên tiến. Sau này, dở năm thứ tư, khi tôi đi
bộ đội, cái án hạnh kiểm C mới được xoá bỏ. Chuyện tiên phong phá vỡ kỷ luật
nhà trường của chúng tôi thành chuyện xôn xao cả trường. Tôi hay làm thơ tặng
Khế, thơ bị lọt ra ngoài, nhiều người thuộc và còn nhớ đến bây giờ. Khi đã là
ông, là bà, gặp nhau, bạn bè nhắc lại chuyện xưa của chúng tôi như là một kỷ niệm
đẹp. Lê Thanh Tình - Hiệu phó Đại học Văn hóa, một lần về Nam Định công tác đã
đến thăm tôi. Ôn lại chuyện ngày xưa, Tình đọc câu thơ của tôi:
- …“Tên chua như Khế thế mà vẫn say”…
Tôi và chị Yến (người Nam Trực) kết nghĩa chị em với nhau. Khi
chị về nhà tôi chơi, thấy chị ăn mặc xuềnh xoàng, U tôi mua tặng chị hai mét vải
may áo. Tình cảm của chị và tôi ngày càng thân thiết. Tôi thực sự quý chị như
em trai quý chị gái. Một buổi sáng, từ tinh mơ, Khế hớt hải báo tin cho tôi biết:
- Chị Yến
làm sao ấy. Chị cứ chửi em cướp em trai của chị ấy. Anh đến ngay xem sao.
Tôi hoang mang theo chân Khế tới nhà
trọ của Khế và chị Yến. Vào nhà, thấy chị Yến phờ phạc, xanh xao, đang ngồi bó
gối trên giường, ánh mắt thất thần, tôi lặng lẽ ngồi xuống bên chị. Chị ôm chặt
tôi vào lòng, miệng cứ lầm bầm “em yêu của chị”. Tôi chỉ biết ngồi im trước sự
ngạc nhiên của những người xung quanh. Lúc sau chị Yến mới nằm xuống nghỉ. Các
bạn cùng lớp đưa chị Yến đi bệnh xá. Sau gần một tháng nằm bệnh xá, chị Yến khỏi
tâm thần. Cậu Yến người Thái Bình tỏ tình với chị. Chị nhận yêu Yến. Nhưng thằng
Yến chỉ lợi dụng chị mà không thực sự yêu chị. Đến mãi sau này, khi gặp lại thằng
Yến đã là Phó Giám đốc Sở Văn hoá Thái Bình, tôi vẫn còn ghét nó. Chị Yến về
công tác ở Thanh Hoá, lấy chồng ở đó. Năm 1985, tôi chuyển ngành về công tác tại
thư viện Hà Nam Ninh. Một lần đi công
tác ở Thanh Hoá tôi đã đến thăm chị. Gặp tôi, chị mừng rỡ như chị gái gặp em
trai ruột vậy. Chị kêu các con chị gọi tôi là cậu. Thấy áo đại cán của tôi có
cái cúc sắp đứt, chị bắt tôi đưa chị đơm lại. Cử chỉ âu yếm của chị làm tôi cảm
động. Tôi cảm nhận được tình cảm chân thành của chị. Dịp về thăm quê, chị tạt
qua thành phố Nam Định thăm vợ chồng tôi. Chị cứ thương vợ chồng tôi túng bấn.
Chị để mấy bơ gạo nếp cho các con tôi. Chắc là gạo các cụ ở quê cho chị.
Vợ chồng bác Phong chủ nhà tôi trọ rất quý tôi và Khế. Hai bác
thường vun vào cho hạnh phúc của chúng tôi. Tôi thực lòng biết ơn hai bác. Lần
về thăm nhà đầu tiên, tôi nghĩ mãi không biết mua gì làm quà cho hai bác. U tôi
mua đôi chiếu cói đẹp, bảo: “Vùng núi thì chiếu cói là quý”. Quả nhiên, hai bác
rất mừng khi nhận đôi chiếu tôi biếu. Thấy hai bác vui, tôi cũng vui lắm. Hoá
ra, đem lại niềm vui cho người khác thì mình cũng hạnh phúc thật.
Hết
năm thứ nhất, chúng tôi chuyển trường về thôn Long Vĩ, làng Đình Bảng thuộc Bắc
Ninh. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp gặp lại bác Phong, nhưng tôi vẫn nhớ về hai
bác.
Năm 1969, Cường người Nam Định và Đê người Hải Dương trúng bộ
đội. Tôi không trúng tuyển bộ đội đợt này vì chỉ nặng có 38 kg. Sau này tôi có
gặp Đê ở chiến trường Quảng Trị trên đường hành quân. Khi tôi chuyển ngành về
trường thì Đê cũng ra quân, học tiếp và về công tác ở Hải Dương một thời gian rồi
về hưu non. Còn Cường thì chỉ nghe nói ra quân công tác ở thư viện huyện Mỹ Lộc
(Nam Định) mấy năm rồi theo vợ vào Nam.
Bố tôi nghe tin tôi có thể phải đi bộ đội, ông đã đi bằng xe đạp
từ nhà lên Hà Đông tìm gặp anh Tuất con bác Liêm đang công tác ở nhà máy cơ
khí, rủ anh cùng sang Bắc Ninh thăm tôi. U tôi gửi cho tôi bánh quà, bắt bố tôi
mang theo cả hai con gà nữa. Được biết chắc chắn tôi không đắt bộ đội, bố tôi mới
yên tâm đạp xe về. Ngày tôi trả phép năm thứ nhất, bố tôi đèo tôi bằng cái xe đạp
trâu Liên Xô lên Nam Định, rồi đi tàu hoả lên Hà Nội. Từ Hà Nội bố tôi lại chở
tôi bằng xe đạp lên tận Yên Dũng.
Sang năm thứ hai, lớp tôi rộ lên phong trào yêu đương. Cậu Trần
Lý yêu Xuyên, anh Phan Tứ yêu Hoàng Lý, Bổng yêu Vinh, Tình yêu Thành... Các
đôi yêu nhau ngày ấy, có đôi thành công, có đôi không thành. Các đôi đã cưới được
nhau như vợ chồng tôi là Tứ - Lý, Trẩm - Lan, Bút – Hải, Bổng - Vinh. Cũng như
tôi ngày ấy, các đôi lần lượt được đưa ra toà án lớp xét xử. Trong các buổi kiểm
điểm tôi không phát biểu gì. Những người phát biểu không còn cái hăng hái như
ngày kiểm điểm tôi và Khế, vì họ là sinh viên thường. Những người bị kiểm điểm
lúc này lại toàn là cán bộ lớp, cán bộ đoàn đã từng chỉ trích tôi gay gắt trước
đây. Tuy vẫn bị hạnh kiểm xấu, nhưng chẳng ai coi chuyện yêu đương là đáng
trách cả. Dư luận nhà trường gọi lớp tôi là lớp “K xấu” thay vì phải gọi đúng
tên là K6. Vợ chồng tôi thành những kẻ tiên phong “tử vì đạo” và được công nhận
là đôi chung thuỷ và hạnh phúc nhất lớp.
Các đôi yêu nhau chúng tôi bày trò nấu ăn chung. Từng đôi sinh
hoạt ăn uống như một gia đình riêng. Một lần anh Tứ rủ chúng tôi đi ăn trộm
phên nứa che gạch của hợp tác xã về làm củi đun. Bị nhân dân phát hiện, nhà trường
kỷ luật, anh Tứ nhận hết tội về mình. Khi tôi đi bộ đội, anh Tứ được hoãn. Anh
cho tôi địa chỉ bà chị ở 35 Đinh Tiên Hoàng, thị xã Ninh Bình để khi tôi cần
giúp đỡ thì tìm tới. Sau này tôi về công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh, anh Tứ có
dịp đi công tác Thái Bình đã tạt qua thăm vợ chồng tôi. Anh Tứ từng là cán bộ
phong trào Sở Văn hóa Hà Nội, chuyển làm Giám đốc Quốc Tử Giám Hà Nội thay anh
Lộc (cán bộ Thư viện Hà Nam Ninh chuyển công tác lên Hà Nội) nghỉ hưu. Thời
gian như bóng câu qua cửa sổ. Hơn bốn mươi năm ngoảnh lại lớp Đại học ngày ấy,
các bạn Lê Thanh Tình, Trẩm, Châu, Khải, Yến, Lý, Hiền,… đã thành người thiên cổ.
Năm 1970 chúng tôi về Hà Nội. Năm học thứ ba qua đi với tôi vẫn
cái án hạnh kiểm xấu và không được tiên tiến dù toàn điểm khá giỏi. Tôi cũng lo
ra công tác sẽ gặp khó khăn vì hạnh kiểm kém, nhưng rồi tôi lại cho qua tất cả
vì luôn tự tin là mình không sai trái. Sang năm thứ tư, thi kết thúc 8 môn học
cuối cùng, có ba người đạt điểm vượt xa so với cả lớp là chị Liễu 65 điểm, anh
Chương và tôi đều 63 điểm. Hầu hết còn lại đạt trên dưới 40, 50 điểm. Tôi hy vọng
với điểm cao như thế hẳn sẽ có tương lai. Nhưng chưa kịp vào thời gian thực tập
thì tôi trúng bộ đội, và vì thế không được cấp bằng đặc cách như bọn bạn đi bộ
đội sau tôi ba tháng. Sự kiện đi bộ đội là bước ngoặt lịch sử làm thay đổi toàn
diện con người tôi và cuộc đời tôi.
“GÁC
BÚT NGHIÊN THEO VIỆC BINH ĐAO”
Thế là sau ba lần khám tuyển, mặc dù chỉ nặng có 39 kg và 3 lạng,
bác sĩ khám tuyển ghi tròn là 40 kg, tôi trúng bộ đội. Những năm 1970 - 1972 đi
bộ đội vào Nam chiến đấu rất ít hy vọng có ngày trở về, vì cuộc chiến vào hồi
ác liệt chưa từng thấy. Tôi không thấy vui, cũng chẳng buồn đến rã rời như một
số người khác cùng trúng bộ đội đợt này. Đối với tôi, đi bộ đội như là một việc
tất nhiên phải thế.
Lớp
K6 Đại học Thư viện năm thứ 4 chúng tôi có cả chục người được gọi nhập ngũ đợt
này, nhưng cuối cùng chỉ ba người nhận nhiệm vụ. Đó là Nguyễn Văn Thị, quê Hưng
Yên, rất giỏi tiếng Nga, người nhỏ thó. Thị bị thương trên đường tiến vào Quảng
Trị, phải ra Bắc rồi về học tiếp. Sau Thị làm Giám đốc Thư viện tỉnh Hưng Yên,
rồi đi xuất khẩu lao động, về nước học thạc sĩ thư viện, lại làm giám đốc thư
viện và nghỉ hưu. Người thứ hai là Nguyễn Văn Đủ, quê Thái Bình. Đủ hiền lành,
tốt tính. Đủ bị thương ở Ái Tử (Quảng Trị), ra Bắc học lại rồi về Thư viện tỉnh
Thái Bình. Là thương binh, bí thư chi bộ, nhưng bị người ta kèn cựa vùi dập, Đủ
phải bỏ nghề về quê. Người thứ ba là tôi, kẻ được bạn bè quen gọi là “Giống
còm”, từng ba năm liền bị hạnh kiểm D hoặc C và không được công nhận là Học
sinh tiên tiến mặc dù điểm thi và kiểm tra các môn toàn khá giỏi, chỉ vì cái tội
yêu đương. Chỉ khi tôi có lệnh nhập ngũ, cái án hạnh kiểm D dành cho tội yêu
đương mới được xóa bỏ.
Số
người trong danh sách phải đi bộ đội cùng đợt với tôi còn lại đã được hoãn, miễn
với các lý do thật xác đáng: người có điện bố chết, kẻ có giấy của y sĩ chứng
nhận là liệt dương, đứa hạnh phúc tan vỡ vì kẻ ở người đi...
Cả
trường có 10 người lên đường. Ngoài ba thằng K6 chúng tôi, còn có Đặng Hoàng
Song (K5), Lê Văn Thạch (K7), Cúc quê Đình Bảng (Bắc Ninh) lớp trung cấp thư viện
4, Bảo, Dũng, Hậu lớp trung cấp văn hoá quần chúng, và một cậu nữa tôi không nhớ
tên. Khi vào chiến trường, Đặng Hoàng Song được điều xuống đơn vị chiến đấu và
hy sinh. Lê Văn Thạch được đề bạt Trung đội phó Trung đội vận tải. Mấy tháng
sau có tin Thạch bị kỷ luật cho ra Bắc, học tiếp đại học. Cúc vào chiến trường,
đột ngột có lệnh ra Bắc. Sau này khi về học tiếp đại học, tôi nghe nói cả nhà
Cúc bị bom chết hết. Cúc ra Bắc về Đoàn quân nhạc thổi kèn. Sau Cúc xuất ngũ và
lấy vợ ở quê... Số bạn cùng trường đi bộ đội với tôi còn lại đến nay tôi không
được tin gì.
Đêm
5 - 9 - 1971 trường tổ chức liên hoan tiễn chúng tôi. Mọi người phát biểu cảm
tưởng và hứa hẹn với những lời có cánh. Đến lượt tôi, tôi chỉ nói một câu:
-
Tôi đi chiến đấu, dù chết cũng không đảo ngũ.
Lời
phát biểu cộc lốc của tôi làm mọi người bất ngờ. Tôi nhận được nhiều ánh mắt đồng
cảm của bạn bè và của cả những người tôi chưa từng quen biết. Một vị khách tự
nguyện đến đưa tiễn chúng tôi là chồng chị Dung cùng lớp tôi, phát biểu :
-
... Chúc Giống lập nhiều chiến công, viết lên những trang anh hùng ca. Và Khế sẽ
là người giới thiệu những trang anh hùng ca ấy...
Không ngờ lời nói văn hoa bay bướm của
anh làm tôi bị ám ảnh suốt những ngày chiến đấu ở Quảng Trị sau này. Có lẽ một
phần nhờ câu nói đó mà tôi không có gan hèn nhát.
Cuộc
liên hoan chia tay chúng tôi kéo dài đến khuya. Không ai muốn ra về trước. Sau
buổi liên hoan, các chàng lính tương lai rủ nhau mang sách vở ra đốt. Chẳng hiểu
sao ngày ấy chúng tôi lại làm thế. Có người bảo đốt sách để tỏ rõ quyết tâm đi
chiến đấu. Tôi không nghĩ được như thế, thấy bạn rủ đốt thì đốt thôi. Thấy
chúng tôi đốt sách, anh Hoàng Chương cùng lớp tôi xin lại tất cả vở ghi của
tôi. Anh bảo vở của tôi ghi rất đầy đủ và đẹp, còn của anh thì ghi chẳng đâu
vào đâu. (Lạ thật, tôi được mệnh danh là “vua ngủ gật” trên lớp mà vở lại ghi đủ
và đẹp?). Tôi đi bộ đội thì không cần đến nữa, nhưng anh thì cần. Tôi tặng anh
tất cả sách vở chưa kịp đốt của mình. Sau này, khi tôi rời quân ngũ về trường học
tiếp, anh Chương đã là giảng viên dạy Mỹ học.
Đêm
ấy, chúng tôi thức trắng. Khế lặng lẽ ngồi bên tôi, tranh thủ khâu cho tôi cái
túi đựng đồ đánh răng. Tôi tiếc là không được học hết đại học, nhưng biết làm
sao, trai thời loạn mà. Nghĩ đến những tháng năm tới phải xa Khế, tôi nôn nao
trong lòng. Nói dại, nếu tôi không trở về được, Khế sẽ ra sao? Dường như hiểu
những suy nghĩ của tôi, Khế thì thầm:
-
Dù anh có làm sao thì em vẫn yêu, vẫn đợi.
Tôi
ôm xiết Khế vào lòng, cảm nhận rõ hơi ấm và tình yêu của Khế. Chúng tôi cứ ngồi
bên nhau như thế, không còn khái niệm thời gian. Khi Đủ gọi lên Hội trường tập
trung, tôi bừng tỉnh.
Hôm
ấy là ngày 6 - 9 - 1971.
Sáng
sớm, bố tôi từ quê lên tiễn tôi. Để kịp sáng nay tiễn con trai lên đường, bố
tôi phải đi từ chiều hôm trước, tới Nam Định thì đi tàu đêm. Trông thấy tôi,
ông không nói gì, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt buồn sâu lắng. Lần đầu tiên tôi nhận
ra rằng bố tôi rất yêu tôi. Anh Tuất con bác Liêm ở quê đang làm công nhân cơ
khí trong Hà Đông và Đỗ Tý, bạn thân cùng học với tôi từ nhỏ, hiện là sinh viên
năm thứ tư Đại học Bách khoa, cũng đến tiễn tôi.
Người
tiễn chúng tôi khá đông. Tôi không nghe rõ những bài phát biểu của lãnh đạo trường,
không nghe rõ những lời chúc tụng của bạn bè. Một thợ ảnh lăng xăng chụp chúng
tôi. Không biết vì chụp hỏng, hay vì máy không có phim như có người bình luận
mà không bao giờ chúng tôi được nhìn thấy tác phẩm của anh ta. Khi xếp đội hình
để người ta chụp ảnh, thấy mắt anh Đặng Hoàng Song đỏ ngầu, gỉ mắt hoen trắng,
tôi kéo tay áo lau cho anh. Anh Song ôm chặt hông tôi, người anh run bần bật
như bị sốt rét. Đặng Hoàng Song vừa nhận bằng tốt nghiệp và quyết định giữ lại
trường làm giảng viên, chuẩn bị cưới chị Lâm cùng lớp. Chưa được lên bục giảng
lấy một lần, Đặng Hoàng Song đã nhận quyết định nhập ngũ.
Đến
giờ xuất phát, 10 chiến sĩ tương lai chúng tôi lên xe com - măng - ca. Xe chuyển
bánh. Cả lớp tôi vẫy tay. Đỗ Tý và anh Tuất nắm tay tôi thật chặt. Bố tôi nghẹn
ngào:
-
Con đi!
Tôi
cố tạo nụ cười để bố tôi yên lòng:
- Bố
giữ gìn sức khỏe chờ con trở về. Nhất định con sẽ về... Bố nói với u con như thế
bố nhé!
Khế
chạy theo xe, nước mắt tràn mi, cố níu tay tôi. Tôi thầm gọi trong lòng:
"Khế ơi!" và căng mắt nhìn thu lấy hình ảnh những người thân cho tới
khi không còn nhìn thấy gì nữa.
Xe
qua Khâm Thiên, chợ Mơ rồi tới Lĩnh Nam. Phố xá ồn ào bỗng thấy thân quen xiết
bao. Chúng tôi ai nấy im lặng suy tư. Tôi rụt rè đề nghị: "Hát lên!"
cho... khí thế và cất giọng không tự tin lắm hát "Giải phóng miền
Nam". Một người hát theo, hai người, rồi cả 10 người cùng hát. Những người
đi đường dừng lại vẫy chào chúng tôi. Một cảm xúc dạt dào rất lạ dấy lên trong
lòng...
Tới
địa điểm giao quân, chúng tôi được biên chế thành một tiểu đội. Tiểu đội trưởng
tên là Chít, người Vĩnh Linh, rất trẻ. Anh Song là Đảng viên, được phong chức
Tiểu đội phó. Mỗi người được phát hai bộ quần áo, khăn mặt, giày vải và dép cao
xu, ba lô, mũ và một số thứ khác trang bị cho cá nhân. Chúng tôi không khỏi ngỡ
ngàng khi mặc bộ quần áo rộng khác hẳn bình thường, cứ nhìn nhau không nín được
cười.
Trong
khi chờ tổ chức biên chế, chúng tôi học điều lệnh đội ngũ, xạ kích. Chưa quen với
nếp sinh hoạt của người lính, tôi rất mệt, nhưng vẫn cố hết sức để theo kịp đồng
đội. Trong tiểu đội, tôi là người gầy yếu nhất.
Nhớ
lớp, nhớ người yêu đến cồn cào trong dạ. Có hôm, tôi cùng Đủ và Thị kéo nhau ra
chỗ khuất ôm nhau khóc thút thít như trẻ con. Cuối tháng tổng kết, tôi được biểu
dương vì có tinh thần cố gắng học tập, được đơn vị thưởng phép ngày chủ nhật.
Tôi đi bộ về trường ngay sau khi sinh hoạt tối xong. Nửa đêm, cả phòng tập thể
nữ thức dậy vui mừng đón tôi. Các bạn nữ dồn người nằm chung giường, dành cho
tôi và Khế một giường. Suốt ngày hôm sau chúng tôi ở bên nhau. Mới xa lớp một
tháng mà tưởng như đã một năm rồi. Bạn bè tíu tít hỏi han, chăm sóc. 5 giờ chiều
tôi lại đi bộ về Lĩnh Nam (Thanh Trì) để kịp điểm danh buổi tối. Thời gian bên
người thân đi nhanh như ngựa phi.
Tháng
10 - 1971 tổ chức biên chế xong, đơn vị hành quân về Yên Thế (Bắc Giang). Đại đội
tôi đóng quân ở xóm Cầu Đá, xã Tân Tiến. Ngày ngày rèn luyện xạ kích, đội ngũ,
tập đeo nặng đi bộ... Cùng đại đội tôi có họa sĩ Lê Duy Ứng rất hay hát bài hát
về hoa chăm pa, sau đi chiến trường Ứng bị đạn vào mắt đã dùng máu vẽ chân dung
Bác Hồ... Ngày chủ nhật, có lần chúng tôi rủ nhau thăm nhà văn Nguyên Hồng,
nghe ông nói về văn chương.
U tôi và em Đằng lên thăm ba ngày. U
tôi gầy yếu lắm, nhưng bà yêu tôi nhất trên đời nên bà đủ sức đi bộ hàng trăm
cây số. Tôi đưa U và em Đằng vào thăm bác Vang, chị Mận và cô Giốc. Cô Giốc là
con nuôi của bà nội tôi. Bác Vang và cô Giốc bỏ quê lên vùng kinh tế mới Yên Thế
từ năm 1960.
Tháng 12 - 1971, tiểu đoàn 19
(sinh viên) thuộc Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 chuyển quân về Quế Võ và kiện toàn
tổ chức. Hầu hết quân số thuộc trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa được điều về
Trung đội vệ binh của Trung đoàn. Anh Đặng Hoàng Song K5 về làm tiểu đội phó vệ
binh.
B
trưởng Trung đội vệ binh là anh Từ, người Thanh Hoá, lớn tuổi. B phó là anh Lục
người Tây Nguyên. Sau vào Quảng Trị anh Lục hy sinh trên đường công tác. B trưởng
lên làm Phó Trưởng ban hành chính rồi hy sinh. Tiểu đội trưởng Nguyễn Đình Dần,
người Thanh Hoá lên B trưởng. Tiểu đội trưởng Nguyễn Minh Châu người Thạch Hà (Hà
Tĩnh) lên làm B phó. Tiểu đội phó Nguyễn Văn Sánh, người Hà Tĩnh lên Tiểu đội
trưởng. Tôi cũng được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Nhưng đấy là sau này, còn bây
giờ chúng tôi chuyên lo xe than, vác gạo, canh gác bảo vệ các thủ trưởng và cơ
quan đầu não trung đoàn.
Tôi thường tâm sự với anh Ổn về
chuyện tình yêu, chuyện học hành. Anh Ổn là thạc sĩ, giảng dạy ở Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, có bệnh đau dạ dày rất khổ. Nghe đâu người ta điều anh đi bộ
đội vì anh yêu một cô học sinh và cô này có thai. Sau vào chiến trường, anh Ổn
được điều về Sư đoàn bộ làm trong bộ phận cơ yếu hay cơ công gì đó...
Tết đầu tiên xa nhà, chúng tôi ở đồi
bạch đàn. Đơn vị tắt bếp để toàn thể cán bộ, chiến sĩ vào dân ăn tết ba ngày.
Tôi tình nguyện trông trại cho mọi người vào dân ăn tết. Nói không ai tin, ngày
mồng một tết, tôi đói mềm cả người cho tới khi có hai cô gái làng tình cờ qua
doanh trại tặng cái bánh chưng nhỏ.
Sau
tết, tôi được cử đi học 1 tháng lớp “quản ca” do Tổng cục Chính trị tổ chức ở Bắc
Giang. Chúng tôi được học nhạc lý, trình độ “ký âm pháp”. Kết thúc lớp, hai bài
hát đơn ca báo cáo của tôi là “Tôi là Lê anh nuôi” và “Đảng đã cho tôi sáng mắt
sáng lòng” được xếp loại khá. Sau này, hai bài đó trở thành “tủ” của tôi trong
hội nghị và những đêm văn nghệ của đơn vị. Ngón “đệm sáo ngâm thơ” và độc tấu
sáo trúc “Lý hoài nam” của tôi được sử dụng không biết bao nhiêu lần trong các
đêm văn nghệ và những khi hành quân.
Trong
thời gian tôi học lớp văn nghệ ở Bắc Giang, Khế lên thăm. Cả đêm chúng tôi
không ngủ, chỉ ngồi bên nhau, giữa trời sương lạnh và im lặng. Sáng sớm hôm sau
Khế ra tàu về Hà Nội kịp thi...
“VUI
DUYÊN MỚI KHÔNG QUÊN NHIỆM VỤ”
Trung
đoàn đi dã ngoại về Chí Linh (Hải Dương). Trung đội vệ binh đóng quân trên đồi
thông đền Côn Sơn, nơi ngày xưa Nguyễn Trãi từng ẩn dật.
Nghe
phong phanh chúng tôi chuẩn bị đi vào Nam, bố u tôi lên Hà Nội xin phép cho Khế
nghỉ học để cùng đi thăm tôi. Hai cụ đi bộ từ nhà lên thành phố Nam Định hơn ba
chục cây số, đi tàu hỏa lên Hà Nội, vào trường văn hóa xin phép cho Khế nghỉ học
đi cùng. Ba người đi ô tô khách lên Bắc Ninh, lại đi xe khách về Phả Lại rồi đi
xe đạp ôm về Sao Đỏ, từ Sao Đỏ thì đi bộ vào Côn Sơn.
Vừa
tới đơn vị, bố u tôi chưa kịp uống hớp nước đã bỏ Khế lại cho tôi rồi chủ động
đòi gặp bằng được thủ trưởng trung đoàn. Anh em vệ binh tình nguyện dẫn bố u
tôi lên gặp tham mưu trưởng trung đoàn. Khi gặp tham mưu trưởng trung đoàn, hai
cụ tha thiết đề nghị thủ trưởng trung đoàn cho phép tôi về cưới vợ trước khi đi
chiến đấu, để gia đình có người “nối giõi tông đường”.
Bộ
phận hành chính đơn vị bố trí cho Khế và bố u tôi nghỉ nhờ trong nhà dân một
đêm. Sáng sớm ba người lại đi bộ ra Sao Đỏ để về Hà Nội. Tôi rất muốn tiễn bố u
tôi ra Sao Đỏ, nhưng công việc đơn vị không cho phép. Nhìn u tôi gầy quắt queo,
chân bước liêu xiêu trên đường đồi, lòng tôi như thắt lại.
Một
tuần sau, Đại úy Tham mưu trưởng, người miền Nam (tôi không nhớ tên) cho gọi
tôi. Tôi lên gặp ông mà lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ngồi
cạnh cái bàn con, chăm chú ghi ghi chép chép lên cuốn sổ tay bìa bọc nhựa giả
da. Nhìn mặt ông nghiêm trang, da đen sắt, gầy lộ xương, tôi có cảm giác ông rất
khó gần. Chờ ông viết xong, bỏ bút xuống bàn, tôi mới lên tiếng:
- Báo cáo thủ trưởng, em có mặt ạ!
Ông
vẫy tay:
-
Vào đi! Ngồi xuống đây – Vừa nói ông vừa kéo cái ghế đẩu từ gầm bàn ra mời tôi
ngồi. Ông nói giọng Bắc rất chuẩn, có lẽ ông ở Bắc đã lâu.
Tôi
rụt rè ngồi ghé lên ghế, lí nhí thưa:
- Dạ!
Ông
bắt đầu hỏi tôi như thẩm vấn tội phạm:
- Đồng chí
có mấy anh em?
Tôi
hơi ngạc nhiên, sao thủ trưởng lại hỏi về chuyện gia đình tôi vậy nhỉ? Tưởng
ông giao cho nhiệm vụ gì, hay là chấn chỉnh tư tưởng tôi vì gần đây tôi có tư
tưởng diễn biến không an tâm... Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn cố giữ giọng bình thường
trả lời ông:
- Dạ!
Bố mẹ em có 5 người con ạ!
- Mấy
trai?
- Dạ!
Bốn ạ!
- Mấy
người đã xây dựng gia đình?
- Dạ!
Chưa có ai ạ!
- Đồng
chí là thứ mấy?
- Dạ!
Em là con trưởng ạ!
-
Người yêu đồng chí làm gì? Bao nhiêu tuổi?
- Dạ!
Cô ấy đang thi tốt nghiệp đại học ạ! Cô ấy 23 tuổi rồi ạ!
-
Có đẹp không?
Tôi
tưởng nghe không rõ, nên hỏi lại:
- Dạ!
Thủ trưởng bảo sao ạ?
Ông
nói rõ từng tiếng:
-
Cô - ấy – có – đẹp – không?
- Dạ!
Với em thì cô ấy đẹp nhất trên đời ạ!
Tôi
mạnh dạn lấy từ túi áo ngực tấm ảnh chụp chung tôi và Khế ngày tôi mới nhập ngũ
cho ông xem. Ông nhìn chăm chú một lát rồi đưa lại cho tôi, bảo:
-
Trông cô bé già dặn hơn đồng chí. Không nên để cô ấy đợi lâu hơn... Thôi đồng
chí về đi!
Tôi
đứng dậy, giơ tay lên ngang tai chào ông:
- Dạ!
Xin phép thủ trưởng, em về ạ!
Hai
ngày sau, trưởng ban hành chính gọi tôi sang lều bạt của anh, đưa cho tôi giấy
nghỉ phép 15 ngày và bảo:
- Đồng
chí về thu xếp giao lại súng đạn cho trung đội, cầm tờ giấy này sang quân nhu lấy
ba tút thuốc Đrao và về giải quyết việc gia đình. Đúng hạn phải lên đơn vị
ngay. Do điều kiện đơn vị không cử người về dự đám cưới của đồng chí được, thay
mặt ban hành chính và trung đội vệ binh, tôi chúc mừng hạnh phúc đồng chí.
Nói
rồi ông đưa cho tôi một gói gồm 5 tút thuốc lá Trường Sơn. Tôi mừng rú lên vì bất
ngờ, nói lời cảm ơn líu cả lưỡi. Khi tôi về lán trung đội vệ binh, mọi người đã
biết tin, râm ran chúc mừng, dặn dò tôi. Cậu liên lạc bảo:
-
Tham mưu trưởng bảo anh thu xếp cho gọn, rồi ra xe đơn vị đi nhờ về Hà Nội.
Đúng 16 giờ xe chạy.
Tôi
vội xuống quân nhu nhận thuốc lá đơn vị tặng rồi theo xe về Hà Nội. Suốt chặng
đường về Hà Nội, tôi vẫn còn không dám tin mình được về cưới vợ trong lúc đơn vị
chuẩn bị gấp rút để sẵn sàng đi B. Tôi định bụng hôm trả phép nhất định phải
nói lời cảm ơn tham mưu trưởng. Nhưng thật tiếc, dự định ấy không thực hiện được,
vì khi tôi trả phép tham mưu trưởng đã đi tiền trạm vào Nam, sau đó ông chuyển
đi đơn vị nào tôi không biết nữa.
Thời
gian này lớp K6 đang ôn thi. Thấy tôi về đột ngột đòi cưới, Khế không dám tin,
cứ cho là tôi nói đùa. Tôi làm mặt giận:
-
Em không tin, không cho anh cưới thì anh ra tàu đi luôn.
Nói
rồi tôi đeo ba lô phăm phăm đi ra ga Hàng Cỏ. Khi tới ga, tôi quay nhìn về phía
phố Khâm Thiên, thấy Nguyễn Xuân Đào - bạn cùng lớp tôi, gò lưng đạp xe về phía
ga. Đào không khó khăn gì để phát hiện ra tôi.
Đào bảo:
-
Lên xe, tao đèo về! Cái Khế nó đang khóc! Lớp sẽ tổ chức cho mày!
Nhìn
cái chân thọt của Đào, tôi bảo:
- Ừ,
để tao lai.
-
Không được! Ngồi lên đi! Tao lai được.
Khế
phải bỏ ôn để lo việc cưới, vì thời gian nghỉ phép của tôi rất ngắn. Sáng hôm
sau tôi và Khế lên gặp cô Nguyễn Thị Thuận (trưởng khoa, sau này khi tôi về học
tiếp thì cô Thuận đã là Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Văn hóa), báo cáo sự việc
và xin phép cho Khế nghỉ học về cưới. Khi biết ý định của chúng tôi, cô Nguyễn
Thị Thuận băn khoăn:
-
Các em đã suy nghĩ kỹ chưa? Cưới rồi, ngộ nhỡ em hy sinh thì Khế sẽ nhỡ
nhàng... Cô khuyên hai em không nên cưới vào lúc này, để Khế tập trung thi tốt
nghiệp cho tốt, để Giống đi chiến đấu không vướng bận thê nhi…
Tôi
không biết nói gì, ngồi im nghe cô nói. Nhưng Khế đã quyết:
-
Thưa cô, chúng em đã nghĩ kỹ rồi. Chúng em yêu nhau gần bốn năm, đã phải chịu đựng
thiệt thòi vì kỷ luật của nhà trường. Chúng em quyết tâm đi đến hôn nhân cô ạ.
Hai gia đình chúng em cũng mong như vậy.
Cô Thuận lắc lắc đầu, rồi lại gật gật
đầu và lặng lẽ viết giấy giới thiệu và giấy chứng nhận chưa xây dựng gia đình để
chúng tôi về quê đăng ký kết hôn và tổ chức lễ cưới.
Khế
ở lại thi, đến ngày cưới mới về.
Tôi
vội vàng ra tàu trưa về Nam Định. Thời chiến, đi tàu xe hết sức khó khăn. Tôi đứng
vào hàng rồng rắn trước ga Hàng Cỏ để mua vé tàu chợ về Nam Định. Gần hai tiếng
đồng hồ mới tới gần cửa bán vé thì họ lại tuyên bố hết vé. Tôi đành mua vé
ngoài đắt gấp ba lần. Tàu chật như nêm, hàng hóa xếp chật lối đi, hơi người ngột
ngạt. Tàu chạy chậm rề rề, ga nào cũng dừng, hơn 5 tiếng đồng hồ mới tới Nam Định.
Xuống ga, tôi đi bộ một mạch ra phà Tân Đệ. Về tới nhà Khế ở xã Phú Chử (Thư
Trì, Thái Bình) thì đã tối mịt. Cả nhà thấy tôi về đột ngột, tỏ ra ngạc nhiên.
Dì út Chanh và dì Đèo vui ra mặt, hỏi han tôi tíu tít. Hai cụ không nói gì, lặng
lẽ quan sát tôi. Chờ tôi ăn xong bữa, cụ ông bảo:
-
Anh đi đường mệt rồi, con Đèo thu dọn giường cho anh nghỉ. Có gì mai nói.
Lúng
túng mãi không biết mai trình bày với hai cụ ra sao, tôi thao thức đến gần sáng
mới thiếp đi. Buổi sáng, tôi cứ ra ra vào vào, ngồi đứng không yên. Đầu óc tôi
quay cuồng nghĩ cách thưa thế nào với hai cụ. Dì Chanh đào giun, rủ tôi ra ao
câu cá. Tôi buột mồm bảo dì:
- Kỳ
này anh về xin cưới chị Khế...
Dì
Chanh kêu tướng lên:
- Mẹ
ơi! Anh Giống bảo về cưới chị Khế đây này.
Mẹ
đứng ở bên bậu cửa nhà cười bảo:
- Muốn cưới
thì về mời bố mẹ sang đây!
Nghe thế, tôi vội bỏ cần câu lại bờ
ao, đeo ba lô, nói với hai cụ:
- Con xin phép... bố mẹ, con về Nam Định...
Tôi đi như chạy gằn một mạch sang Nam Định. Qua phà Tân Đệ, lại
đi bộ qua phà Đò Quan, vào bến xe xếp hàng mua vé đi Giao Thủy. Chiều tôi về tới
nhà. Bố U tôi mừng rỡ chạy đôn đáo nhờ người giúp. Cũng may, thời chiến, việc
cưới hỏi chẳng cầu kỳ như bây giờ. Hai ngày sau, đoàn ăn hỏi được thành lập.
Trưởng đoàn là cụ Ránh, cụ vốn quen phát biểu trước tập thể. Cậu Hoà đại diện họ
mẹ tôi. Bác Vượng đại diện họ nội tôi. Nguyễn Thế Đường (xã Xuân Nghĩa) thay mặt
bạn bè tôi... Đoàn ăn hỏi đi bằng xe đạp, sau 5 giờ đồng hồ vượt hơn năm chục
cây số, qua đò Bùi và hai phà (Đò Quan và Tân Đệ) có mặt ở nhà gái vào chiều
ngày 16 - 2 - 1972. Họ nhà gái tổ chức đón tiếp chu đáo và bàn chuyện cưới cho
chúng tôi. Trong lúc ngồi tiếp nhau, hai cụ thông gia liên tục “Rước ông”, “Mời
ông” và “Cứ thế ông nhá”. Cụ bà nhắc nhở:
-
Hai ông cứ thế là thế nào?
Hai
cụ thông gia:
- Ừ
nhỉ! Thế mấy giờ mai ta xuất phát được hả ông?
-
Đường cũng khí xa, tám giờ sáng ta đi cho sớm, được không ông?
-
Vâng, được ạ!
- Vậy
cứ thế ông nhá.
Tôi
như có lửa trong lòng, đứng ngồi không yên cho tới 9 giờ tối nghe tiếng Khế gọi
trên đê. May quá, Khế về kịp. Có cả Nga và Tình thay mặt lớp K6 cùng về. Nga là
bí thư chi đoàn, sau này làm Giám đốc Thư viện Hà Tây. Tình là lớp trưởng, được
giữ lại trường, sau đỗ Tiến sĩ được đề bạt Hiệu phó Trường Đại học Văn hóa, rồi
Vụ phó Vụ Thư viện.
Sáng
17 - 2 - 1972, đoàn đưa đón dâu đi hai chục xe đạp, mà xe lại đèo người, thành
ra xuất phát đúng 8 giờ sáng mà mãi 3 giờ chiều mới về tới bến đò Bùi, Xuân Trường.
Qua đò Bùi Chu thì gặp đoàn nhà trai đi đón khá đông. Đoàn đưa dâu và đoàn đón
dâu hợp lại, bố trí đội hình, cờ dong trống mở rước dâu rùng rinh trên đoạn đường
4 km từ đò Bùi về Xuân Trung.
Cái sân
nhỏ và mẩu vườn trước nhà tôi được bắc rạp che kín. Rạp là hai lá buồm nâu dùng
cho thuyền gỗ mượn của bà con trong làng, bắc trên những cây luồng và cột buồm.
Cổng vào sân nhà được trang trí hoa lá như cổng chào của thiếu nhi trong dịp Tết
Trung Thu. Trên giữa rạp là chiếc đèn kéo quân bằng giấy bóng màu với hình bộ đội,
xe tăng quay xung quanh ngọn nến. Bốn sợi giấy cắt hình nối với nhau kéo từ đèn
kéo quân vòng cung ra bốn góc rạp. Một cái phông xanh treo phía trước nhà, nổi
bật hình hai con chim bồ câu đấu mỏ vào nhau được cắt bằng giấy trắng. Hàng chữ
họ tên cô dâu chú rể và ngày tháng âm dương lịch cắt bằng giấy màu, nét to nhỏ
như trẻ con tập viết được dán lên phông theo đường vòng cung. Chỉ có mỗi cái
bàn gỗ để lọ hoa giấy làm bục cho đại biểu phát biểu và cho văn nghệ. Trên bàn
còn có cái đài Lido làm micro, nối dây điện ra cái loa 10w treo trên cành xoan
góc vườn. Sân và vườn xếp đầy ghế các loại: ghế ba nan, ghế đôn, ghế băng, ghế
xa-lon gỗ... Hai bên là hai băng khẩu hiệu nền đỏ đã phai màu, chữ vàng cắt
theo kiểu nửa platon nửa romăng: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Đảng Lao
Động Việt Nam muôn năm”...
Sau
tràng pháo tép râm ran tung hoa giấy đỏ lên đầu đoàn đưa đón dâu, Ban tổ chức
đám cưới do cánh chú Tuấn, anh Bính chịu trách nhiệm liền vào việc ngay. Cưới
thời chiến đơn giản và mau lẹ. Tuyên bố lý do, đại diện hai nhà phát biểu, thay
mặt chính quyền xã và thay mặt lớp K6 phát biểu, văn nghệ cây nhà lá vườn, cám
ơn và kết thúc. Chú Tuấn trưởng trò đã tuyên bố kết thúc mít tinh, nhưng khách
đông đứng tràn ra đường còn rềnh rang nửa tiếng sau mới giải tán. Cánh thanh
niên làng, cả mấy cụ cao tuổi nữa, liên tục thay nhau lên hát, ngâm thơ, kể
chuyện. Ông Trần Quốc Sử là chú rể lấy dì tôi, hát oang oang bài “Con trâu sắt”,
vừa hát vừa đập tay xuống bàn đánh nhịp. Trần Văn Thành, bạn tôi, là bộ đội
không quân về phép gặp đám cưới, bỏ ba lô xuống, lên hát bài “Phi đội ta xuất
kích” ca ngợi không quân để chúc mừng tôi. Ông Trần Mỹ Vượng, bác ruột tôi vốn
là đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều năm, tự biên tự diễn theo điệu “Cây trúc
xinh”, “Cô Khế xinh tang tình là cô Khế đẹp...” Giọng ông sang sảng, lời ca
tinh nghịch làm khán giả liên tục rộ lên cười muốn vỡ rạp. Ai đó kêu lên:
- Mời
cô dâu chú rể văn nghệ đáp lại hai họ nào!
Mọi
người ào ào hưởng ứng. Mấy cậu thanh niên đẩy tôi lên cạnh bàn, chỉnh lại “loa
đài” và giới thiệu chú rể hát tặng bà con hai bài... tự chọn! Bốc lên, dù rất mệt,
tôi hát liền hai bài tủ: “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”, “Tôi là Lê Anh
Nuôi”... Khi tôi hát “Tôi là Lê Anh Nuôi” mọi người hoan hô, vỗ tay náo nhiệt,
yêu cầu tôi hát lại mấy lần...
Nhóm
tiếp tân do cánh thanh niên nữ đảm nhiệm bưng trầu cau, thuốc lá Trường Sơn, nước
chè tươi len lỏi mời khách. Cuối cùng thì cũng đến lúc cô dâu chú rể tay cầm
thuốc lá Đrao mời tiễn khách ra về.
Thời
ấy cưới hỏi thật đơn giản, tiết kiệm. Cô dâu không có áo dài, thì mượn của bạn
cái áo vét đã cũ. Chú rể không có comlê caravat thì mặc nguyên bộ quân phục mùa
hè đã phai màu. Hội hôn không nhạc vàng, nhạc xanh gì hết, cứ dân ca và nhạc đỏ
mà chơi. Vậy mà vui đáo để.
Đoàn đón dâu mãi 6 giờ chiều mới được
ăn cơm. Chú rể, cô dâu thu dọn tới 9 giờ tối mới được đi đăng ký kết hôn. Thời
chiến nên xã linh động cho cưới trước, đăng ký sau.
Mợ
Hòa có chín con, vừa trai vừa gái, được u tôi bố trí giải chiếu, soạn chăn màn
cho tôi, “để cháu Khế cũng mắn như mợ”.
Đêm
tân hôn, hai vợ chồng mệt bã người, gần nửa đêm mới được nghỉ, cả hai văng ra
ngủ.
Ngay
sáng hôm sau chúng tôi sang Thái Bình để “lại mặt”. Bố mẹ và các em rất vui, hỏi
han nhiều chuyện. Trưa hôm sau chúng tôi lên Hà Nội để Khế kịp thi tốt nghiệp.
Tàu hoả chậm rề rề. Vào tới trường thì đã 7 giờ rưỡi tối. Cả lớp đã tập trung,
bày hoa, bánh kẹo và thuốc lá Trường Sơn chờ hai nhân vật chính. Lớp tổ chức cưới
cho chúng tôi khá vui. Thày Rính, người Cổ Lễ (sau là Phó Tiến sĩ) còn mang cả
đàn gió đến để đệm cho mọi người hát. Anh Nhân chủ trì văn nghệ, lại bài hát tủ
của anh: Tầm vu. Tôi nhận được ở bạn bè những tình cảm đẹp mà đến giờ tôi vẫn
còn nhớ như in cái cảm xúc của mình lúc ấy. Đây là lần đầu tiên Trường Lý luận
Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội có chuyện lớp tổ chức cưới cho sinh viên. Nội quy của
trường không cho sinh viên yêu nhau bị chính các thày cô phá lệ qua việc nhiệt
tình ủng hộ đám cưới của chúng tôi. Có lẽ do tôi chuẩn bị đi chiến đấu mà mọi
người ứng xử thế chăng?
Đêm
ấy, lớp bố trí chúng tôi ngủ nhờ ở nhà giữ trẻ. Khế đến kỳ kinh nguyệt. Thế là
chúng tôi chưa thể có con. Chúng tôi thức cả đêm. Sáng sớm, anh Tuất và Đỗ Tý đến
cùng đưa tiễn tôi ra bến Nứa. Thật kì lạ là chính tôi lại tâm niệm “Vui duyên mới
không quên nhiệm vụ”...
Từ
đây, tôi bắt đầu một cuộc sống đầy biến cố gian khổ ác liệt của người lính chiến.
TỪ CÔN SƠN ĐẾN THẠCH HÃN
Tôi
trở về đơn vị đúng ngày quy định. Các anh chỉ huy trung đội rất lo tôi bỏ ngũ.
Nay tôi trả phép đúng hạn, các anh mới yên tâm.
Bộ phận vệ binh vẫn hàng ngày canh
gác, xe than, lấy củi. Chị Lâm lên thăm anh Đặng Hoàng Song. Chị Lâm cùng học
khóa 5 Đại học Thư viện với anh Song. Hai người yêu nhau chưa kịp cưới thì anh
Song nhập ngũ. Sau này anh Song hy sinh, chị Lâm đi lấy chồng. Năm 1985, khi
tôi đã chuyển ngành về thư viện Hà Nam Ninh, tôi có vào thăm Thư viện tỉnh
Thanh Hoá. Gặp chị, tôi mừng rỡ, nhưng không hiểu sao chị làm như không biết
anh Song là ai.
Ngày
đầu tháng 4 năm 1972, Khế bỏ lớp lên thăm tôi. Trưởng ban hành chính mượn cho
chúng tôi một gian nhà trẻ của địa phương. Hôm sau có lệnh báo động chuẩn bị
chiến đấu, tôi đưa Khế vào nghỉ nhờ nhà Tiền để sáng về Hà Nội. Tiền cùng lớp
K6 với vợ chồng tôi, nhà cách Côn Sơn – nơi tôi đóng quân 5 km.
3
giờ sáng, lại báo động. Trung đội trưởng tập họp phổ biến nhiệm vụ và phân công
công việc cho từng tiểu đội. Sốt ruột không chịu nổi, tôi tự ý bỏ đơn vị, chạy
một mạch 5 km đường đồi tới nhà Tiền. Trong nhà đèn vẫn sáng. Khế đắp chiếu nằm
trên chõng tre. Khi nghe tôi gọi nhỏ, Khế choàng dậy. Chúng tôi ôm chặt nhau chẳng
nói được gì. Hai trái tim cùng đập loạn trên lồng ngực nhau. Chúng tôi cứ đứng
lặng như thế giữa trời đêm đầy sao... Rồi như chợt tỉnh, tôi buông Khế ra và chạy
như muốn đứt hơi trở về đơn vị.
5
giờ 30. Cả đơn vị đã nai nịt gọn gàng đang xếp hàng kiểm tra. Thấy tôi hớt hải
quay về, mọi người như trút được gánh nặng. Anh Ổn, nguyên giáo viên Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội, cùng tiểu đội, đã thu dọn ba lô và súng giúp tôi. Tôi như
người mất hồn, ý nghĩ luôn xoay quanh về Khế.
Tin làm chúng tôi bàng hoàng: Anh Tại,
tiểu đội trưởng anh nuôi của bếp trung đoàn, người Hải Dương, là Chiến sĩ thi
đua nhiều năm liền đã bỏ về quê. Anh Tại đã ngoài ba mươi tuổi, một vợ ba
con... Anh quá nặng gánh gia đình nên không thắng nổi bản thân? Có lẽ ai cũng
thông cảm hoàn cảnh của anh Tại nên chẳng ai tỏ ra coi thường và chê trách anh ấy.
Nhưng không biết ở quê họ sẽ xử lý anh Tại ra sao? Liệu anh Tại có bị xỉ nhục bằng
cách đày ải lao động công ích và đeo biển “Ai cũng như tôi thì mất nước” – hình
thức xử lý với bộ đội “B quay” rất phổ biến thời ấy không?
Tiếng
hô của Trung đội trưởng “Chạy tại chỗ” cắt dòng suy nghĩ của tôi. Chúng tôi chạy
tại chỗ chừng ba bốn phút. Tiếng chân giậm mặt đất rầm rập, tiếng súng đạn và
trang bị va đập lách cách vang lên, nhưng không một ai cất tiếng nói. Trung đội
trưởng Nguyễn Đình Dần hô dứt khoát:
-
Nhằm ga Mỏ Trạng, hành tiến!
Chúng
tôi lặng lẽ hành quân trong buổi sớm mùa hè thoang thoảng mùi thơm nhựa
thông... Ý nghĩ tôi lại quay về Khế. Không biết lúc này Khế làm gì? Khế về Hà Nội
bằng cách nào? Khế sẽ phải chờ đợi tôi bao nhiêu năm?…
Hành
quân cứ mỗi giờ đồng hồ được nghỉ 15 phút giống như tiết học trong nhà trường.
Trên vai tôi lỉnh kỉnh ba lô, súng đạn, bao gạo... trên ba chục ký mỗi lúc thêm
đè nặng. Tôi thường bị tụt lại sau. Anh Lục, người Tây Nguyên, nguyên cán bộ quản
lý một đơn vị “B quay”, được điều về làm Trung đội phó vệ binh. Lục to khỏe, da
đen sắt, giọng hơi trọ trẹ nhưng lại rất dịu dàng. Lục tỏ ra rất thích tôi. Có
lần Lục kể:
-
Ông nội mình nguyên là Hiệu trưởng trường Võ thuật Việt Nam đấy. Mình học võ từ
lúc 5 tuổi. Trước khi vào quân đội, mình là giảng viên Trường Đại học Bách
khoa, dạy môn quân sự. Phụ trách đơn vị “B quay”, mình rất nghiêm khắc nên “bọn
nó” ghét mình. Một bận mình tát tai cậu lính giả ốm không chịu đi lao động, thì
bất ngờ một cậu khác cầm cái xẻng quân dụng ở phía sau chém lên đầu mình. Mình
phản xạ tự nhiên, xoay người đá một phát, chẳng may làm gẫy hàm cậu ta. Thế là
bị kỷ luật và được điều về đây…
Chẳng biết anh Lục nói có thật không,
nhưng tôi thích nghe anh kể chuyện. Tôi cũng thường kể với Lục về chuyện học đại
học, về thơ văn, về tình yêu... Có vẻ Lục nể phục tôi. Thấy tôi tỏ ra đuối sức,
Lục mang đỡ tôi bao gạo.
Hành quân tới ga Mỏ Trạng. Đơn vị tạm
nghỉ trong khuôn viên một công trường hay cơ quan mà tôi không nhớ rõ, chờ lệnh
lên tàu. Đại úy trung đoàn phó Ngoan trực tiếp chỉ đạo trung đội vệ binh trong
việc canh gác. Tôi không nhớ họ của ông. Chỉ nhớ tên ông là Cường, khi đi chiến
trường thì đổi là Ngoan. Ông dặn chúng tôi:
-
Không cho bất kỳ ai ra khỏi khu vực tạm dừng, nếu không có lệnh của tôi.
Nửa
đêm, trung đoàn phó đi kiểm tra gác, lừ lừ tiến ra cổng. Cậu Toàn vệ binh đang
phiên gác quát:
-
Ai? Quay lại ngay! Không có lệnh của thủ trưởng Ngoan, không được ra ngoài. B
quay hả?
Bố
Ngoan – Cánh vệ binh chúng tôi thường gọi Trung đoàn phó như vậy - cầm một túi
bánh mì chọc vào bụng mấy cậu lính gác:
-
Ngoan đây! Mỗi thằng một cái ăn đi cho đỡ đói mà thức.
Ông
Ngoan người Hải Dương, dáng người đậm, khuôn mặt to phúc hậu, da đen như nông
dân, là thủ trưởng rất dễ gần. Bọn vệ binh rất thích được nghe ông nói chuyện.
Chuyện trên giời dưới biển ông nói đều hấp dẫn chúng tôi. Chúng tôi coi ông như
cha chú của mình. Lần đầu tôi được gặp ông là khi ông xuống kiểm tra Trung đội
vệ bình. Thấy tôi đang cầm xem cuốn từ điển Anh - Việt, ông hỏi một câu bằng tiếng
Pháp. Tôi không biết tiếng Pháp, nhưng nghe có mấy từ na ná tiếng Anh, tôi đoán
ông hỏi: “Đọc từ điển tiếng Pháp hả?”. Tôi trả lời ông: “Dạ! Từ điển Anh - Việt
ạ!”. Ông hỏi tôi về tên tuổi, quê quán, làm gì trước khi đi bộ đội... Từ không
khí căng thẳng, chuyển sang tự nhiên, vui vẻ, bọn lính chúng tôi quây lấy ông.
Sau này, khi đi công tác, ông rất hay chọn tôi đi bảo vệ. Trái lại bố Ngoan, cụ
Chính ủy và Trung đoàn trưởng không mấy khi chọn mấy đứa còm cõi yếu ớt như tôi
đi bảo vệ, thành ra tôi không dám gần và chẳng mấy nhớ về hai ông.
Có
lệnh lên tàu. Trung đội vệ binh lên một toa riêng. Trong toa chỉ có hai hàng ghế
băng gỗ gắn hai bên thành toa. Tàu chạy chậm nhưng vẫn lắc như lên đồng, mỗi lần
dừng ở ga chờ rất lâu. Tàu tới ga Hà Nội thì đã sang chiều. Tàu dừng ở ga mấy
tiếng nhưng không ai được xuống ga. Thị, Đủ và tôi căng mắt nhìn qua cửa sổ, hy
vọng gặp một người quen. Không thấy ai quen. Còi báo tàu chuẩn bị xuất phát. Thị
đưa vội cặp sách qua cửa sổ cho một cô gái lạ, nhờ chuyển về lớp K6. Tàu đêm.
Chật chội. Nóng bức. Đoàn tàu già rệu rã lắc lư phát ra những tiếng cót két, thỉnh
thoảng lại hụ hụ rồi rít lên hồi còi hơi. Mệt mỏi. Chúng tôi ôm súng ngủ gà ngủ
gật. Tàu qua ga Nam Định. Tôi bừng tỉnh, nôn nao nhìn mọi người xa lạ dưới ánh
đèn không đủ sáng mà thấy thân thiết vô cùng. Tạm biệt quê hương. Thương bố u
vô hạn. Chú Đằng, em tôi, cũng được gọi nhập ngũ ở quê. Do tôi đã nhập ngũ nên
xã hoãn chú lại. Ngày tôi nhập ngũ, u tôi lo cho tôi đến ngây dại cả người. Bà
chặt tất cả chuối trong vườn “làm cỗ liên hoan cho thằng Giống đi bộ đội”. Sau
này tôi được biết, trong thời gian tôi chiến đấu ở Quảng Trị, u tôi đã đi kêu cầu,
cúng bái ở nhiều chùa và đốt cơ man là lính giấy để đi “bảo vệ” thằng con cả của
bà. Những năm ấy đi chiến đấu là 9 phần hy sinh, chỉ có 1 phần sống. Nói dại, nếu
tôi chết, hẳn bà khó sống được. Tôi tự nhủ: Phải sống, phải hy vọng dù chỉ rất
mong manh.
Đến
ga Quán Hành. Bắt đầu hành quân bộ. Đêm đi. Ngày nghỉ. Không khí chiến tranh
nóng dần lên. Những đoàn xe tải ngụy trang cành lá xanh nối nhau vượt lên. Máy
bay địch oanh kích trọng điểm. Pháo ta nhả đạn rực trời. Mỗi khi gặp thanh niên
xung phong là cánh lính trẻ lại rộ lên nhận đồng hương, trêu ghẹo. Tôi thường mệt
rũ trong những ngày hành quân mang nặng, chẳng buồn ngó ngàng đến các em tóc rụng,
da xanh. Chúng tôi đã vượt trọng điểm ngã ba Đồng Lộc, sông Lam, sông Son... Đã
dừng chân ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), tập kết ở Bãi Hà. Trong trí não già nua của
tôi bây giờ không sao nhớ được chính xác những địa danh đã qua. Có lẽ do hậu quả
nhiều lần sức ép bom B52 làm tôi suy nhược thần kinh kéo dài nhiều năm sau.
Nhưng lạ thay, có những chuyện đến nay tôi vẫn nhớ như in trong khi phần lớn
thì quên quên nhớ nhớ. Một lần chúng tôi canh gác bảo vệ Bộ chỉ huy trung đoàn
khi ấy đang ở trong rừng miền tây, Thiếu úy Thái sẹo dẫn theo một lính liên lạc
lên trung đoàn họp. Chúng tôi yêu cầu xuất trình giấy ra vào. Thái nổi cáu:
-
Chúng mày có biết tao là ai không? Thái sẹo C trưởng trinh sát đây!
Cậu
Toàn nổi máu quát lại:
-
Mày có biết tao là ai không? Tao là anh nuôi đây!
Thái
dọa:
-
Oánh bỏ mẹ chúng mày bây giờ!
Trung
đội trưởng Dần đi đốc gác thấy vậy nhảy ra hô to:
-
Anh em! Xích cổ tay Thái lại!
Chắc
chắn cuộc ẩu đả sẽ xảy ra nếu lúc đó không có bố Ngoan tình cờ đi qua can thiệp:
-
Thái đấy à? Sao không mang giấy ra vào? Thôi các con để cho anh Thái vào họp
đi...
Thái
đi qua cạnh tôi, lừ mắt:
-
Mày nhớ mặt Thái sẹo này nhé!
Chúng
tôi gọi Thái là Thái sẹo và chính Thái cũng tự xưng cái tên ấy, vì mặt hắn nhiều
sẹo. Thái tốt nghiệp sĩ quan trinh sát đặc công loại... kém. Nghe cánh lính
trinh sát kháo nhau: Thái học giỏi, nhưng vẫn bị xếp loại kém vì một bận nhận
nhiệm vụ đánh mục tiêu nhà cao tầng của nông trường Sông Bôi, Thái thấy một cô
công nhân mặc đồ lót ngủ, liền... sờ đùi cô ta. Cô ta kêu toáng lên. Thái phải
trốn vào bốt điện. Hai ngày sau, khi quân xanh rút hết Thái mới dám ra ngoài. Về
trung đoàn 101 Thái được đề bạt Đại đội trưởng trinh sát, hàm thiếu úy. Trên đường
đi B Thái lên trung úy tiểu đoàn phó. Vào chiến trường Thái lên thượng úy tiểu
đoàn trưởng, rồi về làm tham mưu trưởng trung đoàn với hàm đại úy. Sau này khi
tôi đi học sĩ quan lục quân thì Thái cũng đi học Học viện quân sự. Tôi không thể
quên vụ va chạm với Thái sẹo bởi sau này tôi được điều xuống trực tiếp chiến đấu
trong đội hình tiểu đoàn 1 của Thái sẹo. Khi tôi được gọi về trung đội vệ binh
thì Thái sẹo cũng về làm Tham mưu trưởng trực tiếp quản lý chúng tôi.
Đơn
vị vệ binh biến động tổ chức: Thị và Đủ về đại đội thông tin, phụ trách máy 15
w. Tôi được phong binh nhất, được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Anh Đặng Hoàng
Song xung phong xuống đơn vị chiến đấu, làm khẩu đội trưởng cối 60. Thạch K7 được
đề bạt làm trung đội phó đại đội vận tải. Hậu, Dũng trung cấp văn hoá quần
chúng cũng xuống đơn vị chiến đấu. Cúc trung cấp thư viện, người Bắc Ninh được
điều ra Bắc, vì cả gia đình Cúc ở quê bị trúng bom Mỹ, không ai còn sống. Thế
là 10 sinh viên trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá mỗi người một nơi, mỗi người
một số phận. Nhiều người đến giờ tôi vẫn chưa có dịp gặp lại. Thế chỗ những người
chuyển xuống đơn vị là những cậu lính má còn lông tơ.
Đơn
vị có lệnh chuyển hướng hành quân theo đường miền tây. Tạm biệt những vùng cát
bỏng chân. Chúng tôi hành quân theo đường mòn trong rừng núi. Hành quân đêm.
Người sau bám sát người trước. Để giữ bí mật, cấm dùng đèn pin. Ai đó có sáng
kiến bắt đom đóm nhốt trong lọ Pinixilin buộc vào ba lô để người sau định hướng.
Những mệnh lệnh thường xuyên được truyền xuống:
- Cẩn
thận mìn lá!
-
Khu vực có biệt kích!
-
Chuẩn bị qua suối!
-
Phía sau vận động!
-
Bám sát, đường khó đi!
Trèo
đèo. Lội suối. Hai bàn chân tôi rát bỏng. Khi trượt ngã, lúc vừa đi vừa ngủ gà
ngủ gật. Vắt, muỗi thi nhau làm thịt chúng tôi. Có lần tôi sốt 39 độ vẫn quyết
bám sát đơn vị, không dám tụt lại sau. Súng đạn, ba lô tư trang nặng trĩu vai.
Chúng tôi dùng những cây gậy Trường Sơn làm chỗ tựa mà vượt lên gian khổ.
Toàn
đơn vị dừng lại khu tập kết Bãi Hà, chuẩn bị vượt tuyến. Từng tổ ba người căng
bạt, mắc võng cạnh nhau ngủ. Nửa đêm bỗng giật mình vì súng AK nổ.
-
Biệt kích à?
-
Không. Một cán bộ trung đội kiểm tra gác, nói mật khẩu chậm, bị cậu lính trẻ hốt
hoảng xả đạn trúng đùi. May không chết.
Lại
trở về miền đông. Dừng ở thôn Thuỷ Ba Tây, chờ lệnh. Đêm hành quân vượt Bến Hải.
Chúng tôi gói ba lô trang bị vào túi áo mưa lấy từ các bao gạo được thả trôi từ
biển vào để làm phao bơi qua sông. Cả chục cây số nam Bến Hải toàn cỏ tranh. Lệnh
truyền xuống: Đến Gio An (thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị) mới nghỉ. Giữa bạt
ngàn cỏ tranh, cây cỏ lúp xúp, ẩn hiện mấy xác xe tăng địch đã cháy rụi, nòng
pháo đen ngỏng lên trời. Bỗng có tiếng V010. Bụp! Pháo sáng ngay trên đầu. Tưởng
trông rõ cả cái kim dưới đất. Lộ rồi. Tranh thủ vượt lên tránh vào khu vực có
tre xanh. Không kích địch thả bom trúng đuôi đội hình hành quân của trung đoàn.
Một số hy sinh và bị thương.
Làng
Gio An còn vài nóc nhà, mái lợp tôn. Nhà nào cũng có hầm kèo chống pháo. Nghỉ lại
một ngày. Khi đã chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ phó chính uỷ Nguyễn Trung Nến, người
Thanh Hoá lên đường thì có lệnh tôi cùng cậu Do ở lại làm giao liên đón tiểu
đoàn pháo trực thuộc bên bờ Bắc về Gio An.
- Đến
Gio An thì đi đâu?
- Sẽ
có người đón.
Thế
là hai chúng tôi buồn bã quay ra Bãi Hà. Chờ cả tuần không thấy đoàn pháo nào
qua, sốt ruột quá. Có hai anh lính Hà Nội, vốn là cán bộ ở một trường đại học,
hồi huấn luyện cùng đại đội với tôi, quay ra Bắc. Gặp ở Bãi Hà, hai anh thí thỏn
tôi cùng quay cho có bạn.
- B
quay ư? Nhưng em không có tiền.
-
Không sao, các anh lo cho em về đến Nam Định. Đây cho em cái đồng hồ Liên Xô.
-
Em sợ lắm.
-
Còn hơn là chết. Cứ cho qua cái đẫn ác liệt này rồi anh em mình lại vào.
-
Em không dám.
- Tạm
biệt
Chẳng
biết rồi hai anh có ra tới Hà Nội được không?
Được
biết đoàn pháo đã đi theo đường miền tây vào chiến trường rồi, Do và tôi vội
quay vào tìm đơn vị. Chúng tôi cứ nhằm hướng Nam mà đi. Ngày đi. Đêm mắc võng
nghỉ trên cành cao. Đói. Mệt. Sợ. Hay là ra Bắc? Ra mà chết trên đường thì... Cứ
vào. Loanh quanh mãi trong rừng. Chúng tôi quyết định theo đường miền đông,
nguy hiểm hơn nhưng đi đường đồng bằng đỡ khổ. Tìm vào được Gio An. Chẳng có ai
đợi cả. Đang ngơ ngác thì bị tổ du kích địa phương bắt. Ba cô du kích đen nhưng
trẻ măng.
-
Có giấy tờ gì không?
-
Chẳng có gì cả.
-
Đơn vị nào?
-
E101.
-
Biệt kích giả bộ đội thì sao?
- Bộ
đội Bắc mà.
-
Tên gì?
-
Giống.
-
Tên lạ hoắc. Đói hả? Cơm nguội với muối, có ăn không?
- Có.
Ăn
bốn bát liền.
-
Ăn từ từ thôi, nghẹn đấy.
-
Đã quá. Cả tuần toàn ăn rau rừng và thịt bò chết.
-
Bò ở đâu?
-
Trên rừng, bị bom chết cả đàn. Sao đau bụng thế này.
-
Tham ăn quá đấy mà.
Sau
này học trường sĩ quan lục quân, dã ngoại bị nôn ra máu, đi viện mới biết mình
bị viêm loét dạ dày. Chắc là từ đận ấy.
Ba
ngày sau, nhờ du kích về tỉnh đội hỏi giúp biết đơn vị đang ở Đông Hà, chúng
tôi lên đường. Đi bộ qua Cồn Tiên, Dốc Miếu vừa được giải phóng. Những lô cốt
nham nhở vết đạn, những hàng rào gai đủ kiểu bùng nhùng, dậu, vướng chân... bị
bộc phá đánh tung từng đoạn. V010 lượn dai như đỉa suốt ngày. Pháo kích địch bắn
cầm canh. Từng đợt không kích đối phương thả bom sau khi V010 bắn đạn khói chỉ
điểm nơi chúng nghi có quân Việt cộng.
Cuối
cùng thì chúng tôi cũng về tới đơn vị ở Đông Hà. Cả trung đội lần lượt ôm lấy
chúng tôi mừng rỡ. Tôi như đứa con xa lâu ngày trở về nhà. Tôi không diễn đạt
được cảm xúc của mình lúc ấy. Mi mắt tôi ướt nặng, không nói lên lời. Tôi hiểu
rằng từ nay số phận tôi gắn chặt với những đồng đội của mình. Trung đội trưởng
Dần nắm tay tôi:
-
Nghỉ ngơi đi, mấy ngày nữa sẽ vượt Thạch Hãn. Sẽ rất ác liệt đấy.
Hai tháng hành quân từ núi Côn Sơn
(Chí Linh) tới Quảng Trị, tôi đã vượt qua biết bao gian khổ. Sự gian khổ nhiều
khi đến cơ cực đối với người gầy yếu “gió thổi bay” như tôi. Với ai đó thì “đường
ra trận mùa này đẹp lắm”, chứ với tôi thì quả thực “đường ra trận mùa này... nhớ
mãi!”
Con
đường trước mặt mà tôi phải đi tiếp còn ác liệt bội phần. Đó là chiến trường thực
thụ, là lò lửa khủng khiếp của bom đạn, đó là sự hy sinh, mất mát để giành lấy
độc lập, tự do và cuộc sống hòa bình của dân tộc.
NHỮNG MẢNH KÝ ỨC VỀ ĐỒNG ĐỘI
Chính ủy Trung đoàn, cao tuổi, ra Bắc vì cụ bệnh suốt, thuốc
Tây không khỏi, phải chuyển sang “thuốc Bắc”. Phó chỉnh ủy Nguyễn Trung Nến,
người Thanh Hóa lên thay. Anh Lê Thanh Oai được bố trí lên Phó Chủ nhiệm Hậu cần
nhưng không hiểu sao lại quay về làm Trưởng ban hành chính. Sau này tôi được biết:
anh Oai văn hóa thấp, lại nóng tính và thẳng như ruột ngựa, chả biết kiêng nể
ai. Vì thế anh Oai thì bị trả về chức cũ. Tôi được biết anh ở xã Mỹ Thắng, huyện
Mỹ Lộc nhưng mãi đến đầu tháng 9 – 2012 tôi mới được gặp lại anh.
Phó
ban hành chính Từ, người Thanh Hoá, một lần đi công tác, gặp pháo kích, phải
trú vào hầm hàm ếch bên đường, cậu bảo vệ nhường anh Từ ngồi trong cho an toàn.
Pháo kích dai dẳng. Anh Từ nằng nặc đòi đổi ra ngoài để duỗi chân cho đỡ mỏi. Vừa
đổi chỗ thì anh dính pháo hy sinh. Lẽ ra đi công tác về hậu cứ phụ trách hậu cần
là anh Oai, nhưng anh Từ xin được anh Oai nhường cho mình. Khi ấy anh Từ vừa được
tin vợ đẻ con trai...
Trung đội phó Lục cùng cậu Hệ, người Hải
Dương bị dính bom hy sinh trong một lần xuống đơn vị công tác. Tiểu đội trưởng
Nguyễn Minh Châu, người Thạch Hà, Hà Tĩnh nhận chức Trung đội phó kiêm chính trị
viên trung đội.
Công
việc chủ yếu của vệ binh lúc này là canh gác bảo vệ cơ quan, bảo vệ thủ trưởng.
Mỗi tiểu đội được trang bị thêm một B40 chống tăng. Việc đào hầm đã có đại đội
công binh. Cũng không phải xe than kiếm củi như trước, nhưng thường phải cử người
tham gia vác gạo được thả trôi ở biển vào.
Đầu
tháng 8 - 1972 Trung đoàn bộ 101 tiến vào đóng quân dưới chân cao điểm 33 Bắc Cửa
Việt. Thời gian này, cuộc chiến chống địch phản kích trong thành Quảng Trị vô
cùng ác liệt. Quân số ta thương vong chuyển ra Bắc liên tục. Giữa tháng 9 -
1972 ta rút khỏi thành Quảng Trị, lui về co cụm ở bắc sông Thạch Hãn. Pháo địch
từ biển thường xuyên nã vào đất liền. Máy bay địch quần đảo suốt ngày đêm làm
thần kinh tôi luôn trong tình trạng căng thẳng.
Trận
bom B52 lần thứ ba trúng đội hình trung đoàn, hầm chủ nhiệm hậu cần sập. Chủ
nhiệm và liên lạc hy sinh. Tôi bị bom vùi kín, tự chui lên, khạc đất cát từ
trong miệng, lại cầm súng làm nhiệm vụ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Lần khác,
tôi đang đứng gác canh máy bay địch, trung đội trưởng Dần bất ngờ kéo tôi vào hầm
kèo chữ A. Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì nghe tiếng nổ như ngô rang trên đầu.
Thì ra máy bay địch thả bom bi sát thương. Tôi thầm cảm ơn Dần đã cứu tôi trong
tích tắc.
Tiểu
đội tôi có 5 chiến sĩ. Ngủ nhờ ba hầm du kích. Tôi lớn tuổi nhất được phân công
ngủ nhờ hầm hai cô du kích địa phương. Mấy tối đầu, ngại không giám vào nằm. Hầm
chữ A rộng 1,2 m, ra vào va nhau. Tôi ôm khẩu AK ngủ ngồi ở cửa hầm. Mỗi khi
pháo bắn gần, lại giật mình bật vào trong. Ngớt pháo, tôi lại ra cửa hầm. Tôi
nơm nớp lo sợ bị trúng mảnh đạn. Mấy cô du kích hàng ngày cười nói như không,
đêm ngủ ngon lành. Họ đã dạn bom đạn. Độ bốn năm đêm sau, hai cô cùng kéo nghiến
tôi vào hầm, ấn tôi năm giữa. Tôi run bắn người. Sau rồi quen cũng ngủ được.
Tình
cờ gặp Đê cùng lớp K6 khi hành quân. Mừng quá. Đê đi bộ đội trước tôi hai năm.
Cậu ta là lính H12 cùng tham gia chiến dịch Quảng Trị. Sau chiến dịch Cửa Việt,
Đê được về học tiếp và công tác ở Thư viện Hải Dương.
Có
lệnh tiến sang bờ nam Cửa Việt. Tiểu đội tôi sang trước nhận vị trí cho trung đội
và chuẩn bị công tác bảo vệ cơ quan. Trên đường vận động qua trảng cát ra bờ
sông, bất ngờ bị pháo kích. Mấy cậu vận tải cáng thương binh từ tiền phương về
sợ quá bỏ cáng chạy tìm nơi tránh pháo. Cậu thương binh lồm cồm bò dậy, cà nhắc
nhảy theo. Hoá ra là Thị. Trời, Thị ơi! Pháo rát quá, không sao chạy tới chỗ Thị
được. Pháo ngừng. Tải thương chạy như ma đuổi. Tôi đành quay lại chuẩn bị vượt
sông. Sau này được biết Thị là thương binh hạng 2, học tiếp, rồi về Thư viện
Trường Nguyễn Ái Quốc 2, lại đi lao động ở Liên Xô. Năm 1982, khi đã ra quân về
học tiếp tôi mới có dịp gặp lại Thị. Cậu ta béo, tai hễnh hãng, học Thạc sĩ.
Khi Hải Dương chia tỉnh, Thị về làm Giám đốc Thư viện Hưng Yên. Hai chúng tôi gặp
nhau trong một hội nghị chuyên ngành thư viện do Bộ Văn hóa tổ chức, cùng ôm
nhau bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm máu lửa ở Quảng Trị hồi 1972.
Chuẩn
bị vượt sông. Chúng tôi dùng áo mưa gói quân tư trang làm phao bơi. Cửa sông Thạch
Hãn khá rộng. Người không biết bơi cũng rất nguy hiểm. Rất nhiều đồng đội đã hy
sinh khi bơi qua sông này, do địch pháo kích. Tôi tuy gầy yếu, nhưng biết bơi
khá nên vượt sông không mấy khó khăn. Tôi vượt sông trước. Khi tôi sang bờ Nam
nhìn lại, mấy đồng đội vẫn còn ở giữa dòng, có cậu mới ra được 1/3 sông. Nguyễn
Minh Châu dáng thư sinh nhưng trẻ khỏe, bơi giỏi, đưa đồ đạc cho tôi giữ rồi
lao xuống nước qua lại mấy lần dìu đồng đội. Thật may, lần vượt sông này không
bị pháo địch.
Sang
bờ nam, trụ lại trên cao điểm 28,8. Được tin anh Đặng Hoàng Song (Thư viện K5)
bị dính bom hy sinh cùng cả khẩu đội cối anh chỉ huy. Buồn đến mất ngủ mấy đêm
liền. Thương anh Song và lo cho số phận của mình.
Đêm
đêm nhìn vòng cung pháo sáng, biết được đội hình địch và ta. Nghe rõ tiếng súng
bắn thẳng trên chốt. Vệ binh canh gác cả ngày và đêm, có tình huống thì phải
báo động. Đến phiên tôi gác ngày. Không hiểu sao nóng ruột thế, cứ vào ra không
yên. Thắng, người thị xã Hải Dương sờ trán tôi, bảo:
-
Anh sốt rồi. Người nóng hầm hập thế này, vào hầm mà nghỉ. Em gác thay cho.
Một
chốc Thắng quay vào:
-
Em đói quá, cho em mảnh lương khô.
Tôi
đưa cho Thắng thanh lương khô 701. Thắng cầm thanh lương khô vừa bóc ăn vừa đi
ra chốt gác.
Đột
nhiên V010 bắn đạn chỉ điểm ngay khu trung đoàn bộ đóng quân. Không biết là nó
phát hiện cái gì hay có chỉ điểm của địch. Pháo dồn dập. Thắng bị mảnh pháo vỡ
đầu, gục xuống. Tôi bị sức ép hất ra xa. Thấy nóng ấm trên đầu và vai, tôi sờ đầu,
tay nắm phải vật gì mềm và nóng, hoảng quá kêu lên:
-
Tao bị rồi Hạnh ơi!
Hạnh
kéo tôi vào hầm, kiểm tra thân thể tôi, bảo:
-
Anh không bị vết nào đâu! Thắng bị rồi anh ạ. Chắc là óc Thắng văng vào đầu anh
đấy!
Tôi
bật khóc: “Thắng ơi!... Thắng ơi!... Thắng ơi!...”
Pháo
ngớt, chúng tôi xúm vào khênh xác Thắng về hầm trú ẩn. Đơn vị làm thủ tục chôn
cất Thắng rất đơn giản. Không có ván, chỉ có tăng và võng gói xác Thắng. Trung
đội trưởng ghi trích ngang của Thắng vào mảnh bao thuốc lá, bỏ vào lọ
philixilin đậy kín rồi nhét vào túi áo ngực Thắng. Tôi ngồi nán lại hồi lâu trước
nấm mồ bé nhỏ sơ sài, nói thầm với Thắng: “Thắng ơi! Anh ngàn lần cảm ơn em đã
nhận cái chết thay anh! Là phiên gác của anh, nhưng em... Ai ngờ...”
Trận
bom B52 ngay sau đó làm biến đổi địa hình. Tôi không sao nhận ra được mộ Thắng ở
chỗ nào nữa.
Trung
đội trưởng Dần thông báo: Ông già trụ lại quê hương mà hàng ngày chúng tôi cơm
bưng nước rót hầu hạ để làm công tác dân vận chính là tên chỉ điểm cho địch.
Không tin được. Nhưng trong chiến tranh, mọi chuyện đều có thể xảy ra.
Tiểu
đội tôi đổi về bảo vệ bộ chỉ huy trung đoàn, bàn giao công tác bảo vệ Bộ chỉ
huy tiền phương cho tiểu đội Sánh. Trong một tối gác đêm hầm các chỉ huy trung
đoàn, tôi được phân công gác hầm trung đoàn trưởng. Nguyễn Xuân Trắc, người Phú
Thọ gác hầm chính uỷ. Tới hầm trung đoàn trưởng phải lội qua tràn ruộng, mà tôi
thì đi giày vải nên cứ lúng túng, định quay về thay giép cao su. Thấy thế, Trắc
bảo:
-
Em đi giép, để em gác hầm trung đoàn trưởng cho, anh gác hầm chính uỷ.
- Ừ!
Em đổi vị trí cho anh nhé!
Trắc
lội thoăn thoắt qua tràn ruộng. Tới cửa hầm trung đoàn trưởng, Trắc quay lại cười
và vẫy tay với tôi. Tôi chui vào hầm chính uỷ, ngồi ở cửa hầm vuông nơi dùng
làm nơi họp của chính ủy chưa nóng chỗ thì B52 rải thảm. Tôi bị hơi bom thổi
bay vào trong hầm kèo chữ A, khẩu AK mắc lại cửa hầm. Chính uỷ đang làm việc
trong hầm chữ A, sờ khắp người tôi, lo lắng:
-
Có sao không con?
- Dạ,
con không sao ạ.
-
Không sao là tốt rồi. Ra xem tình hình thế nào.
Tôi
chui ra khỏi hầm. Quang cảnh địa hình sau 3 loạt bom B52 thay đổi lạ hoắc. Tôi
không sao nhận biết được vị trí các hầm của ta ở đâu. Rộ lên tiếng người kêu cứu,
tiếng bước chân vội vã của chiến sĩ, tiếng xẻng, cuốc hối hả đào bới, tiếng ra
lệnh của các chỉ huy... Dần và Châu vừa tìm kiếm vừa gọi rối rít :
-
Giống ơi! Giống ơi! Mày ở đâu?
-
Trắc ơi! Mày ở đâu?
Tôi
kêu lên :
-
Tao ở đây!
Dần,
Châu rồi cả trung đội vệ binh ùa lại. Dần hỏi:
-
Trắc đâu?
-
Tao không rõ. Nó đổi gác sang hầm Trung đoàn trưởng.
Châu
định hướng và đo khoảng cách bằng bước chân.
-
Chỗ này! Tất cả đào bới nhanh lên.
Cả
trung đội vừa bới đất, vừa gọi Trắc và trung đoàn trưởng. Lại bới rộng ra xung
quanh. Chúng tôi đào bới hết sức nhưng vẫn không tìm thấy hầm trung đoàn trưởng.
Khi chính uỷ hết hy vọng, cho phép lính vệ binh nghỉ thì bỗng nhiên cùng với tiếng
kêu cứu, đầu của công vụ trung đoàn trưởng thọc từ đất nhô lên. Chúng tôi lao tới
tiếp tục công việc đào bới. Khi chúng tôi moi được những người trong hầm ra thì
Trắc đã hy sinh. Trên người Trắc chỉ còn cái thắt lưng và cái bi đông nước.
Trung đoàn trưởng bị sức ép nặng. Khi tỉnh lại, ông liên mồm chửi Mỹ nguỵ. Ông
được đưa ngay ra bắc. Cậu lính công vụ cũng được đưa ra cùng ông. Tham mưu trưởng
trung đoàn điều cậu Quỳnh gầy vệ binh đi theo phục vụ Trung đoàn trưởng. Cho đến
giờ tôi cũng không có dịp gặp lại họ. Nghe tin trung đoàn trưởng và công vụ hy
sinh trên đường ra Bắc.
Trung
đoàn phó Ngoan lên nắm quyền Trung đoàn trưởng.
Gặp
Dũng trung cấp văn hoá quần chúng về công tác ở Trung đoàn. Dũng đã là trợ lý
tiểu đoàn. Dũng báo tin Đủ K6 về thông tin 15 w dính bom đã ra Bắc rồi. Thế là
ba thằng K6 (Đại học Thư viện khóa 6) đến nay chỉ còn tôi ở lại chiến trường.
Anh
cán bộ quân lực trung đoàn cho biết: Thạch K7 trung đội phó vận tải được ra bắc.
Lý do thật khôi hài: Phiên Thạch ở hậu cứ, cố tình ngủ với du kích địa phương.
Cô du kích khoe rầm lên. Đơn vị yêu cầu kiểm điểm. Thạch nhận tất. Kỷ luật. Ra Bắc. Về trường học
tiếp. Sau này tôi biết Thạch học xong đại học thì được về công tác ở văn phòng
Chính phủ, rồi tốt nghiệp thạc sĩ khoá đầu tiên của trường Đại học Văn hoá. Còn
tôi, nào Huân chương chiến công, nào dũng sĩ quyết thắng mà mãi năm 1980 mới được
trở về học tiếp với cái giá từ chối quân hàm Thượng uý. Nhưng thôi, đấy là sau
này. Mỗi người có số phận của mình.
Tháng
9 - 1972. Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325 chúng tôi đã tham chiến nhiều trận, tổn
thất nặng nề. Nghe đồn có lệnh cho E101 ra Bắc củng cố lực lượng, nhưng các thủ
trưởng sợ mất “sao” nên cố xin ở lại tiếp tục chiến đấu. E101 thuộc F325 được
điều trực thuộc Sư đoàn 320. Phó Tư lệnh F320 là trung tá Đào Dũng, người Hải
Dương, trực tiếp chỉ huy E101 của F325. Khi về chỉ huy E101, việc đầu tiên ông
làm là thăm trung đội vệ binh. Chẳng hiểu vì lý do gì, ông thường gọi đích danh
tôi và Quỳnh (không phải cậu Quỳnh gầy) đi bảo vệ mỗi khi ông đi công tác. Ông
thường hỏi han tình hình gia đình và tâm sự của chúng tôi, hay cho chúng tôi
lương khô 702 và thuốc lá. Có bận qua suối, ông đeo giầy da nên cứ lúng túng sợ
ướt giầy. Tôi xung phong cõng ông qua suối, nhưng Quỳnh bảo:
- Để
em, anh gầy thế nhỡ ngã thủ trưởng thì...
Nói
rồi Quỳnh khom lưng cõng thủ trưởng qua suối. Chuyện vệ binh cõng ông, năm 1978
gặp lại tôi, ông vẫn còn nhớ. Khi ấy tôi là Thiếu uý trợ lý tuyên huấn sư đoàn
338 đóng ở Đình Lập, Lạng Sơn. Ông được điều về làm tư lệnh trưởng F338. Gặp
ông, tôi hỏi:
-
Có phải thủ trưởng hồi 1972 chỉ huy E101 của F325?
Ông
ngạc nhiên :
-
Sao cậu biết?
- Dạ,
em là vệ binh bảo vệ thủ trưởng ở Quảng Trị mà.
Ông
mừng rỡ:
-
Thế à? - rồi nhìn kỹ tôi: “Mày là thằng Giống còm, đúng không?”
-
Dạ đúng.
-
Nhưng khi ấy mày mới là binh nhất.
-
Còn thủ trưởng lúc đó đâu đã là Đại tá như bây giờ.
Ông
xởi lởi:
-
Mày yên tâm, tao sẽ chú ý đến mày.
Nhưng
chưa đầy ba tháng sau, ông lại bị điều về làm Tư lệnh trưởng Đặc khu Quảng
Ninh… Từ đấy tôi không có dịp gặp lại ông.
LÊN CHỐT
Chiến
sự ngày càng vô cùng ác liệt. Con số thương vong tăng hàng ngày. Các đơn vị trực
tiếp chiến đấu số bổ sung không bù kịp số thương vong. Nhiều trung đội chỉ còn
dăm tay súng.
Trung
đội vệ binh chúng tôi được lệnh chia quân luân phiên tăng cường cho đơn vị trực
tiếp chiến đấu. Tôi được cử đi đợt đầu. Trung đoàn trưởng Ngoan động viên chúng
tôi. Ông nhấn mạnh:
-
Xuống đơn vị chiến đấu phải tỏ rõ được bản lĩnh của lính trung đoàn, lính cơ
quan. Tranh thủ dùng phương pháp bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch, gây cho địch
tâm lý hoang mang lo sợ…
Tôi
mang theo khẩu CKC lắp thêm máy ngắm, xuống tăng cường cho Tiểu đoàn 1. Liên lạc
dẫn chúng tôi lên gặp tiểu đoàn trưởng. Khi gặp tiểu đoàn trưởng, tôi giật
mình: hoá ra là Thái sẹo. Tôi lo lắng bất an nhớ lại vụ va chạm với Thái sẹo
khi còn ở Bắc. Đó là lần ở bãi Hà, chúng tôi không cho Thái sẹo vào họp giao
ban trung đoàn vì Thái không mang giấy ra vào. Lần ấy Thái dọa tôi: “Mày nhớ mặt
Thái sẹo này nhé!”…
Bây
giờ tôi về làm lính của Thái sẹo, coi chừng hắn trả thù thì nguy. Nghe lính
kháo về Thái sẹo thật lắm chuyện kỳ. Thái sẹo có người anh ruột là tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn Trâu Điên nguỵ. Khi ở Bắc về Quảng Trị, Thái sẹo đem theo cậu
cần vụ về nhà giỗ cha ở Triệu Phong. Hai anh em gặp nhau, không nói không rằng,
tay luôn sờ bao súng. Thật trớ trêu, hai anh em ruột trở thành hai kẻ đứng đầu
của hai đơn vị đối đầu nhau.
Sau
này được trở về trung đội vệ binh, tôi lại dưới quyền Thái sẹo. Thái sẹo được
phong đại uý, về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Đôi lần có thời cơ nghỉ ngơi,
chúng tôi chơi tú lơ khơ với Thái sẹo. Khi chơi bài, Thái sẹo dường như không
bao giờ nhớ mình là chỉ huy. Thái thường xuyên bị chúng tôi hùa nhau vẽ râu, đội
mũ. Cáu quá, Thái sẹo văng tục:
-
Đù mẹ!
Chúng
tôi chớp lấy lý do đó:
-
A, chửi làng hả? Phạt! Phạt! Phạt!...
Thái
cuống lên:
-
Không, tao không chửi làng.
-
Không chửi làng thì chửi ai?
- Ờ...
Tao chửi tao.
-
Ha ha ha…
Có
một lần, chúng tôi dùng thủ pháo ném xuống hố bom, vớt được cả rổ cá rô. Đánh vảy,
ướp muối, chưa kịp kho. Nửa đêm Thái sẹo đi trinh sát về, đói bụng, bèn bốc cơm
nguội ăn với cá rô. Sáng sau thấy cá vơi đi, Châu kêu:
-
Cá chưa kho mà thằng nào đã ăn thế?
Thái
sẹo văng tục, vừa chửi vừa móc họng để nôn ra.
Khi tôi được cử đi học sĩ quan lục
quân thì Thái sẹo cũng đi học sĩ quan cao cấp – Học viện quân sự. Tôi tốt nghiệp
sĩ quan lục quân lại được điều về Sư đoàn 338, mà không về E101 F325, thành ra
không có dịp gặp lại Thái sẹo.
Trở lại chuyện gặp Thái sẹo, tôi cứ thấp
thỏm lo Thái sẹo trả thù... Hình như Thái sẹo không nhớ, hoặc cố tình tỏ ra
không nhớ chuyện xích mích với chúng tôi trước kia.
Thái
sẹo nói say sưa:
-
…Đồng chí xuống đơn vị tham gia giữ chốt An Tiêm. Nhiệm vụ giữ chốt rất nặng nề.
Chốt là phải chốt chắc. Muốn chốt chắc, phải kết hợp với vận động tấn công. Phải
biết chớp thời cơ tấn công tích cực, tấn công dũng mãnh, tấn công chớp nhoáng,
tiêu diệt được hỏa lực và sinh lực địch. Phải giữ được chốt bằng mọi giá. Phát
huy sức mạnh tổng hợp, cần phải hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng giữa cá nhân với
cá nhân, giữa đơn vị với đơn vị…
Nói
rồi Thái sẹo gọi liên lạc dẫn tôi xuống đơn vị.
Chính
trị viên đại đội giữ chốt An Tiêm người Nghĩa Hưng - Nam Định mà tôi không sao
nhớ được tên, là chú cái Hồng cùng học đại học thư viện K6 với tôi. Khi biết
tôi là bạn học của cháu mình, chính trị viên tỏ ra rất vui. Ông chuyện trò thân
mật, dặn dò tôi rất kỹ về kinh nghiệm chiến đấu ở chốt. Sau khi ở chốt về, tôi
không được gặp lại ông. Đến giờ tôi cũng không được biết ông ra sao…
Liên
lạc dẫn tôi tới hầm chỉ huy thê đội giữ chốt. Đồng chí chỉ huy hỏi trong tiếng
pháo rít không khí:
- Cậu
tên gì?
- Tôi
tên Giống.
- Cậu
về tiểu đội một nhé!
Liên
lạc đại đội dẫn tôi tới hầm trung đội báo cáo tình hình rồi đưa tôi lên tiểu đội.
Trên đoạn đường đến vị trí chốt của tiểu đội, chúng tôi khi bò trườn, khi lom
khom theo giao thông hào nông choèn. Tiếng đạn pháo bắn cầm canh rít trên đầu.
Cối cá nhân của địch điểm đều đều “cắc”… “oành”, “cắc”… “oành” xuống trận địa
ta. Từng tràng tiểu liên rộ lên, khi ở phía này, khi phía kia…
Tiểu đội tôi có 5 tay súng. Tiểu đội trưởng chỉ cho tôi vị
trí và khu vực đảm nhiệm chiến đấu, nhìn tôi ái ngại:
- Cậu
lẻo khoẻo quá! Cậu ấm sinh viên hả? Thế này nhé, trong khi chúng tớ lo công sự,
hào giao thông, cậu cảnh giới tỉa địch…
Tôi
bắt tay ngay vào việc đào sâu thêm hố chiến đấu của mình. Hàng ngày chúng tôi
ra sức đào giao thông hào, củng cố hầm chiến đấu. Mỗi đêm một lần vận tải đưa
lương khô, rau xào khô, cơm nắm lên chốt. Khi bộ phận vận tải trở ra thì tải
thương binh về phía sau
Buổi
tối, mỗi người được một nắm cơm ăn với ca-la-thầu (rau khô Trung Quốc), buổi
chiều thì ăn một phong lương khô. Có hôm chúng tôi phải ăn cơm thấm máu của chiến
sĩ vận tải. Nhiều lần vận tải bị pháo chặn, thương vong tổn thất lớn, nhưng anh
em quyết không để chúng tôi đứt bữa.
Khi trời
mưa, hầm ngập nước, chúng tôi thay nhau tát nước. Khi trời nắng, chúng tôi cắt
phiên lo nước uống hàng ngày. Nước được lấy từ những hố bom. Mỗi bi-đông nước
được bỏ vào hai viên thuốc “lọc nước” để tiệt trùng. Có lẽ do đặc tính con người
ta thích nghi với hoàn cảnh để tồn tại nên chúng tôi không mấy khi bị đau bụng.
Nhiều khi đi lấy nước, chúng tôi bị địch phát hiện. Chúng bắn xối xả và còn gọi
cả pháo kích nữa. Không ít người đã thương vong trong khi đi lấy nước.
Đêm
ngủ ngồi, không màn, quờ tay bắt được muỗi.
Chốt
địch dàn hàng ngang đối diện với chúng tôi. Chốt gần nhất cách chúng tôi chừng
50 mét. Các tay súng phát huy khả năng bắn tỉa. Đêm đêm hai bên tổ chức tập
kích nhau. Có ngày nổ ra ba bốn trận lớn nhỏ. Chỉ một thay đổi nhỏ trên mặt đất
như mảnh dù pháo sáng hôm qua rơi xuống, hôm nay không thấy đâu, là địch pháo
kích, phóng M72, rót M79 vào những nơi chúng nghi có Việt cộng. Không ngày nào
là không phải sửa chữa hầm hào do pháo địch cày xới. Ở chốt ít khi phải chịu đựng
bom. Chỉ khi địch chuẩn bị tấn công, chúng rời chốt, lùi về sau, máy bay mới
đánh bom. Pháo mặt đất của ta thỉnh thoảng dập sang trận địa đối phương. Mỗi lần
pháo ta bắn, chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
Điều
kiện ăn ở, sinh hoạt của chúng tôi như loài chuột. Suốt thời gian ở chốt, chúng
tôi không rửa mặt, không tắm giặt. Mùi hôi từ người chúng tôi ban đầu rất khó
chịu, sau quen mũi. Pháo địch cùng những trận chiến liên miên làm thần kinh
chúng tôi luôn trong trạng thái căng thẳng. Mỗi người một vị trí chiến đấu, đảm
bảo một khu vực được phân công. Thời gian gặp nhau rất hiếm.
Nhìn
thấy bóng người loáng qua loáng lại bên chốt địch. Tôi nổ súng. Phát hiện vị
trí chúng tôi qua khói súng, địch phóng tới một quả M72. Đạn nổ ngay trước mặt
tôi, may có mô đất che đỡ. Tôi buộc giây vào các tấm tôn, từ xa giật giây cho
phát ra tiếng kêu, lừa cho địch nổ súng thì bắn trả. Sau này ban chính trị
trung đoàn gọi đó là sáng kiến đem phổ biến cho toàn đơn vị. Tôi bắn vào loại
khá nên hiệu quả cao. Hồi huấn luyện, môn xạ kích tôi thường đạt loại giỏi. Chỉ
cần năm bảy giây phát hiện địch trong khoảng cách ba trăm mét trở lại là tôi có
thể điểm xạ “bách phát bách trúng”. Mỗi khi nghe tiếng AK điểm xạ 2 phát một “tằng,
tằng” giòn giã của tôi, đồng đội đoán chắc một địch đã trúng đạn. Cái tên “Chiến
sĩ bắn tỉa” được anh em tự phát gọi thay tên tôi. Anh em lính mới nhìn tôi với
ánh mắt tin tưởng và cảm phục. Lính mới vào rồi thương vong, tôi không còn kịp
biết tên họ. Có lần, một cậu lính trẻ măng hỏi biết tôi có vợ quê Thư Trì (Thái
Bình), cậu ta reo lên: “Em ở Thư Trì đây”. Tôi định bụng khi có dịp sẽ hỏi cậu
ta về tình hình ở quê vợ, nhưng ngay đêm ấy đi tập kích, cậu ấy hy sinh.
Suốt
thời gian ở chốt, tôi không hề bị thương. Trong khi đó, cán bộ đại đội, trung đội
thay đổi luôn vì thương vong. Số chiến sĩ tiểu đội tôi cũng đã thay liên tục.
Tôi luôn phải gồng mình che dấu nỗi sợ chết. Khi địch tấn công, người tôi run bắn
lên, da cứ giật giật. Nhưng khi đã nổ súng, cái sợ biến đâu mất. Tôi quan sát,
nhận định và hành động như máy. Chúng tôi rải băng đạn, thủ pháo, lựu đạn và
súng ở nhiều vị trí dọc giao thông hào. Khi bị tấn công, chúng tôi vận động đến
vị trí nào cũng có sẵn vũ khí đánh chặn địch.
Tôi
không còn nhớ được bao nhiêu trận trong thời gian giữ chốt An Tiêm. Hình ảnh đồng
đội còn lưu đậm trong kí ức tôi là những khuôn mặt khô khốc, đen xạm khói đạn,
mắt bắt ánh sáng đèn dù lấp lóa, răng trắng ởn, tóc bết vào thái dương và trán…
Đôi khi bắt gặp khuôn mặt tái xám, ánh mắt thất thần của một đồng đội không vượt
qua được nỗi sợ chết. Có lần tôi tâm sự với một cậu người xứ Thanh:
-
Tao cưới vợ trước khi đi B nên rất sợ chết. Hiện nay chúng ta chiến đấu với
quân cộng hòa là chính. Giặc Mỹ chỉ để lại cố vấn và máy bay đánh bom. Giá mà
quân Thiệu và quân Giáp tìm cách đàm phán chung sống hòa bình thì hay biết bao,
bởi ta và lính cộng hòa đều là người Việt Nam mà. Sao lại cứ “gà cùng một mẹ” nện
nhau hoài làm biết bao thanh niên phải chết…
Cậu lính người xứ Thanh nổi đóa:
- Đồ
vô chính phủ. Ý thức giai cấp hỏng. Giảm sút tinh thần chiến đấu sẽ bạc nhược đầu
hàng địch hoặc B quay cho mà xem. Đã ra chốt, mày không bắn nó, nó cũng bắn
mày. Không còn cách nào khác là phải chiến đấu hết sức thì mới có hy vọng được
sống trở về… Tao là tao cứ kiên quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Nghe
hắn nói, tôi như pháo tịt ngòi. Chợt nhớ chuyện thằng Trịnh (tôi không nhớ
chính xác họ tên cậu ta) bỏ chốt. Lần ấy bọn rằn ri tấn công chiếm chốt. Chúng
quét AR15 như mưa về phía chúng tôi. Thằng chỉ huy cầm súng ngắn, miệng khi thì
thổi còi, khi thì hò hét “Dô lên! Dô lên!” đốc thúc lính tấn công. Trái ngược với
địch, quân ta khi tấn công thằng nào là đảng viên, là chỉ huy phải xông lên trước.
Đang
theo dõi địch, chợt nghe tiếng thằng xứ Thanh gằn lên: “Quay lại, không tao bắn!”
Tôi quay nhìn, thấy thằng Trịnh đang bò trườn rời khỏi chốt. Nghe tiếng thằng xứ
Thanh, Trịnh quay lại nhìn, hai mắt nó trắng dã thất thần. Vài giây, nó lại trườn
thoăn thoắt như rắn. Tôi định bảo thằng xứ Thanh thôi kệ nó, nhưng loạt tiểu
liên cực nhanh của địch sạt qua tai buộc tôi phải quay lại chống trả. Không có
thời gian ngắm bắn. Thấy bóng địch là roẹt luôn một loạt AK. Nghe tiếng Ak điểm
xạ 2 hoặc 3 phát một là biết ngay đó là lính đã dày kinh nghiệm chiến đấu. Cậu
nào non tay thì xả cả tràng dài. Địch gần, chúng tôi ném lựu đạn. Chúng tôi vận
động từ vị trí này đến vị trí khác. Mọi ý nghĩ, xử lý tình huống đều chớp
nhoáng như không suy nghĩ gì cả.
Địch
bị chúng tôi đánh bật trở lại. Chúng lui về củng cố lực lượng chuẩn bị đợt tiến
công mới. Giữa hai đợt tiến công, địch gọi pháo “vua chiến trường” nã vào chốt
chúng tôi. Tiếng nổ rung chuyển đất. Mảnh đạn văng như mưa rát bỏng không gian.
Mặt đất bị cày xới tung lên nhiều lần. Hầm hào bị đánh sập. Mặt đất nham nhở hố
pháo. Mùi thuốc đạn khét lẹt. Pháo dừng bắn. Chúng tôi chui từ đất lên…
Đột
nhiên không gian im ắng lạ. Tai tôi ong ong. Hai mu bàn tay đen nhẻm, lòng bàn
tay rát bỏng vì nắm vào phần sắt của khẩu AK báng gập. Mồ hôi cay mắt. Mấy giọt
rớt xuống trúng nòng AK sủi lên rồi biến mất. Màu quần áo biến thành màu đất và
khói súng. Khẩu AK thứ ba bị trúng mảnh đạn, phải thay khẩu khác. Tôi theo dõi
địch và phát huy sở trường bắn tỉa. Ngày và đêm ở chốt dường như không rõ ràng,
rạch ròi như ở hậu cứ. Đêm đêm chốt được đèn dù soi sáng như ban ngày. Địch
không mấy khi tấn công chiếm chốt vào ban đêm. Nhưng đêm là khoảng thời gian của
những trận tập kích. Khoảng lặng hiếm hoi báo hiệu một trận chiến mới sắp diễn
ra. Dường như chúng tôi đã quá quen với tình huống đó…
Một
hôm cậu liên lạc đại đội bò tới chốt, bảo tôi:
-
Anh Giống ơi! Chính trị viên phó bảo em truyền đạt cho anh biết: anh phụ trách
tiểu đội thay thế tiểu đội trưởng hy sinh hôm qua.
Tôi
vặc liên lạc:
- Cậu
về bảo chính trị viên phó xuống giao nhiệm vụ trực tiếp tôi mới nhận.
Liên
lạc nháy mắt:
-
Em chỉ biết truyền đạt lệnh của chị tri viên phó, làm hay không tuỳ anh. Thôi
em về chỗ chính trị viên phó đây.
Nghe
anh em xì xèo tay chính trị viên phó mới lên này nhát như thỏ. Từ hôm lên chốt,
hắn nằm bẹp trong hầm, đi ỉa vào loong bắt liên lạc đổ. Hơn một tháng chiến đấu
giữ chốt, số cán bộ tiểu đội và trung đội hy sinh hoặc bị thương hầu hết, thay
liên tục, thành ra chẳng ai muốn nhận chức chỉ huy cơ sở. Làm cán bộ tiểu đội,
trung đội là phải đi trinh sát, rồi dẫn quân đi đánh, xung trận phải lên đầu.
Đầu
tháng 11 - 1972 địch mở cuộc hành quân “Sóng thần 9” tấn công Nham Biều, Ái Tử.
Từ trước đó, tháng chín và mười, tại chốt chúng tôi giữ, địch liên tục thay quân
luân phiên tấn công hòng chiếm lại chốt. Quân số chúng tôi đã thiếu lại luôn biến
động vì thương vong hàng ngày.
Một
hôm, liên lạc truyền đạt lệnh của Ban chỉ huy C là 19 giờ tối sẽ thay chốt để về
hậu cứ củng cố lực lượng. Buổi sáng bỗng yên ắng lạ. Tôi nằm ngửa nhìn trời và
tự cho phép mình xả hơi. Nhưng đến chiều trực thăng quần đảo và bắn đại liên,
thả cối xuống chốt. Khi trực thăng rút, pháo kích lại dồn dập. Cả khẩu đội cối
60 của đại đội ở phía sau bị trúng pháo hy sinh. Địa hình biến đổi sau trận
pháo.
Tôi
không sao vượt qua được nỗi sợ hãi trước trận chiến, dù đã đánh nhiều trận.
Thoáng thấy bóng một bộ rằn ri, tôi lia đại một loạt AK. Loạt AK của chính mình
đã làm tôi tự tin và không còn co giật da nữa…
Khi
trận chiến tạm dừng, tôi mò lại các vị trí của tiểu đội. Cậu lính người Thanh
Hoá hy sinh. Cậu ấy đã thực hiện đúng quyết tâm của mình: Chiến đấu đến hơi thở
cuối cùng. Cậu Quỳnh bị đạn cối cá nhân rót trúng ngực. Vết thương lộ xương,
máu vẫn ri rỉ. Mặt cậu ta ám đen khói đạn, răng trắng ởn, hai mắt lấp loá ánh
đèn dù. Quỳnh yếu ớt:
-
Anh cho em ra với.
Tôi
bảo:
- Cứ
nằm đây chờ tao đi xem thế nào đã…
Mò
tới hầm chỉ huy, tôi gọi nhỏ:
-
Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi!
Trong
hầm có tiếng lục xục rồi “Đù mẹ” và vụt ra một quả mỏ vịt. Tôi phản xạ lăn vào
ngách hào. Tôi quay lại chỗ Quỳnh.
- Hầm
chỉ huy bị chiếm rồi. Chắc mọi người đã rút ra. Mình cũng ra thôi Quỳnh ạ.
Quỳnh
bảo:
-
Anh lấy võng kéo em.
Tôi
đặt Quỳnh vào võng, kéo Quỳnh rời khỏi chốt. Tôi cứ nhằm hướng không có pháo
sáng mà đi. Vòng cung pháo sáng chính là ranh giới vị trí chốt đối lập giữa ta
và địch. Quẹt phải mảnh tôn. Lập tức “cắc”… “oành”, địch bắn cối cá nhân. Tôi
lăn xuống hố pháo. Mũ cối bị mảnh đạn văng đi. Loanh quanh mãi vẫn chưa ra được
đường 4. Bất ngờ có tiếng quát nhỏ:
-
Các bố làm lộ hết bây giờ. Ra hay vào?
-
Ra.
-
Đi lối này.
Một
cậu lính công binh, trên người mặc độc cái sơ líp, đầu bọc túi vải trắng chỉ hướng
cho chúng tôi ra đường 4 để về tiểu đoàn quân y. Cánh công binh đang thực hiện
nhiệm vụ đánh bom phóng loại vũ khí mới, chắc là để mở màn cho trận tiến công
trên toàn tuyến phòng thủ Thạch Hãn.
Gần
tới đường 4, chúng tôi gặp nhóm vận tải đang trên đường vào chốt lấy thương
binh liệt sĩ. Hai cậu vận tải cáng Quỳnh về tiểu đoàn quân y. Tôi cũng đi theo.
Người tôi bỗng nóng hầm hập, run bắn. Ở chốt mãi không sao, bây giờ về tuyến
sau lại sốt. Một cậu lính quân y bảo người tôi hôi thối quá và cho tôi bộ quần
áo cũ để thay. Trước khi thiếp đi tôi còn kịp nhìn rõ những ánh chớp sáng choá
bầu trời… Từ phía vòng cung pháo sáng nơi tôi vừa ở đó về vang lên ba tiếng nổ
long trời. Đó là hiệu lệnh quân ta bắt đầu một cuộc tấn công mới.
Sau
hai ngày sốt ly bì, ngủ mê mệt, tôi khoẻ lại. Quỳnh đã được chuyển ra Bắc. Từ
đó đến nay tôi vẫn không có thông tin về Quỳnh. Trên đường về ban chỉ huy tiểu
đoàn báo cáo, tôi cứ lo lo có khi bị kỷ luật vì tội tự ý bỏ chốt cũng nên.
Không hiểu tình hình ban chỉ huy đại đội ra sao, có còn ai không hay hy sinh hết
rồi?
Thái
sẹo đã về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Tiểu đoàn trưởng mới truyền đạt mệnh
lệnh của Tham mưu trưởng trung đoàn cho gọi tôi về trung đội vệ binh. Tôi như
trút được gánh nặng lo bị kỷ luật. Tôi hỏi tiểu đoàn trưởng về ban chỉ huy đại
đội, ông làm như không nghe thấy câu hỏi của tôi. Ông lặng lẽ đưa cho tôi mảnh
giấy xé từ cuốn sổ tay ông vừa viết vội và ký tên. Trong mảnh giấy ông xác nhận
thành tích chiến đấu của tôi và lời nhận xét rất tốt đẹp.
Khi
tôi về tới trung đoàn bộ thì các đồng đội xuống đơn vị cùng đợt với tôi còn sống
đã về trung đoàn bộ từ tuần trước. B trưởng Dần, B phó Châu và A trưởng Sánh ôm
tôi lắc mạnh, mắt ngân ngấn nước. Tôi cũng không sao cầm được nước mắt. Một cảm
giác lạ lùng, gai gai lan toả trong người. Sau này tôi hỏi Dần:
-
Tao hay trêu ghẹo và đả kích làm mày có lúc nổi cáu lên, mà sao mày lại khóc
khi tao trở về?
Dần
bảo:
-
Trên chốt ác liệt lắm, tao lo mày gầy còm yếu sức, lo mày bị thương. Nghe báo
cáo mày chiến đấu dũng cảm, lập thành tích, được biểu dương... Mày về, tao mừng
quá. Có mày về rồi, khoản công tác văn nghệ tao yên tâm.
Vậy là hành động của tôi đã được truyền
về trung đoàn bộ từ trước…
Buổi
tối, tham mưu trưởng Thái sẹo cho gọi tôi lên gặp. Thái sẹo cho tôi biết đơn vị
thay chốt dính pháo trên đường, tổn thất nặng nề, phải rút ra ngoài củng cố rồi
mới vào đánh chiếm lại chốt.
Tin
lan truyền trong lính: quân cảnh vừa bắt được 5 thằng B quay của trung đoàn ở
Bãi Hà, trong đó có một thằng C viên phó, một thằng B trưởng...
Trung
đội vệ binh chúng tôi xuống chiến đấu cũng tổn thất nặng nề. Cứ mười người đi,
chỉ bốn người trở về. Mấy tuần sau, Chính uỷ Nguyễn Trung Nến trịnh trọng thông
báo trong cuộc họp giao ban:
-
Trung đội vệ binh được đề nghị tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng
ba. Có 5 cá nhân được tặng danh hiệu dũng sĩ quyết thắng cấp ba và cấp hai, ba
người được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.
Ông
tự hào nhấn mạnh:
- Lần
đầu tiên trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam có một đơn vị vệ binh được tặng
Huân chương chiến công giải phóng trong chiến đấu.
Cá
nhân tôi được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba và Danh hiệu dũng
sĩ quyết thắng cấp 2.
Chúng
tôi vốn rất quý trọng chính ủy. Ông cư xử với lính như cha chú đối với con
cháu. Sau này trên đường ra Bắc học Sĩ quan lục quân, tôi cùng Nguyễn Văn Sánh
về vùng quê biển Thanh Hóa thăm gia đình ông. Nhà ông đơn sơ, nghèo lắm! Vợ ông
và cô con gái vừa tốt nghiệp đại học sư phạm tiếp chúng tôi như đối với người
thân yêu. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp được gặp lại ông.
Biết
tôi viết chữ đẹp, Ban tham mưu trưng tập lên chép báo cáo của Trung đoàn và
danh sách chiến sĩ hy sinh. Con số thứ tự trong danh sách hy sinh, theo trí nhớ
của tôi, lên tới trên bảy trăm người, đa phần quê Nam Định và Thái Bình.
Trải
qua những ngày tháng chiến đấu khốc liệt, tôi còn được sống, thật là một kì
tích. Tôi tự hỏi: do số hay do may mắn mà tôi không hề hấn gì sau hàng tháng
chiến đấu liên tục trong máu lửa trên tuyến đầu của phòng tuyến Thạch Hãn?
Và
tôi mãi mãi nhớ ơn những đồng đội đã ngã xuống cho tôi được sống trở về…
TRẬN CỬA VIỆT
Tháng 1 -
1973, tin ta thắng lợi ở hội nghị Paris làm chúng tôi rất phấn khởi, mong đình
chiến sớm được thực hiện. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Việt Nam được chính thức ký kết. Lính ta ôm nhau hoan hô vui mừng. Chỉ huy,
lãnh đạo trung đoàn tỏ ý lo lắng tư tưởng hoà bình chủ nghĩa sẽ làm ta mất cảnh
giác.
Quân cộng
hòa tuyên truyền kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, “Kiện toàn an ninh lãnh thổ”,
“Bình định đặc biệt”. Địch tổ chức tấn
công liên tục cướp đất. D2 của E101 rải quân từ Tám Cát về Cửa Việt phải chiến
đấu vô cùng ác liệt. Trước sức tấn công điên cuồng của địch, Tiểu đoàn 2 tổn thất
nặng nề. Trung đoàn bổ sung quân không kịp với số hy sinh. Cuộc chiến đấu giành
đất giữa ta và địch diễn ra ác liệt suốt đêm 27 - 1 - 1973.
Bộ chỉ
huy mặt trận nhận định địch sẽ tấn công chiếm cao điểm 33 bên bờ bắc Thạch Hãn
làm điểm tựa uy hiếp toàn mặt trận Cửa Việt. Phần lớn các đơn vị tăng, pháo, cối,
chủ lực triển khai chiếm lĩnh khu vực Bắc Cửa Việt. Trung đội vệ binh chúng tôi
ở cùng bộ chỉ huy tiền phương đóng trên cao điểm 28,8 bờ Nam Cửa Việt. Đêm 27 -
1 - 1973 địch tập trung xe tăng, pháo binh, bộ binh tấn công từ biển lên, từ đường
quốc lộ Một thọc ra, từ phía tây tràn xuống... tiến tới sát bờ Nam cửa Việt. Lực
lượng chốt bờ Nam của ta quá mỏng, không cản được bước tiến của địch. Quân ta ở
bờ Bắc lại không sang kịp. Có ba xe thiết giáp 28 tấn kịp bơi qua sông, được lệnh
tấn công ngay. Nhưng trước số đông xe tăng địch, xe thiết giáp của ta không
phát huy được uy lực. Trên xe chỉ có súng 12 ly 7, không thể diệt được tăng địch.
Có lẽ thiết giáp ta tấn công chỉ nhằm củng cố tinh thần cho bộ binh. Trên cao
điểm 28,8 nhìn rõ xe tăng địch lù lù tiến. Các chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường
trên trảng cát. Một chiến sĩ xông lên, quỳ xuống, chĩa B40 chống tăng vào chiếc
xe tăng địch gần nhất. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chiến sĩ đã hy sinh trong
tư thế quỳ bắn. Chính uỷ Nguyễn Trung Nến theo dõi trực tiếp cuộc chiến đang diễn
ra trên cảng nguỵ, nhìn các chiến sĩ ta hy sinh ông bật khóc vì đau xót, vì cảm
thấy mình bất lực.
Có lệnh tất
cả sĩ quan và lính vệ binh trung đoàn cầm súng chiến đấu trực tiếp. Tiểu đội vệ
binh của tôi được lệnh tiến vào tham gia giữ khu cảng. Lực lượng chủ yếu của ta
ở đây đã thương vong nặng nề. Chúng tôi tiến vào vị trí chiến đâu chỉ với lựu đạn
và súng AK. Trung úy Lê Thanh Oai – Trưởng Ban 5, người bé nhỏ, mắt long sòng sọc,
tay vung vẩy khẩu K59, trực tiếp đốc thúc và chỉ huy vệ binh chiến đấu. Nhìn
dáng vẻ kiên cường dũng cảm và có phần… ác liệt của ông, tôi kìm được cái cảm
giác sợ chết đến run giật da thường thấy trước khi lâm trận và lấy lại được
bình tĩnh.
Toàn mặt
trận đạn nổ như ngô rang suốt đêm. Phía Nam, đạn vạch đường bắn thẳng lên trời.
Lạ nhỉ, sao lại có đạn bắn lên trời? Làm gì có máy bay? Sau này tôi được biết
có một trung uý tiểu đoàn trưởng của ta đã liên lạc với địch cùng ở tại chỗ,
không chiếm đất, không đánh nhau, hai bên cùng bắn lên trời. Nghe đâu vị trung
uý này bị kỷ luật.
Xe tăng địch
như cua dọc bờ biển tiến vào. Tôi lia một loạt AK vào chiếc tăng gần nhất. Đạn
AK như gãi ghẻ xe tăng, không hiệu quả. Tăng vẫn lù lù tiến tới. Hình như bộ
binh địch cũng không ham đánh. Cảm giác thời gian dài như vô tận. Cuối cùng thì
7 giờ sáng, giờ ngừng bắn cũng tới. Không gian bỗng im bặt tiếng súng. Tai tôi
ong ong. Rồi bất ngờ bật lên tiếng reo hò, cả của ta, cả của địch. Tôi đứng dậy
nhìn. Xe tăng địch xen kẽ với quân ta. Các chiến sĩ ta giơ cao súng tiểu liên,
vẫy cờ xanh đỏ. Lính cộng hòa đưa thuốc lá Rubi ra mời quân giải phóng. Mấy cậu
lính đơn vị bạn bắt tay, trao đổi lương khô lấy thuốc lá của đối phương. Trông
cảnh ấy, cứ như là hai bên vốn là anh em, chưa từng đánh nhau bao giờ vậy. Hình
ảnh ấy như câu tự vấn cứ xoáy vào não nhiều năm sau này làm tôi day dứt khôn
nguôi… Tâm trạng ấy dồn nén làm tôi bật ra hai câu thơ:
Mải mê đuổi
bóng bắt hình
Tóc sương
chợt ngộ ra mình ngu ngơ
Bộ chỉ
huy lệnh cho tiểu đội vệ binh rút về trung đoàn bộ. Thay thế chúng tôi là cả đại
đội trinh sát vào tiếp quản. Địch và ta xen kẽ nhau. Theo quy định, sau giờ ngừng
bắn, bên nào ở đâu là đất thuộc quyền quản lý của bên đó. Tại khu cảng, ta và địch
đều không nhường nhau. Ngày 28, 29 - 1 - 1973, chúng tôi được lệnh vượt sông Thạch
Hãn, sang bờ bắc tham gia đón và dẫn quân tiếp viện sang bờ nam. Riêng bộ binh
ta tăng cường sang bờ nam tới 19 tiểu đoàn. Linh tính cho tôi biết, cuộc chiến
chưa dừng lại. Quả như thế thật. Đêm 31 - 1 - 1973, quân ta dốc toàn lực mở trận
phản kích bất ngờ và giành thắng lợi lớn, chiếm lại đất. Địch lên tiếng phản đối,
tố cáo ta vi phạm hiệp định.
Hơn bốn
mươi năm sau gặp lại anh Lê Thanh Oai, ôn lại trận Cửa Việt, tôi hỏi:
- Ngày ấy
bác thể lực rất nhỏ mà sao trông bác lẫm liệt thế? Em thì sợ run lên trước khi
lâm trận. Trông dáng vẻ oai phong, đằng đằng dũng khí của bác, em lấy lại tự
tin và bất chấp hy sinh…
Anh Lê
Thanh Oai thật thà:
- Khi ấy
đốc thúc các em tiến lên chặn địch, anh biết là với trang bị AK và lựu đạn, anh
em mình khó mà thắng được đại bác, xe tăng của nó. Nhưng tình thế mình không diệt
nó thì nó diệt mình, chỉ còn cách là xông lên giáp chiến. May mà sắp đến giờ
đình chiến, nó dừng lại, chứ nó cứ tiến lên chắc anh em mình hy sinh cả rồi.
Nhớ về đồng
đội hy sinh như Phó ban hành chính Từ (người Thanh Hóa), Trung đội phó vệ binh
Lục (người Tây Nguyên), chiến sĩ Hệ (Hải Dương), Trắc (Phú Thọ), Thắng (Thị xã
Hải Dương)… chúng tôi bùi ngùi lặng đi.
Năm
2013, trong buổi giao lưu với chiến sĩ bảo vệ thành cổ Quang Trị của Đài truyền
hình Nam Định, tôi có trả lời phỏng vấn của phóng viên… Xin trích một phần cuộc
phỏng vấn này:
Phóng viên (PV):
- Thưa bác Trần Mỹ Giống, được biết bác từng chiến đấu bảo vệ
cửa Việt năm 1972 – 1973, xin bác cho biết tầm quan trọng của cảng Cửa Việt,
tương quan lực lượng giữa ta và địch, diễn biến trận Cửa Việt năm xưa!
Trần Mỹ Giống:
- Khi trận Cửa Việt diễn ra vào đầu năm 1973, tôi là lính vệ
binh trung đoàn 101 sư đoàn 325. Đơn vị tôi được giao nhiệm vụ chủ lực bảo vệ Cửa
Việt. Xin tóm tắt theo báo cáo tổng kết trận chiến này của đơn vị ngày ấy:
Cửa Việt có vị trí hết sức quan trọng
trong cuộc chiến giữa ta và địch.
Đối
với ta, Cửa Việt là bàn đạp phát triển tấn công mở rộng vùng giải phóng về phía
Nam, là căn cứ trung chuyển hậu cần trọng yếu cho các đơn vị đóng ở phía Đông
phòng tuyến Thạch Hãn. Mất Cửa Việt, ta khó giữ được phòng tuyến Thạch Hãn và
nguy cơ mất cả mặt trận Quảng Trị.
Đối
với địch, đánh chiếm được Cửa Việt sẽ làm chủ khu cảng quan trọng, tạo ra các
chốt giữ cửa sông Thạch Hãn, tạo thành bàn đạp có giá trị quân sự quan trọng,
có thể phối hợp lục quân - hải quân để tấn công chiếm lại phần đất ở Bắc Thạch
Hãn, đẩy đối phương vào tình thế rất khó khăn trong tiếp vận hậu cần cho Quảng
Trị.
Do
Cửa Việt có tầm quan trọng như vậy nên cả ta và địch đều quyết tâm giành giật bằng
được Cửa Việt. Cuộc chiến trở nên vô cùng ác liệt.
Ngày
21/1/1973 quân Việt Nam cộng hòa mở trận Tangocyti tấn công Cửa Việt.
Lực lượng
địch tham gia trận này có: 1 lữ đoàn đặc nhiệm, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến,
2 tiểu đoàn bảo an binh, 3 thiết đoàn xe tăng, 4 tiểu đoàn pháo, 4 tàu đổ bộ, 5
tàu khu trục, 1 sư đoàn không quân có B-52 của không lực Hoa Kỳ yểm hộ.
Lực lượng
của ta có E95 của F325, E64 của F320B tổ chức 3 tuyến phòng ngự chặn địch.
Đêm
25/1/1973, quân địch nổ súng tấn công, sử dụng 80 phi vụ B52 rải thảm, bắn hơn 60.000 viên đạn pháo
xuống trận địa quân ta. Lữ đoàn đặc nhiệm địch luồn lách qua các chốt chặn của
ta, đến nửa đêm 27 – 1 chúng tiếp cận được cảng Cửa Việt.
Trung
đoàn 101 thuộc F325 của chúng tôi khi đó đang ở Gia Hội, được tăng cường 5 xe
tăng, vận động tiến công đánh vào sườn Lữ đoàn đặc nhiệm ở Đông Hòa, Vĩnh Hòa,
bắn cháy 8 xe tăng nhưng vẫn không ngăn được Lữ đặc nhiệm tiến về cảng Cửa Việt,
hình thành 3 cụm quân vây bọc cảng.
Rạng sáng
ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn từ các trung đoàn 27, 48, 64
(sư 320B), 271 (độc lập), 38 (Quân khu IV) tăng viện cho các lực lượng giữ Cửa
Việt. Đến trưa 28/1, điều tiếp Trung đoàn 24 (sư 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc
trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của lữ đặc nhiệm địch.
Ngày 30/1
quân ta nổ súng tấn công nhưng bị địch đẩy lùi. Ngày 31/1, quân ta tổ chức tổng
công kích đồng loạt vào 5 cụm quân của địch. 8h 30' sáng 31/1, ba cụm quân địch
ở cảng bị diệt, hai cụm quân còn lại rút về Mỹ Thủy. Tuyến phòng thủ Vĩnh Hòa,
Thanh Hội, Long Quang, Chợ Sãi của B5 được khôi phục. Cuộc hành quân Tangocyti
của địch đã bị đập tan.
HỌC SĨ QUAN LỤC QUÂN
Sau
trận Cửa Việt, Trung đoàn trưởng Ngoan về Sư đoàn bộ 325 nhận chức Tham mưu trưởng.
Ngày 23 - 2 - 1973, chính uỷ trung đoàn gọi tôi, Châu, Sánh lên nhận nhiệm vụ mới:
Nguyễn Minh Châu đi học Sỹ quan ở Học viện chính trị đóng tại Vĩnh Phú. Nguyễn
Văn Sánh và tôi về học Trường sỹ quan lục quân ở Sơn Tây. Nhận nhiệm vụ mới,
tôi nửa vui nửa buồn. Vui vì được ra Bắc có dịp về nhà. Buồn vì đã học sĩ quan
chắc phải phục vụ quân đội lâu dài, mơ ước học tiếp đại học của tôi không biết
đến bao giờ mới thành hiện thực.
Chúng
tôi bàn giao vũ khí trang bị cho đơn vị, chỉ mang theo tư trang cá nhân. Nửa
đêm, cả trung đội tập họp chia tay chúng tôi. Mọi người cùng thức đến 3 giờ
sáng, giờ chúng tôi xuất phát. Những ngày sống chết có nhau, chia sẻ ngọt bùi,
yêu quý nhau như ruột thịt làm chúng tôi bịn rịn không muốn rời nhau.
Khi
lên xe tải có mui bịt kín, tôi thấy đã có khoảng ba chục đồng đội từ các đơn vị
cơ sở cùng đi học. Xe chở chúng tôi ra tới cầu Hiền Lương thì dừng lại. Chúng
tôi xuống xe đi bộ. Tới hậu cứ Bãi Hà, cán bộ quân lực thanh toán cho chúng tôi
phụ cấp tiêu vặt suốt những tháng chiến đấu ở Quảng Trị, trao cho chúng tôi giấy
tờ nhập học. Chúng tôi nghỉ lại Bãi Hà một đêm. Tôi trằn trọc không sao ngủ được,
nằm nghe tiếng suối róc rách, tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng lá rừng xào xạc mà
buồn vui khó tả. Sáng hôm sau Châu, Sánh và tôi bắt đầu cuộc hành trình đi bộ từ
Bãi Hà ra Bắc. Tôi mời Châu và Sánh cùng về chơi nhà tôi trước khi mỗi đứa một
nơi. Hai đứa nhận lời. Ba chúng tôi đi bộ mấy ngày liền ra Đồng Hới. Đêm ngủ nhờ
trong dân. Mấy ngày vất vưởng mới mua được vé xe ra Vinh. Ngày ấy đi xe khách rất
khó khăn. Tôi say nôn suốt dọc đường. Đến Vinh, lại cả ngày xếp hàng mua vé
tàu. Tới Thanh Hoá, Châu đi tiếp cho kịp ngày nhập trường ở Vĩnh Phú, còn tôi
và Sánh xuống ga vào thăm gia đình chính uỷ Nguyễn Trung Nến ở một xã miền biển
(tôi không nhớ tên xã) thuộc huyện Tĩnh Gia. Chẳng có gì làm quà, chỉ là báo
tin chính uỷ vẫn còn sống cho gia đình mừng thôi. Cô con gái và bà mẹ ở trong
căn nhà nghèo nàn. Bà mẹ quý chúng tôi như con. Nghỉ một ngày, chúng tôi ra tàu
về Nam Định. Lại một ngày một đêm xếp hàng ở bến xe Đò Quan Nam Định mới mua được
vé xe Giao Thuỷ.
Về
tới nhà lúc 10 giờ sáng. Vẫn hàng dậu đài bi vàng rực tơ hồng, u tôi thường lấy
lá nấu nước xông cho tôi mỗi khi tôi bị cảm. Vẫn ngôi nhà thấp bé lợp bổi giản
dị, nơi anh em tôi được sinh ra và sống trọn tuổi thơ ở đó. Dòng sông nhỏ bên
nhà chảy quanh làng, nơi chúng tôi hụp lặn nô đùa, vẫn trong xanh hiền hòa...
Sánh
giữ tôi lại để vào nhà trước cho u tôi bất ngờ. Tới ngõ, thấy bà nội tôi đang
lom khom quét sân. Bà tôi đã 80 tuổi, mắt loà rồi. Nghe tiếng Sánh hỏi nhà anh
Giống, tiếng khu Bốn trọ trẹ, bà tôi dừng quét, buồn bã:
-
Ai hỏi thằng Giống đấy? Nó đi bộ đội hy sinh rồi còn đâu.
Nghe
bà tôi nói thế, tôi sững người. Tôi chạy vào sân, ôm lấy bà thảng thốt:
-
Bà ơi, cháu về rồi đây mà.
Bà
tôi quăng cái chổi đi rồi rờ rẫm lên mặt, lên lưng tôi. Khi đã nhận ra đúng
cháu mình, bà reo lên, nước mắt đặc quánh chảy trên má nhăn nheo:
-
Ôi, đúng là thằng Giống về rồi. Anh Thuỵ ra mà xem con anh về đây này.
Bố
tôi đứng lặng bên bậu cửa, hai tay níu chặt thành cửa như chực ngã. Ông không
nói nên lời. Tôi cứ nhìn quanh không thấy vợ tôi đâu. Bố tôi bảo:
-
Vợ con đang ở quê ngoại. Để bố đi đón nó về.
Nói
rồi bố tôi lấy xe đạp đi Thái Bình đón con dâu.
-
Thằng Giống đâu? Thằng Giống đâu? Ôi, thằng Giống đã về rồi đâu…
U
tôi đang đi chợ, nghe tin tôi về, bà bỏ tất cả hàng lại, chạy vội về nhà. Đôi
chân u tôi khẳng khiu như díu lại, bước xiêu bước vẹo, người gầy da bọc xương.
Tóc u tôi bạc trắng, lưa thưa. Ngày trước, tóc u tôi dài qua gót chân. Mỗi bận
chải tóc, u tôi thường phải đứng lên ghế. Anh em tôi cứ quấn vào phủ tóc u lên
mặt. Vậy mà mới hai năm tôi nhập ngũ và đi chiến trường, u tôi già đi nhanh
quá. Chỉ có ánh mắt sâu thẳm của u chan chứa tình yêu con cái là vẫn thế. Tôi
ôm lấy u tôi, sung sướng nghẹn ngào. Chợt u tôi chửi ầm lên:
- Mẹ
cha những đứa độc mồm, nó lại bảo thằng Giống nhà tôi hy sinh rồi. Trời có mắt.
Nhà tôi ăn hiền ở lành nên thằng Giống được thần phật phù hộ. Tôi biết mà, con
tôi không thể chết được mà...
Tôi
mặc cho u tôi chửi thoả thích. Tôi biết tính u tôi, có chuyện gì là không để
trong bụng được, cứ phải nói ra mới thoả lòng. Hồi trẻ, do đẻ mấy anh tôi toàn
chết yểu, u tôi hoá điên hơn ba năm mới khỏi. Từ đấy, cứ động không vừa ý điều
gì là U tôi chửi rủa, chửi có bài có bản, chửi văn hoa, chửi có vần như vè như
thơ, lại kèm động tác vũ điệu hẳn hoi. Có thế U tôi mới bình tĩnh lại được. U
tôi sinh ra đồng bóng. Thỉnh thoảng bị kích động thần kinh, u tôi lại nhập đồng.
U tôi thuộc làu làu Truyện Kiều, Nhị Độ Mai. U tôi hay làm thơ, phần nhiều là
thơ đả kích thói tham nhũng của các vị chức sắc trong làng. Thế mà nhiều người
thuộc thơ của u tôi mới lạ chứ. U tôi rất tốt bụng. Chẳng giàu có gì, nhưng u
tôi thường nhịn miệng để giúp người nghèo. Dân làng rất quý mến u tôi.
Thời
kháng chiến, u tôi nuôi dấu cán bộ và nhiều con nuôi, lớn lên cho đi du kích.
Sau năm 1975, tình cờ một anh cán bộ đi công tác qua làng, đánh rơi ba lô, u
tôi nhặt được đem trả lại nguyên vẹn. Anh cán bộ cảm động ở lại chơi một ngày.
Biết chuyện u tôi có người con nuôi đi du kích bên Thái Bình rồi không có tin tức
gì, anh cán bộ hứa sẽ tìm giúp. Tưởng anh nói chơi, nhưng sau đấy vài tháng anh
báo cho u tôi là đã tìm thấy mộ liệt sĩ Đức, con nuôi u tôi. Ông Đức là em con
chú con bác với ông nội tôi. Bố tôi phải gọi ông bằng chú xưng cháu. Vì cha mẹ
ông mất sớm, khi ông mới 5 tuổi nên bố u tôi đón ông về nuôi, khi lớn cho đi du
kích. Năm 1952 ông hy sinh ở Kiến Xương, Thái Bình. Nhận được tin, bố tôi lai u
tôi bằng cái xe trâu Liên Xô sang Thái Bình thăm mộ ông Đức. Sau này cũng nhờ
có người em nuôi là cán bộ ở huyện làm giúp, bố mẹ tôi được hưởng chế độ thân
nhân liệt sĩ.
Tôi
trở về làm u tôi như trẻ lại. U tôi tất bật lo cơm nước. U tôi thể hiện tình
yêu con và bạn của con bằng những bữa ăn nhiều món ngon do chính tay u nấu nướng.
Mấy đứa em tôi đi học về reo mừng.
Châu
đi Vĩnh Phú nhập trường xong thì xin nghỉ ba ngày về nhà tôi ngay. Đến chiều
thì Châu cũng hỏi thăm được tới nơi. Chú Giang, em thứ ba của tôi dẫn hai anh
Châu và Sánh đi thăm quan nhà thờ Phú Nhai, chùa Trung, đi xem chợ Trung...
Châu và Sánh cứ nắc nỏm "nhà thờ Phú Nhai to", "chùa Trung đẹp
thật"...
Bố
tôi sang Thái Bình đón vợ tôi về luôn trong ngày. Vợ tôi vẫn gầy, rỏng rớt y hồi
sinh viên. Chúng tôi ôm chặt nhau, không nói nên lời. Khi chưa gặp vợ, tôi có
biết bao điều muốn nói, nhưng gặp rồi thì chẳng nói được gì. Lần này hy vọng
chúng tôi sẽ có con. U tôi thắp hương rì rầm khấn vái cho vợ chồng tôi. Hẳn lời
cầu khẩn của u tôi làm cho thần phật cảm động, vợ tôi nghén con Thanh, đứa con
gái đầu lòng của chúng tôi mà tôi yêu quý hơn tất cả trên đời.
Khế
thi tốt nghiệp xong, chưa được bố trí công tác, ở nhà chồng chăn bò, làm ruộng,
sống trong lo âu phấp phỏng. Một cậu cùng đơn vị, quê ở Thọ Nghiệp, bị thương nặng
được ra Bắc, báo tin cho u tôi biết là tôi đã hy sinh. Cậu ta nói có nhặt được
cái sáo khắc tên tôi ở trên chốt. Khế vừa về Thái Bình được hai ngày cho khuây
khoả thì tôi trở về.
Ba
ngày ở nhà loáng cái qua đi. Chúng tôi từ biệt gia đình để lên trường. Đến Hà Nội,
Châu đi Vĩnh Phú, còn tôi và Sánh đi Sơn Tây. Làm thủ tục nhập học xong, Sánh
phải về ngay lớp đào tạo sĩ quan trẻ. Chia tay nhau, chúng tôi đều nghĩ sẽ còn
được gặp nhau đều đều, ai ngờ từ đó đến nay chúng tôi chưa một lần gặp lại. Tôi
có gửi thư mấy bận về quê Châu và Sánh, nhưng không có hồi âm. Đến nay tôi vẫn
không rõ hai đứa có còn không, hay hy sinh trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm
1975, hay biên giới Tây Nam rồi. Đã hơn bốn mươi năm qua, hình ảnh hai đứa vẫn
đậm nét trong ký ức của tôi.
*
Tôi
được ban quân lực trường trưng dụng viết danh sách trích ngang học viên vì chữ
tôi đẹp. Tới đầu tháng 5 - 1973 tôi mới xong việc và nhận lệnh đi Lương Sơn
(Hoà Bình) nhập lớp đào tạo sĩ quan ngắn hạn. Ban chỉ huy Tiểu đoàn xếp tôi vào
Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội đào tạo sĩ quan lục quân khoá 35, thời gian một
năm (Từ tháng 5 - 1973 đến tháng 5 - 1974). Trung đội trưởng - trung uý Nguyễn
Tiến Tề đã ngoài ba mươi tuổi, dẫn chúng tôi lên một quả đồi tranh, chỉ vị trí
đóng quân. Toàn đơn vị bắt đầu một tuần làm doanh trại. Chúng tôi chia nhau,
người vào rừng chặt gỗ nứa, người cắt cỏ tranh bện thành tấm để lợp mái nhà,
người san nền... Sau một tuần công việc cũng đã hoàn thành. Doanh trại của
trung đội tôi là một ngôi nhà tranh rộng, dài như nhà kho, hai bên là các dãy
giường nứa, chân giường là các cột gỗ chôn xuống đất, ván giường là nứa đan
thành liếp. Từng tổ ba người, từng tiểu đội được bố trí vào vị trí nhất định.
Súng đạn, bát đũa, bàn chải đánh răng, mũ, áo... tất cả đều có giá để theo quy
định. Hiệu lệnh ăn cơm, báo thức, báo động, báo họp, báo luyện tập... đều dùng
cái kẻng là vỏ một quả bom Mỹ. Một ngày bình thường của chúng tôi như sau:
5 giờ
báo thức, tập thể dục tập thể; 5 giờ 30 vệ sinh cá nhân; 5 giờ 45 ăn sáng; 6 giờ
30 nghe đọc báo; 7 giờ bắt đầu học tập hoặc tập luyện; 11 giờ 30 nghỉ ăn trưa đến
12 giờ; 12 giờ 15 ngủ trưa; 13 giờ 15 báo thức, vệ sinh cá nhân; 13 giờ 30 học
tập; 17 giờ 30 chơi thể thao đến 18 giờ thì ăn tối; 19 giờ sinh hoạt tối; 21 giờ
nghe đọc truyện hoặc bản tin trên loa của đại đội; 21 giờ 30 đi ngủ; 22 giờ trực
ban đi kiểm tra.
Chúng
tôi học nhiều môn quân sự như công tác tham mưu, chỉ huy hiệp đồng tác chiến, chiến
thuật quân sự, tính năng tác dụng và sử dụng các loại vũ khí, công tác chính trị,
công tác Đảng... Thời gian và công việc luyện tập của chúng tôi rất căng thẳng
và nặng. Người ta gọi trường chúng tôi là trường “luộc quân” mà. Tôi gầy yếu nhất
đại đội, nhưng cố theo kịp mọi người. Khả năng văn nghệ và làm báo của tôi được
sử dụng triệt để. Những đêm liên hoan giao lưu với nhân dân địa phương, tiết mục
độc tấu sáo trúc (bài Anh vẫn hành quân, Lý hoài nam, Trên đường chiến thắng)
và đơn ca (hai bài "tủ" là Anh quân bưu vui tính, Tôi là Lê anh nuôi)
của tôi là một trong những tiết mục được hoan nghênh nhất, thường phải biểu diễn
lại hai ba lần.
Cuối
tháng 5 - 1973, u tôi dẫn con dâu lên thăm con trai. Nhà khách đơn vị bên ngoài
doanh trại, là nhà tranh vách đất, được ngăn ra từng buồng nhỏ. Người nhà của
lính được đón tiếp chu đáo, được mượn chăn màn và các dụng cụ sinh hoạt, được cấp
suất ăn hàng ngày theo chế độ. U tôi mừng rỡ cho tôi biết là bà sắp có cháu nội
rồi. Khế báo tin đã có giấy gọi đi nhận công tác ở tỉnh Ninh Bình. Hàng ngày
tôi vẫn phải đi học tập, chỉ buổi tối mới được ra khỏi doanh trại sau sinh hoạt
tối. Tôi thức tới khuya để chuyện trò với u. Đêm, tôi sờ bụng Khế cảm thấy con
tôi đang lớn. Tôi sung sướng không tả nổi. Thầm trong lòng, tôi mong có con
trai. Đời người lính chiến, biết thế nào…
Ngày
22 - 6 - 1973 âm lịch, tôi có điện báo bố vợ mất. Đơn vị không giải quyết cho
tôi đi phép. Tôi buồn bã và suy nghĩ mung lung đến đãng trí. Khi tổ chức chi
đoàn đại hội, tôi quên cả hô chào cờ, chính trị viên phải luôn nhắc nhở. Chính
trị viên, đại đội trưởng, trung đội trưởng thay nhau làm công tác tư tưởng, động
viên nhưng tôi không sao nguôi ngoai được. Bố vợ tôi bề ngoài trông rất nghiêm,
nhưng ông rất yêu con cái. Ngày tôi về lần đầu, ông bà giữ con gái, không cho
tôi ra ruộng hái dâu cùng Khế. Nghỉ hè năm thứ nhất, tôi sang nhà chơi định
cùng Khế đi xe đạp lên trường. Đáng lẽ ngủ luôn ở nhà Khế, tôi lại bỏ sang
thành phố Nam Định. Sáng sau chờ đến 9 giờ không thấy Khế, tôi sốt ruột đạp xe
sang nhà. Tới Quán Chuột, gặp ông cũng đang đạp xe về. Ông bảo:
- Cái Khế vừa
đi rồi, anh đuổi theo cùng nó lên trường đi.
Tôi chỉ kịp đáp một tiếng “Vâng ạ” rồi phóng theo hướng Hà Nội.
Qua thành phố ba cây số thì gặp Khế. Bữa ấy chúng tôi đạp xe đến tối. Kỳ nghỉ ấy,
nước sông Hồng lên to ngập lụt lớn, ông cụ phải thân hành đưa cô con gái rượu
qua phà Tân Đệ.
Khế
kể, khi ông sắp mất, Khế đang có mang con Thanh. Lúc Khế ngồi bên ông, ông cứ hỏi:
- Đứa bé gái
nào nó ngồi bên mày thế?
Khế
ngạc nhiên và bảo:
- Chẳng có
ai ngoài con.
Nhưng
ông nhất quyết là có đứa trẻ con ngồi bên cạnh Khế. Sau này Khế đẻ con Thanh, mọi
người mới giật mình: Thì ra ông đã nhìn thấy cháu ngoại ngay khi nó còn trong bụng
mẹ.
Tháng
10 - 1973, đại đội tôi xảy ra chuyện. Số là một cậu lính để cái đài National ở
doanh trại, cùng toàn đơn vị ra thao trường tập bắn đêm, khi về thì không thấy
cái đài. Ban chỉ huy đại đội lập danh sách những người xin phép ra ngoài trong
buổi tập, yêu cầu tự giác nhận và trả lại đài cho đồng đội, vì chỉ có người
trong đơn vị mới biết và mới ra vào được doanh trại. Trường hợp người dân vào
ăn trộm bị loại trừ. Cả 7 người trong nghi án đều không nhận. Bắt viết tường
trình tới ba lần không kết quả, ban chỉ huy tuyên bố sẽ kỷ luật cả 7 người.
Tháng sau, có quyết định trả 7 người về đơn vị cũ với lý do “không đủ tiêu chuẩn
học sĩ quan”. Tôi thương những đồng chí bị kỷ luật nhưng không biết làm thế
nào. Quả thật, kỷ luật ở đây vô cùng khắc nghiệt. Không ngờ đến lúc chính tôi
cũng rơi vào số phận tương tự. Sau này tình cờ tôi gặp hai trong số bị kỷ luật:
Một người trở về làm nông dân quê ở Vĩnh Phú, một người tên là Thắng về sản xuất
bánh nướng ở phố Hoàng Văn Thụ thành phố Nam Định. Gặp tôi, các bạn mừng rỡ như
gặp người ruột thịt, cùng ôn lại những kỷ niệm về trường sĩ quan lục quân. Dường
như chuyện xử lý bất công của ban chỉ huy ngày ấy không làm họ tức giận, họ chỉ
nhớ những kỷ niệm đẹp mà thôi.
Khoảng
cuối năm 1973, chi bộ đại đội đề nghị trên xét kết nạp tôi vào đảng, nhưng việc
không thành vì sau đó không lâu tôi bị kỷ luật. Chúng tôi vào đợt dã ngoại dài
ngày. Một lần đeo 35 kg gạch, mang theo khẩu CKC và 3 quả lựu đạn gang, hành
quân vượt núi, tôi bỗng nôn thốc nôn tháo, máu ướt đẫm ngực và ngất xỉu. Trung
đội trưởng Tề và Đại đội phó Náo trực tiếp đưa tôi xuống núi, ra đường số 6, bắt
xe tải về Sơn Tây, giao cho một cậu lính đưa tôi đi Bệnh xá của trường. Được
các bác sĩ hết lòng cứu chữa, tôi khoẻ lại. Tôi được xác định là bị viêm loét dạ
dày và hành tá tràng. Thể trạng tôi lúc này có 36 kg nên phải an dưỡng sau một
thời gian mới có thể mổ. Nhưng khi tôi hồi phục sức khoẻ, khám lại, các vết
loét đã ổn định, không cần thiết phải mổ nữa. Tôi xin ra viện.
Đi
xe khách về tới Hà Nội, đáng lẽ đi Hoà Bình thì tôi lại nhảy tàu về Nam Định.
Linh tính cho tôi biết có sự kiện lớn đã diễn ra đối với tôi. Tới Nam Định,
không còn xe về Giao Thuỷ, tôi đi bộ liền 3 tiếng sang nhà bố mẹ vợ. Tới nhà,
thấy giữa nhà có đống lửa củi xương đay, tôi ngờ ngợ có chuyện bất bình thường.
Trông thấy tôi, bà ngoại vui vẻ báo tin luôn:
- Vợ
anh đã đẻ con gái rồi.
Bà
đưa cháu qua đống lửa cho tôi. Con bé đỏ hỏn, luôn kéo tay lên mút. Ôi! Mình vẫn
cứ tâm niệm có con trai. Như đọc được suy nghĩ của tôi, bà ngoại bảo:
- Ruộng sâu
trâu nái không bằng con gái đầu lòng.
Tôi
ôm xiết con bé vào lòng, ôm luôn cả vợ. Vợ tôi bảo :
- Khai sinh
cho con tên là Thanh.
Từ
đây, Trần Thị Thanh là cái tên thương mến và đẹp nhất đối với tôi. Khế xanh
xao, yếu ớt, vẫn gầy như trước. Tôi không sao nói được ra lời rằng tôi yêu Khế
vô cùng. Gần đến ngày sinh, Khế xin nghỉ phép về nhà, đến Nam Định thấy đau bụng
liền về nhà mẹ đẻ cho gần. Về nhà rồi đi trạm xá xã đẻ. Đó là ngày 12 - 1 -
1974. Hai ngày sau tôi có mặt ở nhà và quyết định bỏ đơn vị 7 ngày để gần vợ
con.
Tưởng
đơn vị không biết ngày tôi ra viện, tôi chữa ngày xuất viện cho hợp lý. Nhưng
hoá ra khi tôi ra viện, bệnh xá đã điện về báo cho đơn vị biết. Đó là quy định
chung để quản lý chiến sĩ. Lên đơn vị sau một tuần yên ổn, tôi bị chính trị
viên gọi lên và gợi ý nhận khuyết điểm, làm kiểm điểm. Tôi hoảng lên, phen này
bị đuổi về đơn vị thì còn mặt mũi nào. Tôi kiểm điểm tới ba lần, thành khẩn nói
đúng sự thật. Tiểu đội, trung đội, rồi chi đoàn lần lượt tổ chức sinh hoạt kiểm
điểm tôi để giáo dục chung. Mọi người phê phán nghiêm khắc, phân tích sai phạm
của tôi, nhưng hầu hết đều yêu quý tôi và đều thừa nhận tôi là chiến sĩ tốt, có
nhiều đóng góp cho đơn vị nhất là kết quả học tập và văn nghệ. Cuối cùng tôi bị
cảnh cáo trước tiểu đoàn. Cuối khoá tôi bị xếp vào loại yếu của Đại đội, chỉ
phong hàm Chuẩn uý cùng 10 người khác, trong khi tất cả là Thiếu uý và có một số
Trung uý. Phạm Văn Đỡ cùng tiểu đoàn với tôi, là anh hùng nên được trao hàm Thượng
uý. Anh em tỏ ra ái ngại cho tôi thiệt thòi, nhưng tôi lại lấy làm mừng vì mức
kỷ luật như thế còn là nhẹ hơn nhiều những trường hợp khác.
Tháng
5 - 1974. Tổng kết khoá học xong chúng tôi được nghỉ 7 ngày thăm nhà trước khi
nhận nhiệm vụ mới. Tôi về thăm bố u một ngày, hôm sau đi Thái Bình thắp hương bố
vợ rồi vào ngay Ninh Bình thăm vợ con. Thư viện Ninh Bình sơ tán ở động Thiên
Tôn cách thị xã 8 km. Xuống xe ở thị xã Ninh Bình, tôi đi bộ một mạch tới động
Thiên Tôn. Ông Hồng đang bế con Thanh liền giơ con bé cho tôi. Con bé cười toét
miệng. Tôi ôm xiết con bé, hôn hít khắp người làm nó cười như nắc nẻ. Hồi chưa
hết sài, con Thanh quấy khóc suốt đêm tới ba tháng mới thôi. Các chú bộ đội thuộc
tỉnh đội Ninh Bình đóng bên cạnh thư viện thường sang “xem con chàn chạt nó thế
nào mà khóc ghê thế?”. Khế thường cho con Thanh nằm úp trên ngực mà dỗ nó,
thành ra nó quen, hễ đặt nó xuống là nó khóc. Có lần con bé đái dầm ướt đẫm ngực
bố. Tôi nằm thật im, cảm nhận dòng nước đái nóng hổi của con chảy xuống bụng, sợ
làm con bé giật mình đái không hết.
Hai
mẹ con Khế ở trong gian nhà lá 6 mét vuông. Bà ngoại thuê một người đi giúp việc
cho Khế. Tất cả trông vào đồng lương tập sự nên mẹ con Khế gặp rất nhiều khó
khăn. Ngày ấy người ta quản lý lương thực rất chặt. Ra đường khó kiếm được bánh
trái vì có lệnh cấm. Khế đưa bố con tôi đi chụp hình. Hết phép, tôi tạm biệt vợ
con đi Lương Sơn Hoà Bình để nhận nhiệm vụ với tấm ảnh vợ con trong túi áo ngực.
Không biết nhiệm vụ tới của tôi là vào Nam hay ở Bắc?
BẢO VỆ BIÊN GIỚI
Khi
tôi trở lại đơn vị ở Lương Sơn thì phần lớn số học viên đã được đơn vị cũ đón về.
Tôi trong số hơn một chục học viên “yếu kém” về trình độ hoặc ý thức tổ chức kỷ
luật của đại đội, hàm chuẩn uý, được điều về đơn vị huấn luyện - Sư đoàn 338
đóng tại Thậm Thình - Vĩnh Phú. Cuối tháng 6 - 1974 chúng tôi tới sư đoàn bộ.
Tôi được điều về làm trung đội trưởng B1, C10, D9, E102 đang làm nhiệm vụ xây dựng
đường tàu bắc công trình cầu Thăng Long. Trung đội phó B1 đang phụ trách đơn vị,
người Hưng Yên, đã 38 tuổi, thượng sĩ Đông Dương. Chúng tôi gọi những người
lính giữ hàm Thượng sĩ lâu năm, không phát triển là thượng sĩ Đông Dương. Khi
tôi về nhận chức B trưởng thì anh lại trở lại vị trí phó cho tôi. Anh trút nỗi
bực dọc vì không được phát triển lên tôi bằng cách thờ ơ với công việc, mặc tôi
xoay xở. Có khi anh còn nhè lúc tôi khuyết điểm mà hết lời phê phán tôi trước tập
thể. Tôi nể và thương anh vì đi bộ đội đã nhiều năm, chiến đấu trong Nam, sang
Lào mãi mà vẫn kẹt ở Thượng sĩ. Dần dà rồi anh cũng nhận ra sai lầm của mình và
nhiệt tình giúp tôi trong quản lý đơn vị.
Tháng
10 - 1974 chúng tôi đóng quân ở xã Kim Lỗ, huyện Đông Anh và tham gia xây dựng
cầu Thăng Long, công việc chủ yếu là đắp đường tàu. Đại đội trưởng là anh Nguyễn
Thanh Biền người Thanh Hoá, chính trị viên trưởng là anh Bùi Đình Cử người ở cầu
Khuốt (Ninh Bình). Trung đội tôi luôn dẫn đầu về năng suất và kỷ luật. Lúc đầu
giao mức 0,6 m3 người / ngày, sau tăng dần lên 2 m3 người / ngày mà chúng tôi vẫn
luôn vượt định mức. Cuối năm tôi được cấp giấy khen.
Ngày 2 - 10 - 1975 tôi được kết nạp vào Đảng, thời gian dự bị
9 tháng. Chuyển Đảng chính thức vào ngày 2 - 7 - 1976. Là người chỉ huy đơn vị
trong quân đội nhân dân Việt Nam, vào Đảng là tất yếu. Nhiều khi tôi tự ái:
Mình là cấp trưởng lại bị cấp phó truyền đạt nghị quyết chi bộ thì nó thế nào ấy.
Điều đó cũng là động lực giúp tôi phấn đấu…
Cuối năm Khế gửi con Thanh về ông bà
nội để lên thăm tôi. Đơn vị bố trí cho vợ chồng tôi ở nhờ nhà trẻ xã Kim Lỗ,
huyện Đông Anh (Hà Nội). Mấy ngày hạnh phúc trôi đi nhanh chóng, tôi lại bị cuốn
vào lao động. Mấy chuyện không quên xảy ra trong đơn vị tôi ngày ở xã Kim Lỗ.
Chính trị viên Bùi đình Cử lấy vợ nơi đóng quân, cưới ở quê. Nhân về phép thăm
vợ con ở động Thiên Tôn, Ninh Bình đúng dịp Cử cưới vợ, tôi thay mặt đơn vị tới
mừng. Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Biền cưới vợ người cùng quê công tác ở Công
ty cầu Thăng Long. Cháu bà chủ nhà tôi trọ ngã xuống ao. Hôm ấy tôi sốt nằm ở
nhà đã kịp vớt cháu bé hai tuổi đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện huyện Đông Anh.
Tháng 8 - 1976 Khế sinh thằng Hưng ở quê nội. Tôi không được về
thăm đứa con thứ hai khi nó mới ra đời vì phải nhận nhiệm vụ về sư đoàn bộ làm
trợ lý câu lạc bộ thay anh Phan Đức Luận chuyển ngành về quê. Sau anh Luận làm
Giám đốc Sở văn hoá thông tin kiêm Chủ tịch hội văn học nghệ thuật Kon Tum. Năm
2000 anh qua Sở Văn hoá Thông tin Nam Định, tôi có gặp lại anh, rất mừng. Trưởng
ban tuyên huấn là chú Thiêm, ở xã Xuân Bắc cách nhà tôi 1 km. Sau chú về hưu và
mất ở quê.
Bộ phận nhà văn hoá tôi phụ trách gồm 2 đội chiếu phim (một 35
ly và một 16 ly), hai đội văn nghệ (một chuyên nghiệp và một bán chuyên nghiệp),
thư viện, kho hàng hoá câu lạc bộ. Tôi về làm bộ mặt nhà văn hoá sư đoàn khởi sắc.
Hoạt động chiếu phim sôi nổi hẳn, văn nghệ đoạt nhiều giải cao, hệ thống thư viện
từ sư đoàn tới cơ sở vào nề nếp. Tôi mở nhiều lớp nghiệp vụ thư viện, thanh nhạc,
sân khấu, nhiếp ảnh. Thư viện sư đoàn 338 được nhiều đơn vị bạn về học tập. Những
chiến sĩ mà tôi không thể quên: chiến sĩ gái Nguyễn Thị Kiểu ở Kinh Môn Hải
Dương giữ thư viện, được vào Đảng và sau xây dựng gia đình với cậu Dũng phụ
trách máy nổ cùng trong câu lạc bộ của chúng tôi, quê Chí Linh. Dũng lái xe
phim đội 16 ly quê ở Phủ Lý. Trần Phú Lộc cùng quê tôi lái xe phim đội 35 ly.
Nguyễn Hoà thuyết minh phim người Hà Nội, còn gọi là Hoà Voi (vì Hoà hay hát
bài Con Voi). Hiện nay Hòa là nhà phê bình văn học, công tác ở Nhà văn hoá quân
đội, rồi Tạp chí Văn nghệ quân đôi, sau chuyển ngành làm ở báo Nhân dân. Nông
Văn Tài lính thợ chữa đài, sau là Đại tá Tư lệnh phó Đoàn 338. Những cán bộ
cùng Ban tuyên huấn với tôi có Nguyễn Quý Chiến quê Hồng Quang (Nam Trực) sau
này là đại tá công tác ở Cục địch vận Tổng cục chính trị, Đào Trọng Mừng trợ lý
giáo dục sau là đại tá Phó Cục trưởng Cục chính trị, Lê Văn Bôn trợ lý tuyên huấn,
sau là Đại tá Tiến sĩ triết học, Phạm Trá trợ lý tuyên truyền, anh Nguyễn Thanh
Cầm thay chú Thiêm làm trưởng ban Tuyên huấn F338 cũng đã nghỉ hưu... Nhìn lại
chiến sĩ dưới quyền và bạn bè cùng ban ngày ấy nay đều đã trưởng thành cả,
riêng mình chậm tiến nhất.
Từ khi làm trợ lý ban tuyên huấn sư đoàn 338, tôi có nhiều dịp
về thăm vợ con. Hàng năm hai, ba lần tôi về Nam Định kết hợp mua văn hoá phẩm,
dụng cụ câu lạc bộ về cấp cho các đơn vị cơ sở. Cuối năm 1976 sát nhập Nam Hà với
Ninh Bình, vợ tôi được chuyển về Nam Định. Ba mẹ con ở trong gian nhà 8m2
lợp giấy dầu, mùa đông lạnh, mùa hè nóng, chật chội không thể tả. Tôi thương vợ
con nhưng không biết làm thế nào. Các con tôi cứ vô tư lớn lên trong hoàn cảnh
khó khăn của bố mẹ. Con Thanh đẹp như công chúa nhỏ. Lần chú Giang đưa nó lên
đơn vị tôi ở Thậm Thình, nó ở với bố 1 tháng, cả đơn vị yêu quý chăm sóc nó.
Tôi đi công tác một tuần, gửi nó sang các cô thông tin. Khi về, đón nó, tôi hôn
nó, nó bảo :
- Ra ngõ
đã rồi bố hẵng hôn con kẻo các cô trông thấy.
Còn
thằng Hưng béo, ngây thơ đến lạ.
Năm 1978, mãi không thấy được phong quân hàm
trong khi những bạn cùng lứa đã hai lần lên sao, có người vượt cấp, tôi thắc mắc
với ban cán bộ thì hoá ra người ta cứ yên tâm tôi là quân nhân chuyên nghiệp.
Lúc này họ mới vội vàng đề nghị phong tôi lên thiếu uý.
Giữa năm 1978, tôi đang nghỉ phép ở Nam Định thì nhận điện báo
về thẳng Tổng cục Kinh tế học lớp bảo tàng - truyền thống, thời gian ba tháng.
Cuối năm 1978 chúng tôi chuyển quân lên Đình Lập (thuộc Hà Bắc, sau cắt về Lạng
Sơn) chuẩn bị chống Tàu. Cần nói là trong năm 1978 tôi bị chuyển đi chuyển lại
giữa Ban Tuyên huấn với Ban Cán bộ. Từ Ban Tuyến huấn sang Ban Cán bộ chưa nóng
chỗ, người ta lại chuyển tôi về Ban Tuyên huấn vì người thay tôi phụ trách câu
lạc bộ đã không biết làm thế nào điều hành công việc, và lính tráng cũng coi
thường không chấp hành. Trong thời gian công tác ở Ban Tuyên huấn, tôi đã sưu tầm
được một số tư liệu, sự kiện làm cơ sở cho việc biên soạn lịch sử F338. Khi tôi
chuyển ngành đã bàn giao lại toàn bộ tài liệu cho người thay thế tôi.
Tháng 2 - 1979, đơn vị tôi tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới.
Cuộc chiến diễn ra quyết liệt trên toàn khu vực sư đoàn đảm nhiệm. Một số trợ
lý sư đoàn đã phải xuống đơn vị trực tiếp chỉ huy chiến đấu, thay những đồng
chí hy sinh. Cách nơi đang diễn ra cuộc chiến đấu không xa, mọi sinh hoạt vẫn
sôi động. Dân công hoả tuyến, bộ đội phục vụ chiến đấu nườm nượp xuôi ngược, tiếng
cười vẫn vang lên đây đó.
Mọi
hoạt động của nhà văn hoá được duy trì như thời bình. Hai đội văn nghệ, hai đội
chiếu phim thay phiên lần lượt tiếp cận chốt phục vụ chiến sĩ. Tôi đã chuẩn bị
tư tưởng sẵn sàng xuống đơn vị chiến đấu khi có lệnh điều động, nhưng chưa có dịp
xuống đơn vị thì cuộc chiến đột ngột kết thúc.
CHUYỂN NGÀNH
Sau cuộc chiến tranh biên giới, sư đoàn củng cố tổ chức. Những
cán bộ giữ chức vụ nào hoàn thành tốt nhiệm vụ sau hai năm sẽ được đề bạt quân
hàm tương đương với chức vụ đó. Tôi tin là mình sẽ được phong hàm phù hợp với
chức trợ lý cấp sư đoàn, nhưng chờ mãi đến tháng 10 - 1980 vẫn không thấy gì,
trong lúc đó hầu hết các trợ lý khác đã nhận quân hàm mới. Tôi cảm thấy lòng buồn
khôn tả.
Ban
chi uỷ tăng cường một uỷ viên mới. Anh Cầm, trưởng ban tuyên huấn động viên tôi
vào ban chi uỷ, nhưng tôi không bụng dạ nào nữa. Anh Cầm, anh Mừng chỉ còn biết
lắc đầu và để tôi tự quyết định đời mình.
Tôi
trực tiếp hỏi Phó tư lệnh phụ trách chính trị Nhất Trí về việc tôi không được
phong hàm theo chức. Ông thực thà cho tôi biết lý do tôi bị ban lãnh đạo sư
đoàn gạch tên trong danh sách đề nghị phong hàm theo chức là “sức khoẻ yếu,
chưa qua trường đào tạo sĩ quan, chưa trực tiếp chiến đấu, tác phong còn gia
đình chủ nghĩa”. Nghe ông nói vậy, tôi bèn đem tất cả giấy tờ liên quan trình
ông:
-
Không trực tiếp chiến đấu thì sao nhà nước lại cấp cho tôi Huân chương chiến
công giải phóng, dũng sĩ quyết thắng? Không qua trường lớp thì bằng tốt nghiệp
sĩ quan lục quân này là thế nào? Tác phong gia đình chủ nghĩa thì đã sao khi mà
đơn vị liên tục được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, và tại sao lại cấp
giấy khen hàng năm cho tôi do chính Phó tư lệnh Nguyễn Đức Đệ ký? Sức khoẻ tôi
yếu ư, đúng thế. Vì sức khoẻ mà không phát triển được thì cho tôi được hưởng
chính sách...
Kiên nhẫn nghe tôi nói một thôi một hồi, xem kỹ các giấy tờ của
tôi xong, ông Trí bảo:
- Tôi cũng người Hà Nam Ninh, cùng quê với đồng chí. Tôi rất
tiếc là do mới về nhận chức nên không nắm được tình hình, mọi việc ban lãnh đạo
quyết định thực ra đều do Chính uỷ Nguyễn Đức Đệ đề xuất. Thay mặt ban lãnh đạo
sư đoàn, tôi xin lỗi đồng chí vì sự sơ xuất này. Tôi hứa sẽ đề bạt đồng chí vào
năm sau.
Nhưng tôi không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi. Ngay sau lần gặp Phó
Tư lệnh Nhất Trí, tôi báo cáo trưởng ban tuyến huấn sư đoàn xin ra quân. Một cậu
bạn trong Ban cán bộ rỉ tai cho biết vài câu chuyện.
Biết
uẩn khúc của sự việc, tôi càng quyết tâm xin ra quân. Nghĩ kỹ, tôi không giận
ai cả, mà lại thấy vui vì nhờ chuyện va vấp của tôi mà tôi được trở lại trường
đại học.
Tháng 12 - 1980 Sư đoàn
đã quyết định cho tôi ra quân.
*
Sau
khi liên hoan chia tay với ban tuyên huấn và bộ phận văn nghệ, câu lạc bộ, tôi
ra bắt xe tải về Hà Nội. Bất ngờ, một trợ lý nhà văn hoá quân khu xuống sư đoàn
xin tôi về làm trợ lý. Anh lấy làm tiếc vì tôi đã có quyết định ra quân. Anh vớt
vát:
- Được biết năng lực của đồng chí từ lâu, lãnh đạo nhà văn hoá
quân khu muốn lấy đồng chí về làm trợ lý. Nếu đồng chí đồng ý, chúng tôi sẽ can
thiệp với Bộ tư lệnh xin đổi quyết định. Trước mắt sẽ đề nghị quân khu phong
thượng uý cho đồng chí vì đó là quyền hạn cao nhất của quân khu, còn có gì sang
năm sẽ giải quyết tiếp.
Tôi cám ơn anh cán bộ quân khu và dứt khoát ra quân. Chúng tôi
đi nhờ xe tải của đơn vị về Thái Nguyên. Từ Thái Nguyên tôi đi xe khách về Hà Nội
và vào luôn Trường Cao đẳng văn hoá. Gặp Tình, Du, Chương, Liễu là các bạn cùng
lớp K6 ngày nào, nay họ đều là cán bộ giáo viên của trường. Tất cả đều nhiệt
tình đón tiếp tôi.
Hăm
hở ra quân, nhưng hoá ra từ trong sâu thẳm đáy lòng, tôi gắn bó với môi trường
quân đội biết nhường nào. Nhiều năm sau này tôi vẫn luôn hoài niệm về những
ngày tháng gian khổ đáng nhớ trong quân ngũ.
Tôi trằn trọc cả đêm và suy nghĩ miên man. Những
khốn khó trong đời sống thời bao cấp thì tôi có thể mường tượng được. Nhưng khi
ấy tôi không hề nghĩ rằng hai chục năm sau tôi trở thành một nhà nghiên cứu
trung thực với nhiều bài viết in trên báo chí và là tác giả và đồng tác giả vài
chục đầu sách nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không hề dám nghĩ mình sẽ là hội viên
của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Tôi từ bỏ cơ
hội làm Giám đốc Thư viện tỉnh mới chia tách với suất đất vài chục cây vàng để
có thời gian cho công tác nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không nghĩ rằng mình sẽ
là thư viện viên chính và giáo viên thỉnh giảng lâu năm của trường văn hóa nghệ
thuật, góp phần đào tạo nhiều cán bộ thư viện tương lai. Sau này khi đã nghỉ
hưu, tôi càng hiểu giá trị của những năm tháng sống trong quân ngũ. Những thành
quả mà tôi có được chính là nhờ tính kỷ luật, quyết tâm vượt mọi gian nguy để
hoàn thành nhiệm vụ đã hình thành trong thời kỳ mặc áo lính. Nếu như thời đi học
là thời gian tôi sống vô tư trong sáng nhất cuộc đời, thì những năm tháng trong
quân đội là thời gian sống đẹp nhất, đáng tự hào nhất và cũng nhiều trăn trở nhất
của tôi.
Một
bước ngoặt mới trong cuộc đời, một thời kỳ mới đầy khó khăn, đau khổ và hạnh
phúc, những thử thách cam go trong cuộc sống đời thường khác xa với cuộc sống
trong quân đội, sự đấu tranh trong tư tưởng để rũ bỏ tất cả ham muốn phù phiếm
mà vượt lên thanh thản đang chờ đón tôi... Hạnh phúc và đau khổ dường như là chị
em sinh đôi luôn song hành với mỗi con người.
TRỞ
VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Về với vợ con hai ngày, tôi lại ngược Hà Nội lo nhập học. Việc
nhập học của tôi cũng gặp khó khăn. Số là từ sau khoá Đại học Thư viện 9, Trường
Cao đẳng Văn hoá bàn giao Khoa thư viện cho Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp
đảm nhiệm. Đến năm 1980 bên Tổng hợp lại trả Khoa Thư viện về Trường Văn hoá.
Khi tôi chuyển ngành thì trường Tổng hợp chỉ còn một khoá cuối cùng đang chuẩn
bị thi tốt nghiệp. Lúc này Trường Văn hoá hiện có hai lớp (một chính quy và một
chuyên tu) đều là năm thứ nhất. Do tôi nguyên là sinh viên chính quy nên Phòng
Tổ chức Trường Văn hoá xếp tôi vào lớp chính quy năm thứ nhất vì không có lớp
năm thứ tư. Tôi xin chuyển sang trường Tổng hợp dự thi luôn với khoá năm thứ
tư, nhưng bên Tổng hợp không chấp nhận với lý do tôi không phải sinh viên của họ
đi bộ đội, mà là của Trường Văn hoá. Tôi cầu cứu Phạm Hữu Du, bạn cùng lớp K6
hiện là giảng viên của trường. Du nhiệt tình tham mưu và trực tiếp dẫn tôi đến
nhà nguyên Đại tá Rưu hiện là Hiệu trưởng của trường Văn hoá, xin cho tôi học lớp
chuyên tu để tiết kiệm thời gian. Nếu học lớp chuyên tu, tôi chỉ mất 2 năm rưỡi.
Ông hiệu trưởng đồng ý và viết giấy yêu cầu phòng tổ chức làm thủ tục cho tôi
được học lớp chuyên tu. Tôi nhập học lớp Đại học chuyên tu thư viện khi lớp đã
học được hai tháng.
Hai cán bộ thư viện Nam Định là Đoàn Kim Dung và Trần Thị Thái
cũng học lớp chuyên tu. Mẹ Thái là chị mẹ cả tôi, nên theo thứ bậc tôi phải gọi
Thái bằng chị. Hồi nhỏ chị Thái cùng học với tôi, hết lớp 7 chị đi thanh niên
xung phong. Năm tôi vào đại học thì chị chuyển ngành và thi đỗ vào lớp trung cấp
thư viện cùng trường với tôi. Dung người Cổ Lễ, cũng học cùng lớp trung cấp với
chị Thái. Khi tôi đi bộ đội thì hai người về công tác ở Thư viện Nam Định. Và
bây giờ cả hai người cùng học lớp đại học chuyên tu thư viện với tôi.
Chị
Thái rủ thêm chị Hợp và tôi góp gạo thổi cơm chung.
Tôi học rất nhàn vì toàn là học lại. Tuy nhiên tôi rất chăm học,
không bỏ buổi lên lớp nào. Tình, Du, Chương là giáo viên. Tôi thường bảo các bạn:
- Các ông cứ chấm bài mình thực chất như với người khác để
tránh tiếng ưu ái bạn bè, đạt điểm nào thì cho điểm ấy.
Anh Chương dạy Mỹ học bảo:
- Mình chấm bài của Giống là thực chất theo va-rem, chứ không
ưu ái đâu.
Quả thật không chỉ các môn của Du, Tình, Chương mà tất cả các môn
khác tôi đều được điểm khá giỏi. Cả khoá, tôi không có điểm trung bình. Một số
học viên cao tuổi thường nhờ tôi làm hộ đáp án các môn học. Từ năm thứ hai, tôi
làm lớp phó phụ trách học tập. Tôi say mê soạn đáp án, chuẩn bị các tình huống
hỏi thêm và câu trả lời của các môn học, rồi hướng dẫn cho bạn cao tuổi tham khảo.
Tính bộc trực, thẳng thắn, thương yêu và nhiệt tình với mọi
người được rèn luyện trong quân ngũ của tôi làm cho nhiều người yêu quý, nhưng
cũng bị nhiều người đố kỵ, gây cho tôi không ít phiền hà. Sau này tôi mới rút
ra bài học, lòng tốt thái quá nhiều khi cũng không có lợi. Tôi tỏ ra thân với
chị Hợp hơn mọi người. Đơn giản là chị ăn chung với tôi. Lần chị mời tôi và Tưởng,
người Ninh Bình, là lớp trưởng, về nhà chị chơi, ông thân sinh ra chị tâm sự
chuyện đời riêng chị thật đáng thương. Chị cưới được ba ngày thì chồng đi B và
hy sinh. Chị nhận một đứa trẻ bị bỏ rơi làm con nuôi. Ông cụ tha thiết nhờ
chúng tôi giúp chị học thành đạt để chị đỡ khổ sau này. Sau bữa ấy ba tháng,
ông cụ mất. Tôi và Tưởng thay mặt ban cán sự lớp về viếng ông cụ. Thấy tôi thân
với chị Hợp, có người trong lớp nghi tôi ngoại tình… về Nam Định nói với vợ
tôi. Vợ tôi nổi máu ghen, lên trường làm cho ra nhẽ. Khi Khế lên trường, tôi phải
mời anh Công là Bí thư chi bộ giải thích là chuyện không có gì, tôi vẫn là Đảng
viên loại một và được nhận giấy khen học sinh tiên tiến.
Khi thi vấn đáp môn lý luận văn học, đến lượt tôi, giáo sư
Nguyễn Văn Vĩnh chẳng hỏi tôi câu nào, cho tôi luôn 9 điểm. Năm 1971 tôi học lớp
đại học K6, cũng môn này, ông đã từng cho tôi 9 điểm. Ông thường rủ chúng tôi
đánh cờ tướng. Chả biết có thật hay là để trêu thầy Vĩnh, cánh giáo viên và học
sinh mê cờ hay kể giai thoại về ông như sau:
Vợ giáo
sư Vĩnh làm ca bận nên giao cho hai bố con ông thay nhau nấu cơm. Có hôm mải mê
cờ, đến giờ phải làm bữa, ông thí thỏn con trai:
- Con nấu hộ bố bữa nay, mai bố làm trả cho bài văn.
Thằng con ông đồng ý. Mấy hôm sau nó vừa khóc vừa đưa bài văn
bố làm hộ cho ông xem. Bài văn được cô giáo cho điểm 2 với lời phê “Lạc đề”.
Ông cáu, hỏi con:
- Cô giáo
con là cô nào mà lại giám cho bài của giáo sư Vĩnh 2 điểm, lại còn phê lạc đề mới
láo chứ!
Ông vốn là giáo sư giỏi, bạn cùng học
với nhà văn Hà Minh Đức cơ mà. Khi biết ông chính là thày dạy của mình hồi học
đại học, cô giáo của con ông vội vã đến xin lỗi ông.
Lê Thanh Tình đồng môn K6 với tôi, giờ đã là Trường phòng hành
chính tổng hợp Trường Cao đẳng Văn hóa. Vợ chồng Lê Thanh Tình thường mời tôi
xuống nhà ăn cơm. Một lần anh Đào Trọng Mừng cùng đơn vị cũ về Hà Nội công tác
nhờ tôi mượn cho cái xe đạp để đi lại cho tiện trong vài ngày. Tôi mượn Tình
cái xe đạp Liên Xô cho anh Mừng. Anh Mừng dùng chục ngày mới trả. Hồi ấy có cái
xe đạp là quý lắm rồi. Khi trả xe, tôi đùa hỏi vợ chồng Tình, Mười:
- Cả nhà có cái xe đạp, tôi mượn cả chục ngày, hẳn ông bà
không thể yêu quý tôi được như trước, đúng không?
Mười thật thà:
- Kể không có xe đi lại cũng vất thật, nhưng em chả bực bõ gì
đâu. Vẫn yêu quý anh thế mà.
Hai thằng con Tình, Mười trạc tuổi anh em thằng Hưng, Minh nhà
tôi. Chiều chiều tôi thường chơi chọi cỏ gà với đứa lớn.
Hai
mươi năm sau, tôi có dịp dự cưới con nhà Tình Mười. Thay vào cái gian nhà lúp
xúp ngày nào vợ chồng Tình sinh sống, là ngôi nhà 3 tầng khang trang đầy đủ tiện
nghi. Tình đã là Hiệu phó trường Đại học Văn hoá. Tình béo ra, tóc bạc nhiều,
nhưng tính nết thì vẫn thế. Sau này, Tình chuyển sang làm Vụ phó Vụ thư viện.
Tình đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Năm 2013 tình mất đột ngột.
Du ở nhà tập thể với Cần. Cần người Hải Hậu. Khi tôi học đại học
K6 thì Cần học Trung cấp thư viện. Sau Cần đi Liên Xô học tiếp đại học rồi về
làm giáo viên lại dạy chúng tôi môn Địa chí. Tôi thường rủ mấy bạn lớn tuổi như
Công, Kỳ, Khảng (Hải Phòng), Tới, Hoà (Quảng Ninh) xuống chơi với Cần, Du. Trong
quan hệ với chúng tôi, không bao giờ Du, Cần tỏ ra mình là thày, mà rất thân
tình bè bạn. Sau này Cần lên Hiệu phó, đỗ Tiến sĩ, có dịp qua Nam Định vẫn vào
thăm tôi thân mật như xưa. Tôi rất trân trọng những người bạn như Tình, Du, Cần.
Tôi không thể quên những người bạn cùng lớp chuyên tu ngày ấy.
Chẳng hạn anh Kỳ có biệt danh bạn bè đặt cho là “ông Khu Bốn” vì quê anh ở Khu
Tư, tính lại đa nghi. Mỗi khi đi vắng, anh lấy phấn ngầm đánh dấu lọ mỡ để biết
ngay nếu có ai ăn trộm. Cậu Hoà trêu, lấy mỡ dùng xong đánh lại dấu phấn. Anh Kỳ
biết mất mỡ mà không giám kêu ca. Tối tối, anh dùng xích sắt khoá cái xô tôn của
mình vào chân giường. Nhưng đối với tôi, anh lại rất hào phóng. Anh học yếu, mỗi
khi kiểm tra, bằng mọi cách anh xin được ngồi bên tôi. Bài thi môn anh văn, anh
chép y như bài tôi, nhưng cô giáo cho tôi 9 điểm, anh 6 điểm. Anh thắc mắc, cô
giáo bảo cô cho điểm theo thực lực. Lần cuối cùng tôi gặp anh trong hội nghị
Thư viện toàn quốc ở Đà Nẵng. Anh cùng tôi, Tới, Trương Đình Anh, Đào Tam Tĩnh
tới nhậu ở nhà Hà Xuân Đào là bạn cùng lớp chuyên tu xưa. Đào khi ấy là Hiệu
trưởng trường Văn hoá nghệ thuật Đà Nẵng, sau về làm giám đốc thư viện Đà Nẵng.
Trương Đình Anh là Phó Giám đốc Sở Văn hoá thông tin Quảng Trị, anh Tới làm
Giám đốc Thư viện Quảng Ninh. Anh Kỳ vẫn còn ôn lại những kỷ niệm lớp chuyên tu
và gọi tôi là thần tượng của lớp. Vài năm sau anh mất do ung thư.
Anh Tới như nông dân, hiền lành, chất phác. Nhớ một lần tôi và
anh đang ôn bài, thày dạy môn tâm lý học vào kiểm tra, anh Tới nhanh nhảu chào
to:
- Chào thày giáo ạ!
Không hiểu sao thầy nổi cáu, quát anh Tới:
- Tôi là ông thày chứ không phải thày giáo. Anh là học sinh vô
giáo dục, từ mai tất cả giờ của tôi không cho anh vào lớp.
Anh Tới khóc tức tưởi vì bị xỉ nhục. Trông cảnh ấy, tôi thương
anh mà không biết an ủi anh thế nào. Tôi đem chuyện này kể lại cho một số thày
cô giáo nghe. Tất cả đều bất bình với thày tâm lý. Anh Tới có cậu bạn cùng quê
Quảng Ninh, học lớp chuyên tu văn hoá quần chúng, biết chuyện này đã thề quyết
“trả thù” cho bạn. Một thời gian sau cậu bạn kể: Một bận, thấy thày tâm lý dò dẫm
xuống kiểm tra học tập, cậu đứng trước đám đông, khoanh tay kính cẩn cúi rạp
người:
- Chào thày giáo ạ!
Hai tiếng thày giáo bị cậu cố ý kêu to và kéo dài giọng làm
thày càng điên tiết. Thế là cái bài lên lớp cho anh Tới được diễn lại y như kịch
bản. Chỉ chờ có thế, cậu bạn anh Tới chờ cho thày nói hết mới trả đũa:
- Thày có nhiều loại thày: thày giáo, thày đồ, thày mo, thày
phù thuỷ, thày địa lý, thày bói, thày thuốc... Thày bảo gọi thày là thày giáo
là vô lễ. Vậy chứ thày không là thày giáo thì thày là thày bói chăng?
Thầy tiến sĩ tâm lý tím mặt không thốt được ra lời. Nhưng mà anh Tới vẫn bị thi lại môn tâm lý học.
Lại nhớ năm thứ ba đại học thư viện K6 trước đây, thi hết môn tâm lý tôi là người
duy nhất trong số sinh viên của nhiều trường do thày Ngôn giảng dạy được điểm
10. Bây giờ học lại, tôi chẳng khó khăn gì. Tôi làm đáp án ba câu dự đoán sẽ
trúng đề thi và phổ biến cho các bạn già tham khảo. Dung không nghe các buổi tôi
hướng dẫn, vì nó yên trí đã được thày Tiến sĩ tâm lý học cho đáp án các câu hỏi
rồi. Kết quả lần thi ấy, cả lớp được điểm tốt, riêng Dung và anh Tới bị điểm
kém, phải thi lại.
Khi thằng Hưng được năm tuổi, Khế cho nó
lên với tôi một tháng. Tôi thường nhốt nó trong nhà mỗi khi lên lớp. Bọn
trẻ con trong trường đứng bên ngoài cửa sổ chơi với nó. Lần tôi vừa mua được
tiêu chuẩn tem phiếu 5 kg khoai tây, nó chuyển hết qua cửa sổ cho lũ bạn, để bạn
chơi với mình. Tôi nấu ăn riêng để hai bố con ăn tuỳ thích cho tiện. Thằng Hưng
béo phục phịch, ngây thơ và thật thà như đếm. Ban đầu bữa tôi nấu hai lạng gạo,
Hưng thấy ít cơm không cho bố ăn. Ngày ấy lương thực theo tiêu chuẩn rất khó
khăn. Mấy đứa con tôi thật khổ.
Vợ tôi có
chửa ngoài ý muốn. Bàn đi tính lại mãi, vợ chồng tôi quyết định nạo thai vì khó
khăn kinh tế. Giáp Tết, Khế vào Bệnh viện tỉnh xin nạo thai. Bác sĩ khám rồi
nêu ý kiến :
- Giáp Tết
rồi, để ăn tết cho vui vẻ, ra giêng vào sẽ nạo cũng được.
Đến Tết,
vợ chồng tôi về quê. U tôi biết chuyện chúng tôi định nạo thai, bà làm ầm lên:
- Thai đã
thành hình, là mạng người đấy. Nạo đi là thất đức, U không cho phép các con làm
thế.
Sợ U, vợ
chồng tôi không vào viện nữa. Sáng 3 - 9 - 1981 tôi đang nghỉ phép ở nhà lo đám
cưới cô Hà - chú Rư thì cậu Hoà lên báo tin vợ tôi đã sinh đêm 2 - 9 - 1981
một thằng con trai. Nếu không có ý kiến của bà nội thì thằng bé có thể đã bị nạo
rồi. Thằng Minh ra đời trong hoàn cảnh ấy nên sau này tôi chăm chút nó hơn cả
như là bù lại chuyện bố mẹ suýt bỏ nó. Sự kiện thằng Minh ra đời đã làm thay đổi
lớn cuộc sống gia đình tôi. Khó khăn gian khổ hơn nhiều trong cuộc sống vốn đã
thiếu thốn của gia đình công nhân viên chức văn hoá quèn của vợ chồng tôi,
nhưng niềm vui và hạnh phúc cũng nhân lên gấp bội.
VỀ
VỚI ĐỜI THƯỜNG
Năm 1983 tôi ra trường với danh hiệu học sinh tiên tiến và được
nhận giấy khen. Tháng 6 - 1983 tôi về nhận công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh. Cả
nhà tôi 5 người chui rúc trong nửa gian nhà lợp giấy dầu rộng 8 mét vuông. Vợ
tôi gầy xơ xác. Tôi quen nếp sống đã có người khác lo cái ăn cái mặc cho mình
nên rất lúng túng trong cuộc sống đời thường. Mọi việc đều do vợ tôi quán xuyến.
Bố U tôi hỗ trợ cho vợ chồng tôi làm nhà. Được cơ quan cho mượn đất, vợ chồng
tôi dồn hết sức xây được căn nhà 14 mét vuông mái ngói. Chú Giang công tác
trong đội chiếu phim của Công an tỉnh, đi công tác ở Ninh Bình đã mua hộ tôi mấy
trăm gạch bi. Có gian nhà mới, tuy không rộng rãi gì nhưng đối với chúng tôi
cũng là quý lắm rồi. Trong gian nhà 14 mét vuông này, cả nhà tôi đã sống gần chục
năm. Chú Hải và vợ chồng cô Hà đều ở đây khi chưa có chỗ ở.
Những
ngày đầu nhận công tác ở thư viện Hà Nam Ninh, tôi chẳng biết làm gì ngoài chăm
chỉ công tác. Ban ngày, nếu không đi học, ba đứa con tôi đều bị nhốt trong nhà.
Con Thanh còn ít tuổi đã phải lo giúp bố mẹ trông các em, coi nhà và nấu cơm.
Được cái con bé ngoan ngoãn. Khó khăn kinh tế làm cho vợ tôi sinh ra lắm lời.
Tôi thì cáu bẳn và hay đánh con vô cớ. Biết đánh con là sai, nhưng sao tôi
không kiềm chế được mình. Có lần vừa đuổi đánh con Thanh, tôi vừa kêu to: “Mày
không chạy nhanh thì bố đánh chết”. Tác phong quân đội không phù hợp với cuộc sống
đời thường làm tôi rất khó chịu và cũng gặp nhiều phiền toái trong quan hệ công
tác. Càng bức bối ở cơ quan, tôi lại càng cáu bẳn với vợ con. Tôi tự tìm ra
cách giải toả bức bối của mình bằng cách đập vỡ cốc chén mỗi khi bức xúc. Cách
này không thể tồn tại lâu vì tôi không có tiền mua đồ mới.
Nhưng mà
tôi yêu vợ con tôi vô cùng. Tối tối, tôi kiệu thằng Minh trên vai, dắt thằng
Hưng đi dạo phố. Mỗi lần qua Cửa Đông, thằng Hưng đứng nhìn mãi quầy bán đồ
chơi. Nó biết bố mẹ không có tiền nên nó không đòi mua, mà chỉ đòi nhìn thôi.
Khi tôi kéo nó về, nó cứ níu chặt quầy hàng, không chịu về. Hồi nhỏ, thằng Hưng
rất ngoan và hiền, còn cái Thanh và thằng Minh rất quấy. Cái Thanh lười ăn, mỗi
khi mẹ cho ăn bột, chú Hải phải vừa múa vừa gõ mâm nhôm nó mới ăn. Còn thằng
Minh khi gắt ngủ, tôi vừa bế nó, vừa nhảy, vừa hát cả tiếng đồng hồ nó mới chịu
ngủ.
Năm thằng Hưng học lớp 1, một tối nó
theo trẻ con trong xóm đi xem ở nhà hát nhân dân thành phố. Đang nửa chừng buổi
diễn thì trời mưa rào, vỡ rạp, nó bị cổng sắt đổ đè phải và bị người ta dẫm đạp
chấn thương ở đầu. Có tới 6 trẻ con bị tai nạn trong vụ vỡ rạp hôm ấy được các
chú bộ đội đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi vừa ở nhà ông Thắng 177 Hoàng Văn Thụ
về thì được tin dữ. Tôi hoảng hốt chạy vào viện. Vợ tôi thất thần mếu máo:
“Không chắc thằng Hưng có qua được không”. Cô Thục hàng xóm về nhà lấy quần áo
của thằng Hưng mang vào, không nhận ra đứa nào với đứa nào, đã mặc nhầm cho đứa
trẻ khác. Thằng Hưng phải khâu 7 mũi trên đầu, người thâm tím vì bị giẫm đạp.
May sao thằng Hưng qua khỏi. Kỳ thi năm ấy, nó làm bài đúng hết, nhưng không ai
đọc được. Cô giáo truy hỏi, nó bảo: “Bố em dạy viết như thế.” Cô giáo mời gia
đình lên gặp. Giơ ngược bài thi của nó lên soi qua ánh sáng thì chữ hoàn toàn
bình thường và đúng hết. Tôi linh tính rằng đó là ảnh hưởng của vết thương sọ
não làm con tôi tri giác ngược.
Hè,
tôi cho Hưng về quê với ông bà nội. Khi về đón thằng Hưng đi Nam Định, tôi được
bà nội kể:
- Thằng Hưng nó biết xem bói đấy, bói đúng mới lạ chứ. Nó bói
cho thày Hoan trụ trì chùa Tùng Lâm là “bà không có chồng” và “bà phải cẩn thận
kẻo tai nạn xe đạp”, mà nó 6 tuổi thì đã biết gì. Thế là nhiều người đến nhờ nó
bói làm vui.
Sau này quả nhiên thày Hoan bị tai nạn xe đạp gẫy xương hông,
không còn đi lại được rồi mất.
Do ảnh hưởng của vết thương năm ấy, thằng Hưng giảm hẳn kỹ
năng nói. Nó không diễn đạt được ý nghĩ của mình cho mạch lạc. Nó học khá các
môn tự nhiên, kém các môn xã hội.
Bữa ăn, Khế chia cho mỗi đứa con từng con tôm rang muối mặn. Cảnh
ấy làm tôi trăn trở rất lâu. Tôi tâm sự với bạn bè. Anh Trinh cùng quê bảo tôi
đi buôn lậu với anh. Tôi sợ. Anh bảo có gan mới làm giàu được chứ. Cuối cùng tôi quyết định đi bơm chữa xe đạp
buổi tối. Lúc đầu cũng ngượng, sau quen dần. Kiếm mỗi tối bơ gạo cũng vất vả lắm.
Tôi bị quỵt tiền bơm là thường. Có lần, bọn thanh niên càn quấy vờ đánh nhau cướp
bơm xe của tôi chạy mất.
Từ
năm 1988 - 1990 (và cho đến năm 2012) tôi được chú Viển giới thiệu tham gia giảng
dạy các lớp trung cấp thư viện ở Hà Nam. Sáng đạp xe từ 5 giờ lên Hà Nam dạy học,
chiều đạp xe về Nam Định kịp ra phố chữa xe buổi tối.
Ngày
nhà giáo Việt Nam năm 1990 là một ngày đặc biệt đối với tôi. Đã gần 30 năm qua
rồi mà mỗi khi nhớ lại ngày ấy, nước mắt tôi cứ trào ra. Tối hôm ấy, gần chục
em học sinh lai nhau từ Phủ Lý về Nam Định chúc mừng thày. Con lớn tôi dẫn các
anh chị ra phố gặp tôi. Các em mang hoa chúc mừng và tặng tôi 4 mét vải pô pơ
lin trắng may áo. Tôi dở khóc dở cười, không biết ứng xử thế nào. Các em nhìn
tôi lặng người đi, rồi tất cả bỗng sôi nổi hoạt bát tranh nhau bơm xe cho
khách. Các em vừa giúp tôi bơm vá xe, vừa chuyện trò vui vẻ đến 22 giờ mới đèo
nhau về Phủ Lý.
Ngày Nhà giáo Việt Nam năm ấy khắc sâu trong tâm khảm tôi với
bao cảm xúc vui buồn không thể nào quên được. Mảnh pô pơ lin may áo đã không
còn dùng được, nhưng tấm tình thày trò thì còn mãi trong tôi.
Học
sinh lớp thư viện khoá 3 và 4 ngày ấy rất yêu quý và kính phục tôi vì tôi nhiệt
tình và có kiến thức sâu về nghiệp vụ. Mười lăm năm sau gặp lại, có em còn gọi
tôi là thày và xưng con, cùng nhắc lại những kỉ niệm cũ.
Trong
số hàng nghìn học trò học tôi, nhiều em có năng khiếu văn, thơ. Em Đoàn Văn Mật,
học Thư viện khóa 3 (2000 – 2002), hiện công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã
thành nhà thơ. Năm 2008 tôi nhận được tập thơ đầu tay em gửi tặng. Đó là tập
thơ “Giữa hai chiều thời gian”, trong đó có những câu rất ấn tượng như “Cạnh
chiếc bình không hoa / Thấy có ngàn hương tỏa”.
Em
Trần Minh Tiến khóa Thư viện 6 tặng tôi một bài thơ rất hay, lấy tên là “Bài
thơ không vần kính tặng thầy Trần Mỹ Giống”, cùng tập bản thảo thơ gần trăm
bài… Tôi cứ tự trách mình không cẩn thận và rất tiếc tập bản thảo bị thất lạc
trong lúc người thu dọn thuê vận chuyền về nhà khi tôi nghỉ hưu.
Trong
số thơ văn học trò tặng tôi, có bài thơ của một em học trò rất đặc biệt. Lúc bấy
giờ là khoảng chín giờ tối 30 Tết năm 2004, trời lạnh và mưa lâm thâm. Đột
nhiên xuất hiện trước cửa nhà tôi một cô bé gầy gầy, hai tay ôm bức tranh sơn
mài. Cô gái không nói, chỉ cúi đầu chào tôi. Tôi dắt em vào nhà, thăm hỏi thân
mặt. Em chỉ vào bức tranh và tờ giấy đánh máy dán bên phải phía dưới, miệng nói
không rõ lời, dáng vẻ rất xúc động. Nhìn tờ giấy dán trên bức tranh tôi thấy đó
là một bài thơ đề tặng tôi. Tôi vừa đọc bài thơ, vừa cố nén cảm xúc dâng trào
trong ngực, lên mắt.
Cô
gái ấy là em Phạm Thị Diệu Thúy, học sinh Thư viện khóa 4 năm 2002 – 2004 Trường
Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Nam Định. Những ngày đầu lên lớp, tôi chú ý đến
cô bé cứ nhìn tôi không chớp mắt suốt buổi. Khi đối thoại với học trò, tôi chỉ
định cô bé trả lời. Cô bé đứng dậy, mặt tái đi, miệng ú ớ như sắp khóc. Linh
tính cho tôi biết em này có gì đặc biệt đây. Tôi vội vẫy tay ra hiệu cho em ngồi
xuống, rồi làm như không có chuyện gì, tôi tiếp tục giảng bài. Giờ nghỉ, tôi hỏi
lớp trưởng thì được biết: Em Thúy bị tật câm điếc bẩm sinh, nhưng rất ham học.
Tôi đề nghị lớp bố trí em ngồi bàn đầu. Khi giảng bài, những phần quan trọng,
tôi nói chậm, rành rọt, cố thể hiện khẩu hình thật rõ ràng, mắt thường xuyên
giao lưu với Thúy, trong lòng luôn cảm nghĩ mình đang nói với đứa con gái nhỏ
yêu thương… Thường khi nghỉ giữa giờ,
tôi chuyện trò với Thúy. Thúy nhìn miệng tôi để đoán hiểu tôi nói gì và dùng động
tác giao lưu là chính. Bài học có chỗ nào chưa rõ, Thúy viết ra giấy hỏi tôi.
Tôi trả lời tỉ mỉ, còn viết ra giấy cho em đọc. Cuối khóa, Thúy đỗ tốt nghiệp
loại khá. Sau đó em còn thi đỗ và theo học khóa Đại học Thư viện tại chức do
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội mở tại Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh
Nam Định.
Bài
thơ cùng bức tranh sơn mài em Thúy tặng là kỷ vật quý giá đối với tôi. Bài thơ
đó như sau:
VIẾT
TRƯỚC NGÀY XA TRƯỜNG
Kính tặng thầy Trần Mỹ Giống
Thầy chẳng
đòi hỏi những gì được mất
Những gì cho
và nhận ở lớp trò
Cần mẫn chở
chuyến đò tới đích
Sang sông rồi
con gửi lại vần thơ.
Con viết vần
thơ trong ngày xa cách
Nước mắt con
rơi trên trang giấy chữ nhòa
Tìm chẳng thấy
lời hay tứ đẹp
Chỉ tấm lòng
trò nhỏ trước khi xa.
Phạm
Thị Diệu Thúy
Lớp
Thư viện 4 khóa 2002 – 2004
Tái
bút:
Mãi
mãi con không bao giờ quên thầy – một người thầy đã hết lòng quan tâm giúp đỡ
và để lại cho con ấn tượng sâu sắc. Năm học vừa qua nếu con có điều gì để thầy
buồn thì xin thầy bỏ qua cho con…
(Tối 30 Tết Giáp Thân 2004)
Bài
thơ giản dị, không cầu kì, thuộc loại thơ thoại. Nhưng tôi rất trân trọng bởi
nó là tấm tình chân thực của cô học trò nhỏ, lại là một học trò đặc biệt. Tôi
muốn nói với em: “Diệu Thúy ơi! Thầy cũng không bao giờ quên hình ảnh của em. Cảm
ơn em đã đem lại cho thầy niềm hạnh phúc và tự hào về lớp trò của mình. Chúc em
hạnh phúc và may mắn trong cuộc sống”.
***
Con Thanh thương bố mẹ, tối tối, khi bố ra phố chữa xe, nó lại
mang mẹt bưởi ra ngồi bán ở đầu ngõ. Thằng Hưng và thằng Minh quẩn quanh chị,
thòm thèm nhìn mẹt bưởi. Vợ chồng tôi thương con, không để nó ra phố nữa. Được
cái các con tôi học chăm chỉ. Con Thanh năm nào cũng được giấy khen học sinh
tiên tiến. Tôi yêu con Thanh nhiều lắm. Có lẽ vì nó là đứa con gái duy nhất, là
con đầu của tôi. Đi làm về, không thấy bọn trẻ là tôi như thiếu thốn cái gì. Tối
tối, tôi mở màn nhìn các con, thơm lên má con Thanh rồi mới yên tâm đi ngủ.
Dần dần tôi thích nghi phần nào với cuộc sống đời thường. Những
cơn bực vô cớ của tôi giảm dần. Tôi đặt hết mơ ước vào các con. Niềm mơ ước kỳ
vọng vào các con đem lại cho tôi nghị lực sống. Năm con Thanh học cấp ba Lê Hồng
Phong, nó bắt đầu tiêu tốn thời gian với bạn bè. Tôi canh nó hàng ngày, cấm bạn
bè nó đến chơi, bắt nó tập trung học tập. Nhưng nó thi đại học không đỗ. Thật
đúng là học tài thi phận. Cậu Lê Thanh Tình – bạn cùng học đại học với vợ chồng
tôi, là hiệu phó Đại học Văn hoá biết chuyện con tôi và con nhà Hải Bút thi trượt
đại học, đã đặc cách tuyển hai đứa vào đại học thư viện. Con nhà Hải Bút đi học,
ra trường về Thư viện quốc gia. Con Thanh nhà tôi bỏ đi trung cấp sư phạm Hà
Nam vì thương bố mẹ. Nó tính toán, nếu học đại học mất bốn, năm năm. Hai năm nữa
thằng Hưng vào đại học thì bố mẹ không nuôi nổi hai đứa học đại học cùng một
lúc. Nó đi trung cấp hai năm ra trường thì cũng là lúc Hưng vào đại học. Sau
này nó phải vất vả đi cao đẳng rồi đại học hàm thụ.
Cả ba đứa con tôi đều học ở Trường cấp III chuyên Lê Hồng
Phong. Thằng Hưng tốt nghiệp Bách khoa, về công tác ở Công ty báo thoại Nam Định.
Thằng Minh cũng tốt nghiệp bách khoa, học tiếp bằng hai công nghệ thông tin, lại
đỗ thạc sĩ điện tử viễn thông. Con Thanh
dạy cấp một ở Nam Xá (Nam Trực). Chục năm sau con Thanh tốt nghiệp đại học
tại chức, chuyển về dạy ở Tiểu học Lê Quý Đôn trong trung tâm thành phố. Các
con tôi đều học hành đến nơi đến chốn là niềm tự hào, là hạnh phúc lớn của vợ
chồng tôi.
CÔNG
TÁC THƯ VIỆN
Tôi
được phân công vào tổ phong trào cùng anh Thanh Hồng, do anh Lộc phụ trách. Sau
này anh Lộc chuyển đi, tôi được tỉnh bổ nhiệm làm trưởng phòng địa chí thư mục
và phong trào thư viện cơ sở. Tôi hăng say công tác. Khi cần, bất cứ hoàn cảnh
nào tôi cũng sẵn sàng lên đường đi cơ sở. Có lần tôi đi cơ sở ba tháng liền.
Các thư viện cơ sở một thời nổi tiếng như Khánh Phú (Tam Điệp), Trác Bút (Duy
Tiên), Hải Phú (Hải Hậu), Trực Thái (Nam Trực)... đều có công sức của tôi và
anh Thanh Hồng. Anh Thanh Hồng hơn tôi gần hai chục tuổi, đẹp trai và hào hoa.
Vốn là thuyết minh phim chuyển sang thư viện, anh quen biết rất nhiều người.
Anh thích việc xã giao, ăn mặc chải chuốt và tính rất sĩ diện. Mỗi khi hai anh
em đi cơ sở, anh thường nhận việc giao tiếp với lãnh đạo địa phương, nhường tôi
phần làm chuyên môn nghiệp vụ. Tôi cho rằng như thế là hợp lý vì tôi giỏi
chuyên môn nhưng kém giao tiếp, anh thì giỏi giao tiếp mà lại kém chuyên môn.
Quả thật hai anh em tôi đi cơ sở thường được địa phương quý mến và khâm phục.
Nhiều cán bộ địa phương cứ ngỡ anh Hồng là lãnh đạo thư viện tỉnh. Có lần anh
Điểm là giám đốc thư viện tỉnh cùng đi với chúng tôi, lãnh đạo địa phương cứ
báo cáo anh Hồng mà không đả động gì đến anh Điểm. Anh Hồng rất tự hào vì điều
đó. Có lúc bốc lên, anh tự nhận mình là Chủ nhiệm thư viện. Tính anh đa tình.
Khi ở đội chiếu bóng, anh bị kỷ luật vì chuyện “yêu ngoài luồng”. Chuyển sang
thư viện, anh vẫn giữ tính cũ, ở đâu cũng có người yêu. Song chẳng vì thế mà
tôi coi thường anh. Thực tình anh rất quý và nể tôi. Anh từng công khai nói rằng
ở tỉnh Hà Nam Ninh, anh chỉ phục trình độ nghiệp vụ thư viện của tôi. Khi đi
công tác, anh đạp xe dẫn tôi la cà các hàng nước suốt dọc đường. Cứ đi mươi cây
số là anh lại nghỉ, ăn cái bánh đa, uống cốc trà xanh, thành thử thời gian đi
đường kéo dài cả buổi. Anh có tài xin bách hoá các mặt hàng cung cấp như xăm lốp
xe đạp, thuốc lá, giày dép. Mỗi khi xin được hàng, anh không quên chia cho tôi.
Có lần anh bán lại cho người ta, chia lời cho tôi. Tôi ngại thì anh bảo: “No
béo chi chú, ấy là cái lòng của anh đối với chú, chú không nhận thì anh buồn”.
Thỉnh thoảng anh mời tôi lên nhà tập thể chơi với anh. Có hoa quả, cà phê hay
rượu là anh bỏ ra chiêu đãi tôi. Anh cẩn thận lau rửa chén thìa sạch bóng rồi mới
pha trà hay cà phê, cũng cầu kỳ như khi anh chau chuốt quần áo trước khi đi
công tác. Hình ảnh của anh xung khắc với bề ngoài của tôi. Tôi thường ăn mặc giản
dị, có khi còn luộm thuộm. Thế nhưng tôi và anh lại gắn bó với nhau, bổ sung
cho nhau, phối hợp với nhau rất nhịp nhàng trong công tác. Anh nghỉ hưu được mười
ba năm thì mất đột ngột.
Những
năm tháng công tác phong trào với anh Thanh Hồng để lại trong tôi nhiều kỉ niệm
vui buồn thật khó quên.
Cán bộ thư viện chúng tôi đi cơ sở là
việc rất gian nan. Chuyện đạp xe năm ba chục cây số, nhiều khi phải nhịn uống,
nhịn ăn thì chúng tôi chẳng coi ra gì. Cái khổ nhất của chúng tôi là không được
cơ sở đón nhận. Có một vài cơ sở hờ hững với thư viện, họ coi chúng tôi như là
người đến xin xỏ, làm phiền họ. Lần tôi và anh Thanh Hồng xuống Ý Yên công tác,
đạp xe từ 7 giờ tới 9 giờ mới tới nơi. Phải chờ đến gần 11 giờ mới được gặp ông
trưởng phòng Văn hoá tên là V. Làm việc xong thì gần 12 giờ. Ông trưởng phòng hỏi:
- Còn việc gì không?
Anh Thanh Hồng cười:
- Công việc nhà nước đã xong. Giờ chỉ
còn việc ra quán.
Ông V. thản nhiên:
- Vậy các ông đi nhá!
Nhưng không phải nơi nào cũng hờ hững
với Thư viện. Có nhiều nơi rất quan tâm và quý trọng chúng tôi. Tôi còn nhớ lần
tôi và anh Thanh Hồng đi xây dựng thư viện xã Khánh Phú (Tam Điệp). Ngày ấy,
thư viện xã do hợp tác xã nông nghiệp quản lí. Hai anh em tôi ăn ở ngay tại nơi
làm việc. Chúng tôi làm cả trưa và tối, đến bữa tới bếp hợp tác xã ăn tiêu chuẩn
quy định. Ba ngày đầu không có ai thăm hỏi.
Ngày thứ tư, anh Điền phụ trách thư viện xã thông báo rằng cụ Phúc chủ
nhiệm hợp tác xã mời chúng tôi đến ăn cơm tối tại nhà. Nhìn mâm cỗ thịnh soạn,
tôi không dám tin là mình lại được đón tiếp như thượng khách thế này. Cụ Phúc vừa
rót rượu vừa nói :
- Tôi chứng kiến rất nhiều cán bộ đi
giúp cơ sở thường “chỉ tay năm ngón” mà chẳng thiết thực gì cho cơ sở. Theo dõi
ba ngày qua, thấy hai ông thực sự tích cực
giúp cơ sở, tôi mời hai ông dự bữa để cám ơn.
Hai tuần làm việc còn lại, cứ hai
ngày một lần cụ Phúc tiếp chúng tôi tại nhà. Mỗi khi tiếp khách tỉnh hay khách
trung ương, cụ Phúc lại mời chúng tôi cùng dự liên hoan. Anh Thanh Hồng to cao
có tướng đẹp, nói năng ra dáng lãnh đạo, giao tiếp rất có hiệu quả. Khi chúng tôi hoàn thành công việc một cách mỹ
mãn, cụ Phúc mời chúng tôi đi tham quan vườn cây của hội người cao tuổi, lò mật
mía, trại lợn, trại trâu Mu - ra… của hợp tác xã. Trước khi chúng tôi về tỉnh,
cụ Phúc sai người biếu chúng tôi quà (nào táo, nào mật, gạo, thịt lợn…) và hẹn
mời chúng tôi về dự khánh thành nhà văn hoá xã. Tưởng cụ hẹn xã giao, ai ngờ cụ
gửi giấy mời đích danh chúng tôi cùng giấy mời đại biểu Ban giám đốc thư viện tỉnh.
Tôi và anh Thanh Hồng cùng anh Điểm về dự lễ. Trong giao tiếp, cụ Phúc và lãnh
đạo xã cứ một điều “báo cáo bác Thanh Hồng”, hai điều “báo cáo bác Thanh Hồng”,
cứ như anh Thanh Hồng mới là Giám đốc Thư viện tỉnh chứ không phải là anh Điểm.
Cơ
quan có mấy người già là anh Hồng, bác Môn, anh Luân, anh Tuấn đều đã nghỉ hưu.
Bốn vị này thường đi lại với nhau. Tôi cũng bị hút vào các cuộc vui của các anh
già. Khi thì chúng tôi gặp nhau ở nhà anh Tuấn, khi ở nhà bác Môn, khi ở nhà tập
thể anh Hồng, lúc ở cơ quan. Chúng tôi thường uống rượu với lạc luộc và nói đủ
chuyện trên trời dưới đất.
Anh Tuấn
thẳng tính, vui nhộn. Năm 73 tuổi anh còn đi xe máy từ Hà Nội về thăm chúng
tôi. Anh cười nói thoải mái và tự hào là “già rồi mà còn khoẻ chán”. Ai ngờ lần
anh về thăm chúng tôi ấy lại là lần cuối. Anh mất ngay trong năm đó.
Anh Lê
Luân nghỉ hưu ở trong tập thể thư viện tỉnh. Nhà tôi ở bên ngoài nhà anh. Sau
này chuyển ra Ô 19 phường Hạ Long, tôi vẫn đi lại thăm anh. Những lúc rỗi rãi,
tôi xuống nhà bù khú với anh. Anh hay kể cho tôi nghe về một thời trong quân ngũ
chống Pháp oanh liệt của anh. Anh tỉ mẩn bầy ra và vuốt ve các giấy tờ chứng nhận
thành tích của anh như Huân chương, giấy khen. Những giây phút như vậy, anh như
mê trong hoài niệm đẹp. Tính anh ham số đề, xổ số. Say xổ số đến nỗi anh mụ mẫm
cả người. Mỗi lần mua được tập vé số là anh tràn đầy hy vọng trúng giải độc đắc
để đổi đời. Khi có thông báo kết quả, anh háo hức so vé và... thất vọng, hoặc
xuýt xoa vì suýt trúng. Anh kiên trì đánh xổ số hơn ba chục năm liền. Thiếu tiền,
anh vay bạn bè đánh gỡ. Dần dà anh đâm ra tha hoá. Anh lừa bạn đọc để lấy tiền
đánh xổ số. Nhiều phen chủ nợ đến tận nhà làm ầm ĩ. Anh rất nhiệt tình với hàng
xóm. Ai có việc cần là anh giúp đỡ không nề hà. Hàng xóm lại rất ngại anh vì
anh thường giật nóng tiền hay vay gạo, vay dầu nhưng không bao giờ nhớ trả. Thực
ra anh không có để trả thôi. Còn nhớ lần tôi trả phép khi còn trong quân đội, 3
giờ sáng anh đã ra xếp hàng mua vé xe ô tô giúp tôi vì anh có thẻ thương binh.
Tôi quý anh từ ấy. Khi tôi về công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh thì anh nghỉ hưu,
nhưng là hàng xóm, tôi với anh vẫn thường đi lại với nhau. Tôi hay bắt gặp anh
lẩm bẩm một mình về những con số anh suýt trúng độc đắc. Anh mê con 238, 328 và
không ngày nào là anh không mua hai con đó. Mấy lần anh vào viện, tôi đến thăm.
Anh bảo:
-
Anh không ăn sữa đường, nếu chú cho, anh cũng bán đi thôi. Tốt nhất là chú cho
anh vài chục để anh tiếp tục “chiến đấu”.
Thương
anh, tôi biếu anh vài chục để anh tiếp tục đánh xổ số. Một chiều đầu năm 2003,
anh rủ tôi đánh chung với anh con 238 kỷ niệm. Tối hôm sau ra tìm anh cùng đọ kết
quả xổ số thì được tin anh đã mất. Buổi sáng anh uống vài chén rượu như thường
ngày, rồi nằm ngủ và không dậy nữa.
Anh Lộc học
đại học thư viện khóa 2, trước tôi 4 khóa. Anh có khiếu thơ văn. Sau này anh trở
thành nhà văn, có bốn năm tiểu thuyết và tập truyện. Do lý lịch có vết nên anh
không được kết nạp Đảng và cũng không được phát triển. Bí quá, anh phải nhờ bạn
cùng lớp làm Giám đốc Thư viện Hà Nội nhận anh về làm công tác phong trào. Ở
thư viện Hà Nội mấy năm, vẫn khốn khổ nghèo túng, anh lại chuyển sang phụ trách
Câu lạc bộ Văn Miếu Quốc Tử giám. Đúng lúc Văn Miếu được nhà nước chú trọng
quan tâm đầu tư, anh Lộc được đổi đời.
Ngày Thư viện huyện Xuân Thuỷ đóng ở
Giao Thuỷ bị bão tan nát cả, chúng tôi được ông Phó Giám đốc An Viết Đàm thay mặt
lãnh đạo Sở Văn hoá Thông tin và ông Trần Văn Điểm giám đốc Thư viện tỉnh trực
tiếp truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Bí thư tỉnh uỷ: “Bằng mọi giá phải xây dựng
lại thư viện huyện Xuân Thuỷ”. Nhân có đoàn thực tập sinh Trường Cao đẳng Văn
hoá Hà Nội về thực tế ba tháng (do thày Phạm Hữu Du, đồng môn lớp đại học thư
viện khóa 6 với tôi, dẫn đầu), tôi đưa đoàn đi thực tế ở Xuân Thuỷ. Chúng tôi
hăm hở xuống huyện. Nhưng thật bất ngờ là ông trưởng phòng văn hoá huyện tên là
M. nêu ra nhiều lí do không thể đón tiếp chúng tôi. Về thì không thực hiện được
nhiệm vụ, ở thì không ai đón tiếp. Tối ấy chúng tôi đành ăn cơm quán rồi tìm
cách tháo gỡ. Chầu chực tới 21 giờ chúng tôi cũng được gặp ông Bí thư huyện uỷ
tên là Nhi. Nghe chúng tôi trình bày đầu đuôi sự việc, ông Nhi rất bất bình trước
thái độ ứng xử của trưởng phòng M. Ông chỉ thị cho phòng Văn hoá phải bố trí
cho chúng tôi thực hiện nhiệm vụ. Anh Du bàn giao học sinh cho tôi rồi về Hà Nội.
Suốt hơn một tháng trời chúng tôi làm việc ngày 10 tiếng để nhanh chóng tổ chức
lại thư viện huyện, ông M. không mấy khi tới xem chúng tôi làm ra sao. Ông còn
yêu cầu chúng tôi phải tự túc tiền ăn. Nhờ anh Thích phó phòng đề nghị, chúng
tôi mới được ông M. duyệt cho học sinh thực tập tiền ăn hàng ngày theo chế độ
nhà bếp uỷ ban. Còn tôi là cán bộ phải nộp tiền ăn theo giá thị trường suốt hơn
một tháng làm việc tại huyện. Hoàn thành việc củng cố thư viện huyện, chúng tôi
lặng lẽ đi giúp thư viện các xã Giao Hải, Xuân Phương, Giao An… Cả đoàn 6 người
chỉ có tôi có xe đạp. Từ huyện xuống xã lại chẳng có ô tô khách. Phó phòng
Thích và cán bộ thư viện huyện thương tình, đem xe đạp chở “tăng bo” đoàn xuống
xã. Chuyến đi phong trào liền ba tháng kết thúc, chúng tôi thở phào như vừa vượt
qua một thử thách. Riêng tôi còn không thể quên chuyện lương nộp tiền ăn không
đủ, khi về được thanh toán công tác phí đủ chi tiền… chè nước. Gian khổ thế mà
những cán bộ phong trào chúng tôi vẫn
hăng say công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chuyện như thế lớp trẻ ngày
nay nghe cứ như nghe cổ tích.
Kỷ niệm 60 năm thành lập Thư viện tỉnh
Nam Định (1956 – 2016), anh Trần Thanh Hồng, anh Lê Luân, anh Tuấn, Chủ nhiệm
Thư viện tỉnh Trần Hữu Viển, bác Đặng Đình Môn, cô Trần Thị Khang, chị Vũ Kim
Dung, chú Ninh Đình Khoa đã đi xa, nhưng những kỉ niệm về những ngày đi cơ sở
và công tác với các anh, các chị, các bác như mới diễn ra hôm qua. Hình ảnh và
những cống hiến của các bậc tiền bối đồng nghiệp Thư viện tỉnh nhà sống mãi
trong lòng tôi.
***
Năm
1990 chia tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Thư viện tỉnh
cũng chia hai. Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Trịnh Quang Khanh gọi tôi lên gặp
và động viên tôi nhận nhiệm vụ làm giám đốc thư viện Ninh Bình. Anh nói:
- Anh thấy chú là người thực tài, giỏi chuyên môn nên anh muốn
đưa chú vào lãnh đạo. Hiềm vì ở Nam Hà không còn chỗ nên anh điều chú đi làm
Giám đốc thư viện Ninh Bình, Giám đốc luôn chứ không phó pháy gì.
Tôi từ chối:
- Em cảm
ơn anh. Em tự biết mình làm chuyên môn vững, làm quản lý thì kém, nên em xin
phép anh cho em làm chuyên môn ạ.
Nét mặt
anh Khanh tỏ ra ngạc nhiên. Lát sau anh bảo:
- Thôi
anh cho chú suy nghĩ 7 ngày rồi hãy trả lời có đi hay không.
Bảy ngày
sau tôi trả lời dứt khoát:
- Báo cáo
anh, em nghĩ kỹ rồi ạ. Em đang dở mấy đề tài nghiên cứu. Vậy anh cho em được
làm điều mình thích ạ.
Anh Khanh lắc đầu, nhưng không thể bắt tôi đi
Ninh Bình vì tôi quê Nam Định.
Sau này
anh Thanh giám đốc sở văn hoá Ninh Bình cũng đề nghị anh Chương động viên tôi
vào giúp anh nhưng tôi quyết không đi. Tôi giới thiệu bạn học là Tưởng cho anh
Thanh. Tưởng đang ở Tổ chức thị uỷ Ninh Bình phải về nhận chức Giám đốc thư viện
tỉnh.
Chuyện tôi từ chối chức Giám đốc thư
viện làm một số người hiểu ra từ trước tới nay tôi nói thật lòng rằng tôi không
ham hố gì chức tước cả mà chỉ muốn yên thân làm nghiệp vụ chuyên môn, nhưng có
người thì bảo tôi là dại. Tỉ như chuyện tự nhiên được làm giám đốc, nắm chắc được
một suất đất nơi công tác mới giá mấy chục cây vàng mà lại từ chối. Những người
gầm ghè sợ tôi tranh giành chức tước đã an tâm nên quan hệ của họ với tôi bớt dần
căng thẳng. Tôi sống thanh thản, vui vẻ và béo lên nhanh chóng. Từ 39 cân, tôi
tăng vọt lên trên 50 cân, rồi 55 cân. Quần cũ của tôi đều phải loại bỏ vì không
còn nới được cạp. Tôi thoát ra khỏi những ham muốn phù phiếm của cuộc đời, tính
tình thay đổi, cách nhìn thay đổi. Tôi yêu quý tất cả mọi người, luôn mong muốn
điều tốt cho mọi người, ủng hộ hết mình cho lớp trẻ. Đối với cơ quan, tôi chỉ
còn say mê với công tác chuyên môn. Mấy anh bạn văn chương đùa nhận xét tôi:
“Thiền quá!”.
***
Với
cương vị trưởng phòng phụ trách ba mảng công tác lớn: Xây dựng phong trào đọc
và thư viện cơ sở, Tuyên truyền giới thiệu sách, Địa chí và thư mục, tôi đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết quả thực tế chứng minh trong thời kỳ tôi phụ
trách:
- Số
thư viện cơ sở phát triển mạnh nhất trong lịch sử thư viện tỉnh. Thư viện xã
Khánh Phú, Trác Bút, Giao An, Hải Phú… nhiều năm được công nhận là các điển
hình thư viện cấp cơ sở.
- Công
tác tuyên truyền giới thiệu sách hình thành và đạt kết quả cao. Hai năm
1987-1988 Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh được bình chọn là “Con chim đầu đàn của miền
Bắc”. Trong các cuộc thi cấp toàn quốc, chúng tôi thường xuyên được giải Bài
thi Nói chuyện giới thiệu sách hay nhất.
- Công
tác địa chí tỉnh Hà Nam Ninh là một trong 10 tỉnh điển hình. Đặc biệt chúng tôi
có nhiều sáng kiến, kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ thiết thực bạn đọc. Nhiều
thư viện bạn trong đó có Hà Nội về tham quan trao đổi về đề tài: “Trong điều kiện
không được cấp kinh phí riêng mà Nam Định vẫn hoàn thành xuất sắc công tác địa
chí - thư mục”.
Bằng kết
quả công tác, tôi chứng tỏ rằng mình giữ vững và phát huy phẩm chất người lính
trong công tác và đời sống. Tôi tự hào về điều đó.
U QUA ĐỜI, CHỊ KÝ MẤT
Mải mê công tác, tôi ít về thăm bố u tôi. Vào các dịp lễ tết
chúng tôi phải trực cơ quan nên tôi thường về quê sau khi lễ tết đã qua. Tết
1994, tôi trực cơ quan. Khế về tết bố mẹ chồng. Khế lên bảo rằng u tôi nhắn tôi
về. Tôi chưa kịp về thì được tin u tôi ngã bệnh trọng. Tôi hốt hoảng đạp xe về
thăm bố u tôi vào ngày 10 tháng giêng. Mấy hôm trước U tôi tự nhiên ngã rồi
không nhúc nhắc tay chân được nữa. Tôi bàn đưa u đi bệnh viện tỉnh nhưng u tôi
không nghe. Mời bác sĩ đến nhà chạy chữa, nhưng bệnh u tôi ngày càng nặng hơn
dù U tôi vẫn tỉnh táo và minh mẫn. Tôi ở luôn nhà chăm sóc U tôi. U tôi thường
nhìn tôi bằng ánh mắt chan chứa yêu thương. Mỗi khi thấy u tôi nhìn tôi như thế,
tôi linh tính có việc hệ trọng sắp xảy ra. Tôi biết U tôi đau khắp người, nhưng
để con cháu bớt lo lắng, U tôi thường cố chịu đựng và tỏ ra chẳng đau đớn gì.
Khi có hai U con, U tôi bảo:
- U thương con nhiều lắm. Là trưởng nam nhưng con nghèo khó,
khi U mất thì lễ tang đơn giản cho đỡ tốn kém. Đừng để các em mất đoàn kết khi
u nằm xuống...
Tôi không tin là u tôi sẽ ra đi. U tôi đòi gọi các con trai,
con gái tôi về. Ngày con Thanh còn bé, u tôi đón nó về nuôi. Ông nội thường cho
cháu ngồi trong cái thúng rồi kéo quanh sân. Con Thanh cười như nắc nẻ. Ông bà
nội thường gom góp gạo, trứng hoặc bất cứ thứ gì ăn được là đem cho cháu. Thằng
Hưng ra đời ở nhà ông bà nội và ở với ông bà suốt thời gian bé. Khi nhớ các
cháu, u tôi lên Nam Định, có khi vào tận Ninh Bình nom cháu.
8 giờ sáng ngày 26 tháng giêng (âm lịch) 1994, sau khi
cố ăn mấy thìa cháo cho tôi vui, u tôi thanh thản ra đi. U tôi đi rồi mà mắt U
vẫn như nhìn tôi chăm chắm. Tôi vuốt mắt cho U và khóc không thành tiếng.
Đám tang u tôi diễn ra long trọng và lớn vào loại nhất từ trước
đến nay ở quê tôi. Trong lễ viếng u tôi, chú Sử đọc bài văn vần do u tôi gửi lại
dặn dò mọi người tổ chức ma chay tiết kiệm và từ biệt con cháu, làng xóm, thông
gia... Chú Sử xúc động nói:
- Bài văn này, chị tôi đưa cho tôi hồi trong năm và dặn tôi
“Khi chị nằm xuống thì chú đọc trong tang lễ và lo việc giúp các cháu”.
Bà con hàng xóm thì nói:
- Không hiểu sao tết năm nay, bà Thuỵ đi chúc tết và thăm hỏi
khắp các nhà.
Những ngày u tôi ốm, dường như cả làng đến thăm hỏi. U tôi nằm
xuống, ai cũng thương tiếc. Nhiều người còn nhắc lại mãi chuyện u tôi hay cho
quà, cho thuốc men bà con hàng xóm. Quà và thuốc bổ con cái gửi cho u, u thường
chia xẻ cho bà con lối xóm. Những người gặp khó khăn, hoạn nạn thường tìm đến u
tôi và thể nào cũng được u tôi giúp đỡ.
Trưa 28
tháng Giêng, cả làng xúm vào lo cho u tôi mồ yên mả đẹp vừa xong thì tôi nhận
điện chị Ký hấp hối. Mọi người đều bảo:
- Anh chị
Giống cứ yên tâm đi Thái Bình đi, mọi việc ở nhà đã có các dì, các chú.
Chú Hải dùng xe máy chở hai vợ chồng
tôi đi Thái Bình ngay trưa đó. Nhưng chị Ký không chờ được các em. Chúng tôi
sang đến nơi thì chị đã đi rồi. Chị Ký là chị cả trong số 6 chị em gái của vợ
tôi. Chị là người ít được học nhất, nghèo khổ nhất so với các em. Chị đẻ sáu
con, sinh ra bệnh tật. Lần nào về thăm chị, tôi cũng được chị nhặt nhạnh khoai
lang, khoai tây, ngô và tất cả những thứ gì ăn được mà nhà chị có rồi gói ghém
buộc vào xe đạp cho tôi. Chị thương vợ chồng tôi nghèo. Mổ cắt một bên thận được
8 năm thì chị mất. Lần chị ra viện, vợ chồng tôi cho thằng Minh đi theo sang thị
xã Thái Bình đón chị về. Lai chị về đến nửa đường thì xe đạp của tôi bị gẫy
vành. Thế là tôi dùng xe đạp của vợ tôi tăng bo từng đoạn đưa chị và hai mẹ con
thằng Minh về nhà chị. Chị cứ nhắc đi nhắc lại rằng “chị thương vợ chồng dì chú
lắm”. Ai ngờ, đó là những lời cuối cùng chị nói với tôi. Chị mất khi mới 53 tuổi.
Hai cái tang lớn trong gia đình làm vợ chồng tôi hẫng hụt một
thời gian dài.
NGHIÊN CỨU
Từ
sau khi U tôi và chị Ký mất, tôi thay đổi hẳn. Tâm trạng buồn bã, thiếu hụt thường
trực trong tôi. Tôi không thiết làm gì cả. Càng không làm gì, tôi càng buồn. Vợ
chồng tôi đều tránh nhắc đến chuyện U tôi và chuyện chị Ký, vì không muốn khơi
thêm nỗi buồn, thành thử trong nhà ít hẳn tiếng cười nói.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền khuyên tôi nên đi vào nghiên cứu
danh nhân và văn hoá Nam Định, vì “các ông có điều kiện, có kho tư liệu trong
tay mà bỏ qua thì phí đi”. Nghe lời bác Huyền, tôi bắt đầu quan tâm nghiên cứu
chuyên sâu về đề tài Các nhà khoa bảng Nam Định, Tác giả Hán Nôm Nam Định. Đây
là hai đề tài tôi đã nghiên cứu từ nhiều năm nay, nhưng còn chưa hoàn chỉnh.
Tôi cứ lặng lẽ nghiên cứu để quên nỗi buồn. Hoàn thành cuốn Các nhà khoa bảng
Nam Định, tôi đề nghị cơ quan đưa vào kế hoạch in nhưng kế hoạch không được thực
hiện. Ban đầu cuốn này lấy tên là Các nhà khoa bảng Hà Nam Ninh. Sau chia tỉnh
thành Nam Hà và Ninh Bình thì tôi cắt phẩn Các nhà khoa bảng Ninh Bình chuyển
giao cho Thư viện Ninh Bình. Rồi sau lại chia Nam Hà thành Nam Định và Hà Nam,
tôi lại cắt phần Các nhà khoa bảng Hà Nam giao cho Thư viện Hà Nam. Phần còn lại
chính là Các nhà khoa bảng Nam Định.
Tôi thức
đêm từ 22 giờ đến 1 giờ sáng liền ba tháng trời để hoàn thành cuốn Tác giả Hán
- Nôm Nam Định từ thế kỷ XI đến thế kỷ XX. Sau ba tháng thức đêm, tóc tôi bạc
quá nửa. Anh Chương thấy công trình của tôi có giá trị, liền bàn với tôi hoàn
chỉnh thêm và tìm cách công bố. Tôi kết hợp chặt chẽ với anh Chương trong công
tác nghiên cứu. Anh Chương là Giám đốc thư viện nên có điều kiện trong việc in ấn
các bài nghiên cứu của tôi. Các bài viết của chúng tôi, khi thì anh Chương chấp
bút, khi là do tôi viết đều được công bố dưới tên anh và tên tôi. Trên báo chí
bắt đầu xuất hiện nhiều bài viết của Hoàng Chương - Trần Giống. Năm 1998 anh
Chương trở thành Hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh. Năm 2000 tôi cũng được kết
nạp vào hội này. Một số bài nghiên cứu của chúng tôi được tuyển in trong sách.
Công trình Lược khảo Tác gia văn học Nam Định được nhà xuất bản Văn học in năm
1997 do tôi và nữ nhà văn Phương Thuỷ biên soạn, anh Hoàng Dương Chương là giám
đốc thư viện tỉnh và anh Trần Bá Giao là thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo bổ
sung cùng đứng tên đồng tác giả, chịu trách nhiệm lo kinh phí in ấn và phát
hành.
Năm 2002,
Thư viện đề nghị làm đề tài Đặc điểm hệ thống đội ngũ các tác gia Hán Nôm Nam Định
được Sở Khoa học Công nghệ chấp nhận, thời gian hoàn thành trong năm 2002 -
2003.
Tháng 8 năm 2003 Hội đồng nghiệm thu đề tài cấp
tỉnh đánh giá công trình nghiên cứu của chúng tôi đạt loại xuất sắc. Sau khi
công trình được bảo vệ, anh Chương cũng nghỉ hưu. Tiền nhuận bút công trình
khoa học, tôi để anh Chương giữ lại lo in thành sách. Năm 2008, vẫn không thấy
anh Chương đả động đến việc in sách, tôi hỏi thì anh nói rằng anh không in vì
thấy không có điều kiện phát hành. Anh Chương yêu cầu bài viết trước đây ký
chung tên anh và tên tôi sẽ trả về cho người viết, để anh làm tuyển tập cho thuận
lợi, tránh chuyện kiện tụng sau này…
Cuối năm
2008 tôi quyết định tự lo kinh phí in cuốn “Các tác giả Hán Nôm Nam Định”, năm
2009 in tiếp cuốn “Các nhà khoa bảng Nam Định” (cuốn này được tặng Giải thưởng
VHNT Lương Thế Vinh), năm 2010 in cuốn “Thư mục nhân vật Nam Định”, sau đó cùng
cháu Hạnh (cán bộ thư viện) biên soạn và in cuốn “Nói chuyện giới thiệu sách”…
Năm 2017 nhờ đồng nghiệp Trịnh Thị Nga giới thiệu, cuốn Các nhà khoa bảng Nam Định
được nhà xuất bản Quân đội nhân dân in bao cấp. Sách in chung cũng khoảng gần
hai chục cuốn.
Trong
công tác nghiên cứu khoa học, tôi nhiều lần được Sở khoa học công nghệ mời tham
gia phản biện, hoặc làm thành viên hội đồng nghiệm thu công trình nghiên cứu
khoa học về lĩnh vực văn hóa, lịch sử. Cũng như các bài phản biện của mình đăng
báo tạp chí, tôi luôn luôn lấy sự thật làm tiêu chuẩn cao nhất trong bài phát
biểu nghiệm thu. Có người bảo các bài phát biểu của tôi gai góc nhưng không thể
không thừa nhận có cơ sở chắc chắn.
Làm
nghiên cứu phê bình, chỉ khen thì được tác giả khoái và đối đãi hậu hĩnh, chê
thì nhiều khi mất bạn. Tôi luôn tự nhủ: Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm
đúng lòng mình, đừng để phẩm chất người lính bị sỉ nhục. Những bài phản biện của
tôi thường bị sức ép nhiều phía, bị ngăn cản không cho công bố. Nhiều khi tôi bị
cô lập, bị phản bội, bị bôi nhọ… nhưng tôi quyết dù dao kề cổ cũng không nói phải
thành trái. Một số bài phản biện của tôi, chịu nhiều cản trở, rồi cũng được bạn
đọc đón nhận như các bài:
- “Đệ Nhất,
Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ có phải là hành cung?” Bài này tôi cùng nhà nghiên cứu
Hán Nôm Dương Văn Vượng chứng minh quan điểm của cơ quan chức năng là sai lầm,
đó không phải là hành cung.
- “Có hay
không lệ khai ấn Đền Trần?” Bài này chúng tôi phản biện các quan điểm xổ toẹt lệ
khai ấn hoặc nâng tầm quốc gia lệ khai ấn không đúng thực tế lịch sử vì mục
đích kinh tế. Tôi chứng minh lệ khai ấn là có thật nhưng nó chỉ ở phạm vi tộc
Trần, tuyệt nhiên không phải lệ quốc gia.
- “Không
Lộ - Minh Không là hai hay một người”. Bài này tôi phản biện quan điểm cho rằng
Không Lộ - Minh Không chỉ là một người. Chúng tôi chứng minh là hai người.
Gần đây
nhất, tôi viết bài phản biện quan điểm bài viết của một tác giả trên Văn Nhân kết luận “Nguyễn Hữu Tiến là
tác giả cờ đỏ sao vàng” cũng gặp rất nhiều cản trở.
Thời công
tác địa chí, tôi từng ngây thơ cả tin vào tài liệu, báo chí nên đã soạn một thư
mục lấy tên là “Nguyễn Hữu Tiến - Tác giả quốc kỳ Việt Nam” giới thiệu khoảng
200 tài liệu. Khi chia tỉnh, tôi bàn giao thư mục này cho Thư viện tỉnh Hà Nam.
Từ khi được đọc tài liệu Kỷ yếu Hội thảo khoa học về khởi nghĩa Nam Kỳ của Viện
nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương và công văn của Bộ Văn hóa trả lời công văn
của tỉnh Hà Nam (đề nghị làm thủ tục công nhận đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là tác
giả quốc kỳ) khẳng định đồng chí Nguyễn Hữu Tiến không phải là tác giả Quốc kỳ,
tôi ngộ ra rằng sự ngây thơ của mình góp phần tuyên truyền sai sự thật.
Năm 1981,
nhà văn Sơn Tùng xuất bản cuốn Nguyễn Hữu Tiến truyện, mô tả chi tiết chuyện đồng
chí Nguyễn Hữu Tiến vẽ cờ đỏ sao vàng. Các tài liệu về sau đều căn cứ truyện
Nguyễn Hữu Tiến của Sơn Tùng để viết bài khẳng định đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là
người vẽ cờ đỏ sao vàng. Khi nhà văn Sơn Tùng thú nhận rằng ông hư cấu chuyện
Nguyễn Hữu Tiến vẽ cờ đỏ sao vàng, tôi lại càng quyết tâm phải nghĩ cách sửa chữa
sai lầm của mình trước đây.
Bài viết
của tác giả Đỗ Phú Nhuận đã từng đăng trên tạp chí Hồn Việt, bị bạn đọc phản biện
đích đáng. Nhưng 10 năm sau, Đỗ Phú Nhuận lại đăng bài đó trên tạp chí Văn Nhân
của Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định. Tôi quyết định viết bài phản biện nhằm góp
phần cho bạn đọc tiếp cận sự thật, Văn Nhân tránh lỗi đăng bài lạc hậu dẫn dắt
người đọc hiểu sai sự thật.
Tôi chỉ
ra tài liệu gốc mà tác giả viện dẫn đã bị chính tác giả tài liệu gốc thú nhận
là hư cấu, đồng thời các tài liệu khác được viện dẫn cũng không có cơ sở xác thực.
Tôi chứng minh bằng kết luận công khai của Viện nghiên cứu lịch sử Đảng và Bộ
Văn hóa chỉ rõ: Không có bất kỳ tài liệu nào, cơ sở nào xác nhận đồng chí Nguyễn
Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ. Bài phản biện của tôi được nhiều nhà nghiên cứu,
nhà văn, nhà thơ, bạn đọc nhận xét là khoa học, trung thực, thẳng thắn. Nhưng
tôi lại bị một số vị nhân danh là cán bộ tuyên giáo địa phương, là lãnh đạo cơ
sở có chức có quyền và một số người từng có những tác phẩm xây dựng hình tượng
Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ… phản ứng quyết liệt. Họ sợ rằng bài phản biện
của tôi không chỉ bẻ gẫy quan điểm của tác giả Đỗ Phú Nhuận mà còn ảnh hưởng đến
những cuốn lịch sử địa phương mà họ viết theo quan điểm Nguyễn Hữu Tiến là tác
giả quốc kỳ, làm mất uy tín những sáng tác của họ đã xây dựng hình tượng Nguyễn
Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ… nên bằng mọi cách họ cản trở, trì hoãn không để
bài của tôi được đăng tạp chí.
Có đồng
nghiệp khuyên tôi không nên viết phản biện, cũng không nên phanh phui tiêu cực
như các hiện tượng khai man lý lịch, đạo văn, chia chác giải thưởng… trên blog
cá nhân để sống yên thân. Nhưng như vậy tôi đâu còn là tôi - người lính - đảng
viên đã 43 năm tuổi Đảng nữa?
TỔ ẤM GIA ĐÌNH
Tháng 5 - 1990 tôi chuyển nhà ra Ô19 thuộc phường Hạ Long. Nhà
tôi đơn sơ, nhỏ bé giữa cánh đồng. Rắn vào cả bếp. Đêm côn trùng kêu nhức óc.
Ngày mới ra, thằng Hưng, thằng Minh buồn khóc ti tỉ. Để có gian nhà mái bằng 24
mét vuông, vợ chồng tôi phải gồng hết sức mình. 90% tiền làm nhà tôi phải đi
vay. Cô Hà lặng lẽ giúp anh chị. Chú Thá đưa tốp thợ ở quê sang xây nhà. Bố con
chú Thá, bố con bác Ký lăn lộn mấy tháng liền giúp tôi. Tuy là anh em rể nhưng
chúng tôi coi nhau như ruột thịt. Chú Thá, bác Ký thực sự là chỗ dựa tinh thần
của tôi ngày ấy.
Tập trung cho công tác nghiên cứu, tôi quên đi những nỗi buồn,
không còn vướng vào những cuộc đấu đá tranh giành quyền chức, phớt lờ những
thanh trọc, đắc thất trong đời. Tôi tìm thấy sự thanh thản của tâm hồn. Nỗi lo
lắng lớn nhất của tôi dồn về bố tôi và con cái. Bố tôi đã cao tuổi, như ngọn
đèn trước gió. Sau khi U tôi qua đời, bố tôi lên Nam Định ở với cô Hà. Tôi có
điều kiện chăm sóc bố. Khi cảm thấy mình đã gần đất xa trời, bố tôi quyết về
quê sống để “được chết ở quê”. Ở quê chỉ còn thím Vân và bà Mạo - em gái bố
tôi. Cô tôi cũng đã ngoài 80 tuổi. Chú tôi mất, cô tôi ở vậy, không con. Hàng
tháng hai lần, khi thì cả hai vợ chồng tôi, khi mình tôi đều đặn về thăm và lo
tiền nuôi dưỡng bố và phụ giúp cô. Trong số 5 anh em tôi, khá nhất và tốt tính
nhất là cô Hà. Cô không nề hà chuyện tiền nong lo các việc chung, sẵn sàng cho
tiền anh chị nuôi các cháu ăn học. Cô chú Rư Hà đã xin việc cho cháu Thanh và
cháu Hưng. Thằng Hưng làm việc trong công ty báo thoại tỉnh, nơi cô Hà làm kế
toán trưởng.
Thằng Minh đã tốt nghiệp đại học bách khoa. Nó học tiếp bằng
hai công nghệ thông tin. Vợ chồng tôi dồn tất cả cho nó ăn học. Nó là nỗi lo lắng
nhất của vợ chồng tôi. Năm vào học cấp 3, Minh bị tường đổ đè chồn ba đốt sống
lưng. Sau khi cấp cứu một tuần trong Viện I, Minh phải nằm bất động 40 ngày.
Tôi lấy cái bảng gỗ cho Minh nằm. Vợ tôi buộc giây vải giữ cho Minh nằm yên. Suốt
bốn chục ngày Minh phải nằm bất động như thế, mọi sinh hoạt của Minh được mẹ phục
vụ. Khi được giải phóng, Minh phải tập mãi mới đi vững. Năm thứ ba đại học,
Minh lại bị lao, phải chữa chạy cả năm trời. Là con út, lại ốm yếu nên Minh được
vợ chồng tôi thương nhiều. Thằng Minh yêu sớm. Tôi thường đùa: Nó giống bố
trong chuyện yêu đương. Người yêu nó - cái Thu người Mỹ Lộc, học cao đẳng công
nghệ thông tin cùng trường nó. Con bé gầy và cao, yếu ớt. Tôi có liên tưởng nó
giống Khế hồi sinh viên. Khi Minh tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội, tôi nhờ
Đỗ Văn Tý, khi đó là Phó Tổng giám đốc Tổng công ty cơ khí Hà Nội bố trí việc
làm cho Minh ở Hà Nội. Minh đi làm thấy công việc không phù hợp liền bỏ dở, đòi
học tiếp. Sau khi Minh tốt nghiệp đại học thứ hai, vợ chồng tôi lo cho Minh về
dạy tại Trường Cao đẳng Naximex Nam Định. Về Nam Định được hai năm, Minh đi học
và đỗ Thạc sĩ. Nhưng số thằng Minh lận đận. Trường Naximex không có người học
nên họ giảm biên. Thằng Minh 36 tuổi chẳng xin được việc, nơi nào cũng vướng
quy định độ tuổi tuyển dụng. Minh phải gồng mình xin làm hợp đồng cho một công
ty thuốc ở Hà Nội để lo trang trải cuộc sống, nuôi hai con ăn học. Công việc buộc
Minh phải thường xuyên đi dài ngày bằng xe máy các tỉnh từ Quảng Ninh tới Hà
Tĩnh. Dịp Rằm tháng Bảy, con cháu quây quần, chỉ riêng Minh vẫn lang thang trên
đường. Lòng tôi trào dâng cảm xúc và viết bài thơ trải lòng mình:
CÀNG THƯƠNG THẰNG ÚT
Nhân Rằm tháng Bảy
Con cháu quây quần
Chỉ riêng thằng út
Đường xa phong trần
Cha sinh thời loạn
Long đong học hành
Chiến trường bỏ lại
Một thời tuổi xanh
Ước mơ đỗ đạt
Gửi hết vào con
Dạy con tử tế
Trung hiếu vẹn tròn
Hai mươi năm học
Phấn đấu không ngừng
Con là bảo bối
Cả nhà trông mong
Ngỡ bằng Thạc sĩ
Biển trời mênh mông
Gặp thời thổ tả
Cá chậu chim lồng...
Con cháu quây quần
Càng thương thằng út.
14-8-2016
Con Thanh là đứa con gái duy nhất của tôi, lại là con đầu nên
tôi rất yêu nó. Nó yêu thằng Vinh. Gia
đình Vinh không chấp nhận con Thanh. Biết hai đứa quyết tâm lấy nhau, tôi bằng lòng cho đăng ký
kết hôn và chủ động tổ chức đám cưới. Sau khi con Thanh có con, gia đình nhà chồng
mới nhận con và cháu. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì con gái tôi hiện có gia đình tốt.
Vinh tốt nghiệp Đại học Bách khoa và công tác cùng bộ phận với Hưng.
Cảm xúc về
con Thanh lấy chồng trong hoàn cảnh nhà chồng không chấp thuận, mà tôi thì chẳng
có tiền của gì cho con, tôi bật ra mấy câu thơ nấc nghẹn trong cổ:
CỦA HỒI MÔN
Tặng
con gái yêu Trần Thị Thanh
Con đi lấy chồng
không
kiệu xe
đón
rước.
Cha
chẳng có gì
cho
con
làm
của hồi môn.
Gia
tài lính cựu –
Chiếc
ba lô
sờn
tua kỷ niệm
Cha
Chỉ
có
tình
yêu
trời
biển
cho
con!
Thằng Phương - cháu ngoại tôi, được ông bà ngoại cưng chiều. Mỗi
khi trái gió trở giời, thằng Phương ốm là tôi lại lo thắt ruột. Thằng bé bụ bẫm,
ngộ nghĩnh, đáng yêu. Tính nó bẳn gắt chẳng khác con Thanh ngày bé. Nó là con đầu,
cháu đầu nên được ông bà bố mẹ cưng chiều. Một ngày không thấy nó là tôi lại nhớ,
lại nhắc nhỏm. Có lần tôi ốm, nó nói thầm vào tai tôi:
- Cháu yêu ông. Ông ăn nhiều cho chóng khoẻ ông ạ.
Thời gian
đi nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Mới đấy mà giờ thằng Phương đã thành một
thanh niên tuấn tú, sắp tốt nghiệp đại học rồi…
***
Cháu
ngoại Trần Minh Hằng của tôi chào đời lúc 11 giờ 10 phút trưa ngày 16 tháng 7 năm 2004 (tức ngày 29 tháng
5 năm Giáp Thân 2004). Những thiệt thòi, trắc trở trong công tác và cuộc sống ở
cơ quan của tôi đều trở thành bé nhỏ và vô nghĩa trước sự kiện cháu Hằng ra đời.
Khi ôm cháu ngoại trong lòng, tôi tìm lại cảm xúc của mình thời khắc ôm con
Thanh bé nhỏ vừa chào đời, lúc mà bà ngoại đưa con bé cho tôi qua đống lửa củi
đay cách đây hơn bốn chục năm. Ừ nhỉ, con Thanh đã hai con rồi, sao tôi vẫn cứ
nghĩ nó luôn là đứa con gái bé nhỏ như ngày nào... Đôi má phinh phính, cái miệng
mút chùn chụt, đôi mắt đen ngạc nhiên nhìn mọi vật của con Hằng sao mà đáng yêu
đến thế. Trong niềm hạnh phúc dạt dào, tôi như say rượu, lâng lâng ngắm nhìn
cháu Hằng. Trước mắt tôi, hình ảnh con Thanh đỏ hỏn, miệng mút chùn chụt, mắt
sáng đen lạ lẫm nhìn mọi vật như hoà vào hình ảnh cháu Hằng. Tôi thầm nghĩ như
gọi cháu, như nói với chình mình: “Cháu yêu của ông, cháu yêu của ông”...
NGÀY
ĐẦU ĐI HỌC CỦA BÉ HẰNG
Bố
làm công nhân bưu điện. Mẹ dạy ở trường tiểu học. Ban ngày bố mẹ đi làm, bé
Minh Hằng ở với ông bà ngoại. Tối mẹ đón về. Năm Hằng lên ba, bà ngoại chuẩn bị
tâm lý cho Hằng đi học mẫu giáo. Ngày ngày hai bà cháu đóng vai cô giáo và học
sinh. Bà ngoại thường rót vào tai cháu:
-
Nào, ăn nhiều chóng lớn để đi học. Đi học có nhiều bạn, có nhiều đồ chơi, có cô
giáo yêu như mẹ hiền, được học hát múa, học chữ vui lắm. Nào ngoan, đi học biết
chữ để đọc báo, đọc sách, rồi làm cô giáo nào…
Thỉnh
thoảng cháu lại hỏi bà:
-
Bà ơi! Cháu đã lớn chưa? Bao giờ cháu được đi học hả bà?
Bà
bảo:
- Ừ,
cháu sắp được đi học rồi. Cháu ăn nhiều cho cao lên để chóng được đi học nhé!
Cháu
ăn ngon lành, không cần phải ép như trước. Mỗi lần ăn xong, cháu đứng dựa vào
tường, chân kiễng lên, hỏi bà:
-
Bà xem cháu đã cao chưa?
- Ừ!
Cháu bà cao sắp bằng anh Phương rồi... Mai bà cháu mình đi mua cặp sách cho Hằng
đi học nhé!
*
- Bố
mẹ ạ, con đã xin cho cháu vào lớp 4 tuổi Trường Mầm non tốt nhất thành phố rồi,
mai con cho cháu đến lớp ạ.
Chín
giờ tối, mẹ lại lai Hằng ra ông bà ngoại:
-
Con Hằng nhõng nhẽo đòi ra ông bà bằng được, để ông bà cho cháu đi mua cặp sách
đây này.
Ông
săng sái lấy xe máy đèo hai bà cháu ra phố. Bà chọn cái cặp da đắt tiền. Hằng
không chịu. Hằng thích cái cặp nhựa có gắn những hình con gấu, con thỏ, siêu
nhân màu đỏ, vàng, xanh...
Bố
mẹ cho vào cặp bộ quần áo, bút chì, vở tập tô màu... Hằng đi ngủ, ôm cặp không
rời.
Ngày
đầu tiên đi học, Hằng hào hứng phấn khởi, hát luôn miệng. Chiều mẹ đón về, Hằng
ỉu sìu, mắt đỏ còn hoen nước.
Sáng
ngày thứ hai, Hằng nhất định không chịu đi học. Mẹ hỏi:
-
Sao hôm qua con thích đi học, hôm nay lại không chịu đi?
Hằng
một mực nói: “Con không đi học đâu!” và đòi mẹ lai đến nhà ông bà ngoại.
Vừa
tới cửa, mẹ Hằng đã tru chéo:
-
Đây, ông bà lai đi học mà con không đi thì mẹ đánh nhừ đòn! Ông bà xem này, nó
đi học được một ngày, hôm nay giở quẻ không chịu đi. Nói mấy nó cũng không chịu.
Nó gào khóc đòi ra ông bà đây này.
Ông
đón cháu vào nhà. Hằng ôm chặt cổ ông, hai chân quặp chặt bụng ông, miệng vừa
khóc vừa cầu cứu:
-
Ông ôm chặt cháu vào! Cháu ứ đi học đâu! Ông ôm chặt cháu vào!
Mẹ
quát:
-
Ông ôm chặt thì mẹ cũng giật con ra được. Con không đi học thì mẹ đánh đòn. Hư
quá!
Hằng
gào lên:
- Ứ
đâu! Con không đi học đâu, con học cô giáo bà cơ, con học cô giáo bà cơ...
Bà
bảo:
-
Thôi mẹ nó cứ đi làm đi, để rồi ông bà thí nó đi học sau...
Mẹ
đi rồi, bà bảo:
-
Nào cháu ngoan kể cho bà hôm qua cháu đi học có vui không nào? Cô giáo dạy hát
bài gì nào? Có những bạn gì nào?
Hằng
nói trong tiếng nấc:
-
Bà ơi cháu sợ cô giáo lắm! Cháu không dám đi học đâu!
-
Cô giáo như mẹ hiền, sao cháu lại sợ?
-
Không đâu! Cô ác lắm! Cô ác lắm! Cô lấy cái dao to dài như thế này này – Hằng lấy
hai tay mô tả con dao – Cô dứ dứ dao vào cổ cháu. Cô quát: “Mày có nín đi
không? Tao chém cho một phát đứt cổ bây giờ!”...
-
Sao cháu lại khóc để cô mắng?
-
Cháu xúc cơm bị vãi ra ngoài, cô cốc vào đầu, nên cháu khóc.
Ông
hỏi:
-
Cháu nói có đúng không? Ông hỏi các cô mà cháu nói sai là bị phạt đấy!
Hằng
mở to đôi mắt đen láy ngây thơ nhìn ông:
-
Cháu nói đúng ông ạ! Cháu sợ cô giáo lắm!
Bà
thở dài:
-
Cô yêu cháu, cô mắng yêu đấy cháu ạ... Bà cháu mình cứ đi học, cô giáo mà mắng
cháu như thế nữa thì bà cháu mình báo cáo Hiệu trưởng phạt cô. Hễ cô dọa thì
cháu nói cho bà biết ngay nhé! Nào, bây giờ bà cháu mình đi học nào... Bà cháu
mình hát “Cô và mẹ ấy hai mẹ hiền” nào...
Chuyện
ngày đầu đi học của cháu tôi rồi cũng qua đi. Cháu Hằng vẫn đi học ở Nhà mẫu
giáo đó, nhưng nó không còn cái hồ hởi háo hức như trước khi đi học. Năm vào lớp
1, cháu nằng nặc đòi học “cô giáo Mẹ”, nhất quyết không học ai khác. Mẹ Hằng
đành xin cho Hằng học trái tuyến về trường mẹ dạy.
Năm
nay bé Hằng lên lớp ba. Sáng sáng mẹ lai Hằng đến lớp, bán trú, tối mới về nhà.
Nhà lại chuyển ra đô thị Hòa Vượng, cách nhà ông bà ba bốn cây số nên ít khi Hằng
được về thăm ông bà. Ngày chủ nhật, Hằng đòi bố lai vào với ông bà. Ông bà lại
rót vào tai Hằng viễn cảnh tươi đẹp của nhà trường, của các mẹ hiền và tương
lai của học sinh. Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, gương mặt thơ ngây, đôi mắt đen
trong như nước hồ thu lặng gió nhìn xa xăm bất định…
Nhân ngày khai trường 2012
TMG
***
25 – 2 – 2008 Hường sinh cháu Trần Mỹ Hạnh, mổ đẻ.
Cháu Hạnh nặng 3,8 kg. Nó là cháu nội đầu của vợ chồng tôi. Hồi nhỏ, con bé bụ
bẫm như cục bột. Mấy bà hàng xóm cứ bảo nó giống ông nội. Nhớ lần bà cho cháu tập
uống sữa ngoài, con bé nôn ra mật xanh mật vàng, phải vào viện cấp cứu. Lại một
lần nó tập đi trên ghế băng, ngã sái tay phải đi thầy lang… Con bé sớm có tinh
thần mình vì bạn. Nhớ hôm trời rét dưới mười độ, tôi đón cháu khi nó tan học,
không thấy nó mặc áo rét, hỏi:
- Áo
khoác cháu đâu không mặc mà rét tím thế này?
Cháu bảo:
- Bạn
cháu không hiểu sao mất áo khoác. Nhà bạn ở xa, cháu gần trường nên cho bạn mượn
áo đỡ rét ông ạ.
Nhà có
quà bánh, nó đem cho ông. Ông bảo không ăn. Nó cứ bắt ông phải ăn bằng được.
Năm nay Sóc Hạnh 11 tuổi học lớp 5, nặng 45 kg, cao 1,52 mét. Nhanh thế, cháu sắp
thành người lớn rồi…
Tháng
7 – 2008 con Hường thi đỗ công chức vào ngành giáo dục, chuyển từ Thư viện tỉnh về Trường THCS Tô Hiệu làm
văn thư và Tốt nghiệp Đại học tại chức. Nhớ kỳ ấy, nghe nói người ta bán chỗ hết
rồi, thi cũng chỉ là tập dượt, chứ chả hy vọng, con Hường định không thi. Tôi
khuyên nó: “Thi tập dượt để sang năm thi chắc ăn”… Hường thi buổi sáng về tỏ ra
chán nản. Buổi chiều, gần 14 giờ vẫn thấy nó nằm ôm con Hạnh, tôi nhắc:
- Đến giờ
thi rồi, sao còn chưa đi?
Con Hường
bảo:
- Thôi
con chả thi nữa bố ạ. Những người chạy trước được họ cho thi chung một phòng,
được mở tài liệu thoải mái. Bọn con thì họ theo dõi chặt lắm… Có giám thị bảo bọn
con thi cũng chả đỗ…
Tôi
nghiêm mặt:
- Dậy! Bố
chở đi cho kịp. Cứ coi như thi tập dượt, cũng phải thi cho nghiêm…
Khi hai bố
con đến địa điểm thi thì trống thi cũng vừa điểm.
Không hiểu
sao, kỳ thi ấy phải lùi ngày chấm hơn một tháng. Chú Tuấn, giám đốc thư viện bảo:
- Chẳng
hiểu sao em chấm bài thấy gần chục bài giống hệt nhau từ câu đến chấm xuống
dòng cách một dòng… y như bài của cháu Hường. Chữ cháu Hường em nhận ra ngay
mà. Bài của cháu rất tốt… Chỉ sợ cháu không có điểm ưu tiên, người ta có điểm
ưu tiên 30% thì cũng không biết thế nào…
Tôi lo lắng,
ngày nào cũng qua tỉnh chờ xem kết quả. Khi công bố kết quả, con Hường đứng thứ
7 trong số 9 chỉ tiêu được tuyển. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Sau đó,
tôi và Uyên phó giám đốc thư viện tỉnh có giấy triệu tập chấm phúc khảo trường
hợp thí sinh con gia đình chính sách có đơn đề nghị. Con bé là học sinh tôi,
con gái một cán bộ trường văn hóa nghệ thuật nơi tôi thỉnh giảng. Con bé đứng
thứ 10 nên trượt.
Ông giám
đốc sở nội vụ phổ biến tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu chấm phúc khảo chung xong,
nói với tôi:
- Bác Giống
ạ, chấm phúc khảo cho nên xin bác lấy chữ phúc làm đầu ạ…
Tuấn nhắn
tin: “Ông giám đốc sở văn hóa thông tin bảo em chỉ đạo anh cho con bé 100 điểm
cho chắc ăn”. Tôi nhắn lại: “Nếu vậy số điểm chênh lệnh giữa lần chấm đầu của
chú và lần chấm phúc khảo của anh quá lớn, chú và anh sẽ phải đối chất thì làm
thế nào đây? Mất uy tín lắm!”. Tuấn nhắn: “Thôi thì tùy anh quyết chứ em cũng
không ưa cái kiểu ép buộc”…
Kết quả
chấm theo va-rem của tôi và Uyên hoàn toàn trùng khớp với kết quả chấm của Tuấn.
Tôi bàn với Uyên:
- Mình
không thể theo chỉ đạo của các bố ấy được. Cho điểm cao vọt để con bé này đỗ
thì lại phải gạt một đứa đỗ ra… Nhưng nếu chấm đúng va-rem thì số điểm vẫn như
cũ cũng tội nó. Chúng nó đều là học sinh của anh, cô xem nhất chí thì anh tăng
cho nó một điểm đúng bằng con bé đứng thứ 9, để tỉnh quyết định.
Uyên đồng
ý, cùng ký vào bài thi và văn bản báo cáo. Uyên nhắn tin cho Tuấn kết quả chấm.
Sau này Tuấn cho biết có báo cáo lại Giám đốc sở Văn hóa Thông tin…
Chấm 30
phút xong bài, báo cáo kết quả, nhưng chúng tôi vẫn phải ngồi trong phòng chấm
chờ mãi tới 11 giờ 30 mới được giải phóng. Sau mới biết, các vị đề nghị chủ tịch
tỉnh thêm một chỉ tiêu. Mãi nghỉ trưa mới được chủ tịch tỉnh ký nháy đồng ý.
Tôi nhẹ người và vui vì một học trò nữa đỗ công chức.
Cò mồi đến
nhà gợi ý nộp 40 triệu sẽ xin cho con Hường công tác ở trường điểm. Lần trước họ
cũng cò mồi 80 triệu thì sẽ lo cho Hường đỗ công chức. Tôi gạt đi, không nghe.
Con Hường bảo:
- Thôi bố
ạ. Con làm ở đâu cũng được…
Vậy là
con Hường được phân bổ về Trường THCS Tô Hiệu làm văn thư thư viện. Trường này
nhỏ ít học sinh…
21 – 8
– 2008 Thu sinh cháu Trần Minh Thành tại Bệnh
viện phụ sản Hà Nội, mổ đẻ. Thu bệnh tim, phải mổ đẻ sớm. Cháu Thành ra đời thiếu
tháng nên không được khỏe như chị Hạnh. Nhân năm 2018 học lớp 4, cò Thành đoạt
giải nhất Olympie cấp trường, tôi viết bài “CÒ THÀNH”:
Mẹ cò
Thành bệnh phải mổ tim… Cò Thành trong bụng mẹ được 7 tháng thì mẹ không chịu
được, các bác sĩ phải mổ cho cò Thành ra đời sớm. Có lẽ do thai non tháng nên
cò Thành hay ốm đau, tính tình rất thất thường. Ba tuổi tròn, có Thành phải đi
trường mẫu giáo. Ba bốn nhà mẫu giáo đều chỉ nhận cò Thành được hai ba tuần là
trả cò Thành về cho gia đình. Từ khi đến Trường Mầm non số 2 phường Vị Xuyên,
cò Thành mới được các cô chấp nhận.
Thời gian dài, cò Thành đến trường,
cứ ôm khư khư ba lô, ngồi ngoài cửa chờ bố đón.
Mẹ cò
Thành cho Thành đi bác sĩ ở Hà Nội. Bác sĩ bảo cò Thành bị tự kỷ, cần phải cho
vào cơ sở chạy chữa dài ngày. Bố mẹ cò Thành đưa con đến chữa bệnh ở một cơ sở
trên Hà Nội. Nhưng tiền chữa bệnh, tiền trọ, tiền ăn hàng tháng tốn gấp ba lần
lương của bố mẹ nên cò Thành lại phải về Nam Định. Bố mẹ cò Thành thuê một bác
sĩ tâm lý mỗi tuần ba buổi chữa cho cò Thành…
Thế rồi đến
lúc cò Thành vào lớp 1. Cô chủ nhiệm không chịu được cái tính tự do, thích chơi
là chơi, thích học mới học của cò Thành. Mỗi khi cô chủ nhiệm phạt thì cò Thành
lại lăn ra đất giãy đành đạch… làm cô chán không chịu được. Bố mẹ cò Thành lại
phải chạy cho cò Thành về trường tiểu học Lê Quý Đôn, giao cho bác Thanh là giáo
viên dạy lớp 1 chăm sóc cháu. Được bác ruột dạy dỗ, kèm cặp, dần dần cò Thành
cũng tiến bộ…
Năm học lớp
3, bác Thanh xin cho cò Thành tham gia cuộc thi Olympie cấp trường để cò Thành
tập dượt làm quen... Cô chủ nhiệm rất lo cò Thành không làm được bài sẽ làm mất
uy tín của cô. Nể đồng nghiệp, cô đành phải đồng ý cho cò Thành dự thi. Nhưng
thật bất ngờ là kỳ thi ấy cò Thành đoạt giải Nhì.
Ông nội
khen:
- Cò giỏi
lắm! Ông tự hào về cháu.
Cò tiếc rẻ:
- Cháu phải
nhất mới đúng ông ạ.
Ông hỏi:
- Sao
cháu lại nói thế?
Cò:
- Tại vì
cháu tự làm bài. Còn thằng giải nhất nó mở trộm tài liệu ông ạ.
- Thế à?
Cháu tự làm bài là đúng thực lực của cháu. Vậy năm sau cháu cố gắng học tốt,
làm bài thật tốt để lấy giải nhất nhé!
- Vâng ạ!
Năm lớp
4, cò Thành đoạt giải Nhất cuộc thi Olympie cấp trường. Cò Thành khệ nệ ôm chồng
vở phần thưởng cùng giấy khen, giấy chứng nhận giải nhất khoe ông nội. Ông nội
ôm cò Thành, khen:
- Cháu
ông giỏi lắm. Ông tự hào về cháu.
Cò Thành
bảo:
- Cháu
cũng thường thôi ông ạ. Nhiều bạn còn giỏi hơn cháu nhiều cơ ông ạ.
Ông nội
thoáng ngạc nhiên, rồi cười thật sung sướng:
- Cháu
ông ngoan lắm! Đúng là còn nhiều bạn giỏi hơn cháu, so với người khác thì cháu
cũng thường thôi. Nhưng cháu khi sinh ra thiếu tháng, thể lực gầy yếu, nhiều bệnh
tật hơn những trẻ bình thường. Bố mẹ cháu lại quá khó khăn về kinh tế và sức khỏe
nên không lo cho cháu bằng con nhà giàu… Cả nhà ai cũng lo cháu không thể học
được. Vậy mà cháu phấn đấu được như vậy đã là rất đáng khen rồi. Điều quan trọng
nhất là cháu cố gắng học tập hết sức mình là ông tự hào lắm rồi cháu ạ. Nào,
ông thưởng cho cháu một trăm nghìn để cháu thích mua gì thì mua nhé!
Cò Thành
bảo:
- Ông ơi!
Không cần thưởng nhiều tiền đâu ông ạ. Ông thưởng cho cháu mười nghìn là được rồi…
Ông lại
ngạc nhiên, cảm động:
- Ừ! Cháu
xứng đáng được thưởng…
6 – 11
– 2008 (tức 9 – 10) bố tôi qua đời ở quê, thọ 90 tuổi. Trước khi bố mất, tôi nghỉ phép về hai tháng liền
cùng chú Đằng chăm sóc bố. Cháo não cho bố và bữa ăn cho anh em tôi đều một tay
thím Vân đảm nhiệm. Tôi và chú Đằng cùng túc trực ngày đêm phục vụ bố. Đêm đêm,
dù mệt, nhưng nghe tiếng bố ho là hai anh em tôi bật dậy. Chú Đằng lấy giấy vệ
sinh hứng để bố khạc đờm hoặc cho bố vệ sinh tại chỗ…
Chú Hải
nhờ xe cơ quan công an đưa bố đi bệnh viện 1 rồi bệnh viện lao chạy chữa gần
tháng trời, nhưng bệnh bố không thuyên giảm. Chụp chiếu thấy phổi bố tôi đã mất
một bên… Bác sĩ khuyên: “Cụ đã chín mươi rồi nên cho cụ về…”
Những
ngày gần mất, bố tôi tự nhiên không nhìn thấy gì nữa. Bố tôi hỏi tôi:
- Đã tối
chưa con?
- Dạ, tối
lâu rồi bố ạ.
- Con bật
điện lên cho sáng, đừng tiết kiệm quá.
- Điện vẫn
sáng mà bố.
- Sao bố
chẳng nhìn thấy ánh sáng?
Tôi im lặng.
Lúc sau, tôi hỏi:
- Bố ơi,
sau này… chúng con làm thế nào hả bố?
Bố tôi bảo:
- Nguyện
vọng của bố là các con không được bán đất hương hỏa cha ông để lại. Năm trước
các con đã nhất trí làm thủ tục cho vợ chồng anh Đằng kế thừa một nửa đất của bố
mẹ. Phần còn lại, bố muốn làm nơi thờ cúng của dòng họ, giao cho anh Hữu là trưởng
tộc chủ trì. Nếu anh Hữu làm nhà thờ tổ ở Giao Lạc thì các con cứ cúng giỗ ở
đây. Hàng năm các con nên về đây cúng giỗ cha mẹ…
- Vâng…
Thế… nếu bố… chúng con phải làm…
Bố tôi bảo:
- Đám
tang bố, các con mời một đội kèn trống, một đội kèn đồng bên công giáo là được
rồi. Nếu hội trống làng họ Trần có đặt vấn đề thì các con từ chối. Ngày thành lập
hội trống làng, bố là người đầu tiên nộp tiền chân quỹ. Nhưng khi mẹ các con mất,
báo cho hội trống trả hiếu thì họ lại bắt trả tiền thuê như đối với người
ngoài. Bố thắc mắc thì họ cãi bay là bố chưa đóng góp. Bố rất giận hội trống. Từ
đó bố thề không thèm cái hội đó nữa.
- Dạ, con
nhớ rồi ạ. Con sẽ làm đúng lời bố dặn.
Tôi nhớ bố
tôi thường khuyên răn nhắc nhở chú Hải, chú Giang là công an phải làm việc có lợi
cho dân, chớ sách nhiễu, ăn hối lộ dân… Một lần có người đến nhà tôi gửi biếu
chú Hải (khi đó ở với tôi, làm cán bộ hình sự) một bọc tiền. Nhớ lời bố dạy,
chú Hải quyết không nhận, và đã giúp người đó tận tình.
Sáng mồng
6 tháng 11, thấy bố bỗng khỏe lên nhiều, giọng nói to và hoàn toàn tỉnh táo,
tôi nói:
- Tiền
chi tiêu hàng ngày… Hay con về Nam Định lĩnh lương…
Bố tôi
vui vẻ:
- Ừ, con
tranh thủ lĩnh lương rồi về ngay nhé! Vân Đằng túng lắm, không có tiền đâu…
Tôi đi
Nam Định, vừa đến nhà thì chú Đằng điện:
- Anh ơi!
Bố đi rồi…
Bữa ấy trời
nắng gắt, nóng rất bức bối. Tôi lai Khế về quê ngay. Bên nhà chú Đằng, vợ chồng
chú Hải, vợ chồng chú Giang đang bàn kế hoạch lo đám tang bố. Tôi bổ vào giường
bố nằm, gọi lạc giọng: “Bố ơi! Bố ơi!”… Mắt bố tôi vẫn mở. Tôi hỏi chú Đằng:
“Sao không vuốt mắt cho bố?”. Chú Đằng bảo: “Em vuốt mãi mà không được”. Tôi khấn
thành lời: “Bố ơi! Con vuốt mắt cho bố. Bố thương con bố nhắm mắt lại đi…” Tôi vừa khấn, vừa vuốt mắt bố. Vài lần như thế,
mắt bố tôi đã khép kín lại. Hôm sau, trời bỗng mưa như trút nước cả đêm. Tôi rất
lo sáng sau vẫn mưa thế này không biết đưa bố ra nghĩa trang làm sao… Sáng hôm
sau, mưa đột ngột tạnh, trời quang, mát mẻ. Đám rước đưa bố tôi ra đồng đông
người kéo dài cả cây số. Đội kèn trống và đội kèn đồng luân phiên cử những điệu
nhạc đưa tiễn trang nghiêm. Đội kèn đồng gồm 50 tay kèn, vừa thiếu niên, thanh
niên, vừa người già, xếp thành hàng trẻ trước già sau rất quy củ. Đám hiếu bố
tôi, cũng như đám mẹ tôi ngày trước, thật nhiều cơ quan phúng viếng, nhiều người
đưa tiễn…
Sau khi bố
mất, tâm trạng hụt hẫng trong tôi kéo dài mấy năm trời.
27 –
11 – 2009 (tức 11-10) bà ngoại Thái Bình mất, thọ 95 tuổi. Hai vợ chồng tôi vừa về giỗ đầu ông nội lên, sang
Thái Bình không kịp gặp bà.
Hai năm
trước, bà ngã gẫy tay. Bác Hoa đưa bà đi viện Thái Bình bó bột rồi đón bà về
nhà bác luôn để tiện chăm sóc. Năm sau bà đòi về quê. Sau khi ngã gẫy tay, sức
khỏe bà giảm nhiều. Dần dần bà chỉ nằm trên giường, không dậy được. Cô Đèo chăm
sóc, nâng giấc, phục vụ bà ngày đêm. Vợ chồng tôi chủ nhật nào cũng về thăm bà.
Bà bắt đầu lẫn, khi nhớ khi quên, rồi không nhận ra được con cháu nữa. Nhưng rất
lạ là bà vẫn nhớ tôi. Một lần trong phòng chỉ có tôi ngồi cạnh bà, bà lấy bó tiền
cuộn đủ các loại mệnh giá từ túi áo ra đặt vào tay tôi… Tiền này là của con
cháu họ hàng thăm biếu bà.
Tôi yêu
quý và cư xử với bà như với mẹ đẻ. Bà hết lòng vì con vì cháu. Ngày con Thanh
sinh thằng Phương, bà trông nom chắt suốt hai năm liền. Bà nuôi dạy 6 cô con
gái và một cô con nuôi lên người. Chị Ký đã qua đời. Chị thứ hai là chị Hoa, nguyên
Chánh án toà án Thái Bình. Chị Mơ cũng là cán bộ hưu trí. Gia đình, con cái các
chị đều khá giả. Cô Đèo ở quê, đảm đương công việc của cả nhà vợ tôi, lo giỗ tết
và là nơi hội tụ của gia đình. Cô Chanh đi miền Nam, các con cô đều học đại học.
Khế là con thứ tư của bà.
Tôi biết
ơn bà vì bà đã sinh ra và cho Khế làm vợ tôi. Đưa tiễn bà ra nghĩa trang, tôi
nói thầm với bà: Mẹ ơi! Mẹ yên tâm về với ông và tổ tiên. Con ơn mẹ bằng trời
biển vì mẹ đã tặng cô con gái thứ tư cho con. Con yêu vợ con vô cùng. Nếu thật
có kiếp luân hồi như nhà Phật nói, thì kiếp sau con vẫn mong được lấy Khế làm vợ.
Hạnh phúc của con cái là hạnh phúc của cha mẹ. Vợ chồng con sẽ chung thủy, yêu
thương nhau đến khi lìa đời. Mẹ cứ an lòng mẹ ơi…
29 - 8
– 2012 Thu sinh cháu Trần Minh Thùy. Mổ đẻ ở Bệnh viện Phụ sản Trung ương Hà Nội. Con Thu
bệnh tim. Cả nhà tôi đều không muốn nó đẻ. Nhưng con Thu quyết sinh con thứ 2.
Thật may nó mẹ tròn con vuông. Tôi mừng có thêm một cháu gái.
Mồng 8
Tết năm 2012 cô Mạo (Trần Thị Lan) em ruột bố tôi qua đời.
14 h 30 ngày 17 – 2 - 2013 tức mồng 8 tháng Giêng năm Quý Tỵ,
tôi đến thăm nhà thơ Chu Đình An, mở trang blog của tôi theo yêu cầu của nhà
thơ. Trang blog của tôi bình thường như mọi ngày, các bài viết, ảnh minh họa rõ
nét. Nhưng tự nhiên tôi thấy tâm trạng bất an, nóng ruột rất lạ. Nghĩ là mình
lên cơn huyết áp vì căng thẳng nên tôi vẫn lướt các bài mới đăng cho bác An
xem. Khi tôi mở tới bài “Chủ nhân blog tranmygiong vừa nhận giải thưởng văn học
nghệ thuật Lương Thế Vinh” thì đột nhiên các tấm ảnh trong bài xô lệch chờm lên
nhau, sau đó vài giây thì toàn màn hình bị che mờ không đọc được nữa. Hiện tượng
này tôi chưa gặp lần nào. Tôi thoát ra vào lại mấy lần, hiện tượng trên lại diễn
ra y như vậy. Tôi bảo bác An:
- Lạ
thật, em chưa gặp tình huống như thế này bao giờ. Cứ như điềm báo gở ấy bác ạ.
Thường ngày máy tính của bác có xảy ra tình trạng như thế không?
Bác
An bảo:
-
Không. Máy dùng vẫn tốt cơ mà…
Đột
nhiên vang lên tiếng chuông điện thoại của tôi. Tôi bấm phím nghe. Tiếng vợ tôi
gấp gáp:
-
Anh về ngay thu xếp về quê, chú Đằng vừa gọi điện bảo bà Mạo ngã xuống sông,
đang cấp cứu nhưng không có hy vọng…
Bà
Mạo là cô ruột tôi. Tôi chỉ kịp nói với bác An: “Bác tắt hộ máy giúp em. Cô em
gặp nạn. Em phải về quê ngay!” rồi chạy vội về nhà.
Hai
vợ chồng tôi vội vã về quê. Vừa mở khóa xe, chưa kịp nổ máy thì chuông điện thoại
máy tôi lại reo. Cháu Văn là con chú em tôi báo tin:
-
Bác ơi, bà Mạo mất lúc 15 h 15 rồi. Bác về ngay đi...
Khi
lo xong việc cô tôi, tôi gọi điện hỏi bác An:
-
Bác mở máy xem lại bài em mở hôm ấy hiện tượng xô lệch che đen màn hình thế nào
rồi.
Bác
An nói luôn:
-
Tôi mở máy vẫn bình thường, hình vẫn đẹp…
Vậy
là hồn cô tôi báo điềm gở cho tôi chăng?
***
Tết
2015: Nhà 28A ô19 Hạ Long bị giải tỏa.
Thành phố thu hồi đất làm đường Trần Thánh Tông. Số tiền được đền bù đủ mua cho
Minh một suất đất nơi tái định cư. Chưa có điều kiện làm nhà. Bắt đầu chuyển
nhà ra ở nhờ nhà chị Thanh thì Minh phải đi viện. Ghi lại sự kiện gian nan vất
vả này, tôi viết bài:
CUỘC ĐỜI DÂU BỂ
“Trải qua một cuộc bể dâu”
An vui chưa trọn, đã sầu vô cư…
HOAN HÔ QUY HOẠCH… TREO!
“Xóm văn hoá” là một xóm nghèo. Gọi
là xóm văn hoá nghèo vì hầu hết các hộ dân ở đây là cán bộ ngành văn hoá đương
chức hoặc đã nghỉ hưu. Mà lương cán bộ ngành văn hoá làm sao không nghèo được.
Năm 1987 ngành văn hoá được tỉnh
quan tâm cấp cho khu đầm lầy làm nhà tập thể cho cán bộ, công nhân viên trong
ngành để không còn cảnh cán bộ ăn nghỉ tại phòng làm việc của cơ quan. Chủ
trương của tỉnh làm nức lòng cán bộ ngành văn hoá. Nhưng cơ quan không có kinh
phí xây dựng, thay vì phải làm nhà tập thể, đành chia đất cho từng hộ gia đình
tự vượt lập và xây dựng. Khốn nỗi hộ nào cũng nghèo (Có nghèo mới phải bám lấy
nhà làm việc mà tá túc chứ), thành ra hẹo hẵng mãi đến ba bốn năm sau mới hình
thành xóm nhà cấp bốn.
An cư chưa được bao lâu, năm 1996
nhà nước lại quy hoạch đô thị, hầu hết xóm văn hoá nằm trong diện đất quy hoạch.
Cán bộ phòng nhà đất đo đạc, lập biên bản hiện trạng từng hộ để làm cơ sở đền
bù khi thành phố thu hồi đất. Cán bộ phường thông báo cho các hộ thuộc diện quy
hoạch không được cơi nới, xây dựng thêm để tránh phức tạp cho việc đền bù. Người
xóm văn hoá lại háo hức chờ đón ngày thực hiện quy hoạch. Nhà nào cũng gương mẫu
chấp hành quy định, không xây dựng gì thêm.
Thế là ai nấy cố chịu đựng cái cảnh
trời mưa thì ngập lụt, nhà dột nát, phân rác trôi vào tận phòng ở, trời nắng
thì nóng bức, chật chội. Chất lượng sống của dân xóm văn hoá thật... chẳng văn
hoá chút nào.
Nhưng chờ đến mỏi mắt mà không thấy
chính quyền thực hiện quy hoạch. Gần mười sáu năm sống cảnh chờ đợi nhà nước thực
hiện quy hoạch đã quá sức chịu đựng, các hộ buộc phải làm đơn kiến nghị gửi Hội
đồng nhân dân và Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, song chẳng có hồi âm. Chính quyền
địa phương cũng không biết bao giờ trên mới thực hiện quy hoạch.
Bán nhà không được, cải tạo cũng
không được, người xóm văn hoá thật bức bối. Chú Lương là thủ trưởng một đơn vị
quân đội, được đơn vị và đồng đội ủng hộ vật tư, kinh phí bèn mua đất đô thị mới,
xây luôn nhà ba tầng. Hôm ăn mừng nhà mới, chú oang oang tâm sự :
- Bà con hẳn còn nhớ gia đình em ở
xóm văn hoá khốn khổ như thế nào. Nhờ cái quy hoạch treo, vợ chồng em mới được
đơn vị, bạn bè giúp đỡ mà làm được ngôi nhà cao tầng, tiện nghi đầy đủ. Thật là
sung sướng. Em phải hoan hô cái quy hoạch treo!
Nếu được như nhà chú Lương thì tôi
cũng phải hoan hô cái quy hoạch... treo. Nhưng còn bao nhiêu gia đình vẫn phải
chịu đựng cái khổ do quy hoạch treo gây ra? Nghe nói nhà nước có quy định quy
hoạch nào sau ba năm không thực hiện thì phải bỏ. Nhưng ai công bố xoá bỏ cái
quy hoạch treo? Dân xóm văn hoá còn phải chịu đựng đến bao giờ tình trạng này?
VỠ TRẬN
Năm 1996, chính quyền cắm mốc quy
hoạch làm đường qua xóm văn hóa, cấm tiệt việc cơi nới, xây dựng mới. Các công
dân gương mẫu xóm văn hóa kiên nhẫn chịu đựng cảnh mưa ngập cứt trôi vào nhà,
hè nóng như lò nung hành hạ... quyết không xây dựng mới, không sửa chữa nâng cấp
nhà ở, chấp hành nghiêm lệnh của chính quyền.
Đầu năm 2015, chính quyền mời bà
con ra phường, báo cáo dự án của thành phố, hứa đền bù công trình trên đất theo
giá thị trường, bằng giá xây dựng mới, đất cũng được tính theo giá thị trường
thời điểm đền bù. Bà con hoan hỉ, ai nấy háo hức mong mỏi dự án nhanh chóng được
thực thi để đổi đời. Gặp ai cũng nghe câu cửa miệng cảm ơn..., cảm ơn...
Ban dự án cùng đại diện các hộ bị
thu hồi đất chia nhau đến từng nhà kiểm đếm thật chi tiết, từ cái cây cau tí tẹo
đến cái giếng đã bị lấp bỏ cũng được kiểm đếm, không bỏ sót cái gì. Không cần đọc
kỹ biên bản kiểm đếm, các chủ hộ ký cái rụp, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng...
Nhưng tâm trạng phấn khởi mong mỏi
đã nhanh chóng chuyển sang ngơ ngác, bất bình, thất vọng khi nhận được bản dự
toán tiền đền bù. Hóa ra cái giá thị trường mà ban dự án nói chỉ bằng nửa giá
thực tế. Chẳng hạn, nhà mái bằng một tầng được chi trả 2,5 triệu đồng một mét
vuông, bằng một nửa giá xây dựng hiện tại. Mỗi mét vuông đất bị thu hồi được đền
bù gần 6 triệu đồng, trong khi đó giá thị trường 10 đến 12 triệu đồng mét
vuông... Toàn bộ số tiền được đền bù đất và công trình nhà ở trên đất không đủ
mua một suất đất tái định cư tương đương với diện tích đất bị thu hồi mà ban dự
án bán cho theo giá thị trường. Vậy là cơ nghiệp cả đời tích cóp của hai vợ chồng
chủ hộ bỗng nhiên mất trắng. Ông bạn đồng hương nguyên là chiến sĩ đơn vị anh
hùng, xuất ngũ làm nghề bán bánh mì dạo, ở nhà tập thể trước năm 1980, không có
tiền chạy sổ đỏ, giờ chỉ được đền bù một nửa.
Bà con bị thu hồi đất đồng lòng làm
đơn kiến nghị lên UBND thành phố, không chấp nhận giá đền bù quá thấp, giá đất
bán cho dân lại cao... Ban dự án lại tổ chức họp và hứa chuyển ý kiến bà con
lên trên xem xét. Bà con lấy lại hy vọng, nôn nóng chờ phản hồi của chính quyền...
Nhưng chưa có hồi âm, đã thấy quyết định đền bù đóng dấu UBND thành phố đỏ chót
gửi xuống từng hộ gia đình bị thu hồi đất. Ban dự án mời đại diện từng hộ gia
đình lên ký biên bản đền bù theo từng thời điểm khác nhau. Bà con xóm văn hóa lại
tổ chức họp khẩn cấp, thề quyết không ký. Ông Lê Đạo Đức hùng hổ tuyên bố:
- Tôi quyết không chấp nhận giá đền
bù vô lý này. Cùng lắm, tôi làm Đoàn Văn Vươn thứ hai...
Trưa hôm sau, tôi về xóm với tinh
thần nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của hội nghị xóm, không chấp nhận đền bù
của ban dự án, thì thấy xóm nháo nhác như ong vỡ tổ. Ông bạn hưu trí cùng ngành
văn hóa nói trong nước mắt:
- Vỡ trận rồi bác ơi!
- Sự thể ra sao?
- Nó tung cò đất đến từng nhà, gạ
trả tiền tươi chênh lệch từ 100 triệu đến 130 triệu một suất đất dự án bán cho
hộ dân. Ai ký đồng ý chấp nhận giá đền bù của Ban dự án sẽ được chọn mua lô đất
đẹp để trao tay giấy tờ cho cò đất, nhận ngay tiền chênh lệch. Ai ký muộn sẽ chỉ
còn đất xấu, cò không mua. Bà con bảo nhận tiền tươi chênh lệch bán đất được cả
trăm triệu đồng, chả hơn là đấu tranh biết có kết quả không... Vậy là tranh
nhau ký...
- Ông Lê Đạo Đức thế nào?
- Ông Đức nhận tiền tươi cò đất
trao tay, ký nhận đền bù của Ban dự án rồi...
Các hộ dân bị thu hồi đất lúc này vẫn
nói câu cửa miệng: Cảm ơn... nhưng không phải là cảm ơn... cảm ơn... như mấy
hôm trước, mà là cảm ơn cò đất.
Đúng là cái khó bó cái khôn. Ban dự
án kinh nghiệm đầy mình, cò đất lại cáo già, cánh dân nghèo thật như đếm không
vỡ trận, thua đau mới là lạ!
Một tháng sau, xóm văn hóa tan
hoang những ngôi nhà bị phá dỡ. Gặp mấy bà hôm trước còn luôn mồm cảm ơn cảm huệ
cũng đang ngơ ngẩn nhìn nơi ở cũ, tôi hỏi:
- Sao bây giờ không thấy các bà cảm
ơn cảm huệ vậy?
- Ôi dào... Bây giờ chúng em chẳng
cảm ơn cảm huệ thằng nào con nào sất cả!
NGẨN
NGƠ NƠI CŨ, MỚI
Thực hiện lệnh giải tỏa nhà đất, nơi diễn
ra bao nhiêu kỷ niệm của gia đình suốt một phần tư thế kỷ, đã một tháng nay,
tôi hàng ngày vẫn vô thức trở về nơi ở cũ ngắm nhìn cảnh tan hoang mà lòng như
xát muối.
Tất cả tiền người ta đền bù cho 72
mét vuông đất và toàn bộ cơ ngơi nhà, công trình phụ của tôi chỉ mua được 50
mét vuông đất nơi tái định cư họ bán cho... Hôm qua tôi đã nhận đất mua ở nơi
tái định cư.
Từ trên cầu Lộc Hạ bắc qua con
mương thoát nước thải của thành phố mà dân chúng gọi là MƯƠNG THỐI (bới nó thối
kinh khủng) tôi nhìn thửa đất mới mua trong màn mưa bụi ảm đạm mà lòng buồn
khôn tả.
Đi đến ngang khu đất tái định cư, từ
bờ bên này mương thối nhìn sang thấy họ mới khai phá con đường lổ đổ xếp gạch vỉa
hè mà chưa đổ nhựa lòng đường.
Khi tới sát lô đất 50 mét vuông tôi
mua, thấy nó bé tí tẹo... Lô đất của tôi
liền kề với lô đất cùng diện tích mà một nhà dãy trước mua và làm cái
ga-ra để ô tô con của gia đình, trông
như cái chuồng chim chuồng chó...
Lô đất bé tí tẹo thế mà tôi vẫn lo
không biết xoay đâu ra đủ tiền để làm một căn nhà tương tự như cái chuồng chim
chuồng chó của ông hàng xóm dùng để xe con...
Trước mắt, vẫn phải để vợ và cả gia
đình thằng con út ở nhờ con gái lớn, đến đâu hay đến đó.
Một bà thấy tôi ngơ ngẩn trước mảnh
đất mới mua, tò mò hỏi han. Khi rõ chuyện, bà thật thà:
- Bác mua chỗ nào không mua, lại
mua ở cạnh cái mương thối. Em ở đây tứ mùa ngửi cứt khổ lắm bác ơi...
- Rồi người ta phải làm cống hộp chứ
bác! Nhà nước ai lại để dân sống trong môi trường mất vệ sinh như thế!
- Xin lỗi bác đi! Còn lâu nhé! Em ở
đây ba chục năm rồi nhé!...
Nói rồi bà xỉ mũi cái roẹt và quay
ngoắt đi, bỏ mặc tôi ngơ ngác cạnh mảnh đất của mình...
5-2016
***
Năm
2017: Hoàn thành xây dựng nhà cho Minh Thu tại đường Nguyễn Đức Cảnh dọc mương Lộc Hạ. Ở nhờ mãi nhà anh chị cũng
không tiện, Minh đòi làm nhà. Vậy là cả nhà huy động anh chị em họ hàng giúp đỡ.
Tôi trông coi công trình nửa năm trời. Cuối cùng thì công trình nhà cho Minh
cũng hoàn thành. Động viên vợ chồng Minh Thu: “Cháo húp vòng quanh, công nợ trả
dần”…
Ngày cúng
nhà mới cho Minh chuyển ra ở, trộm lấy mất xe đạp của vợ tôi. Trước đấy không
lâu, vợ tôi đi chợ cũng bị cắp lấy xe đạp và túi tiền. Thấy vợ mặt tái đi vì buồn
tiếc của, tôi bèn viết một bài thể hiện tình yêu vợ và làm cho vợ vui:
MAY
QUÁ! CẢM ƠN BÀ!
Cuối
năm Giáp Ngọ, ông thầy cúng cùng xóm bảo:
-
Sang năm là năm Ất Mùi, ông phải cẩn thận đấy. Vợ chồng ông, con gái lớn, cháu
nội đều tuổi Sửu. Con trai lớn tuổi Thìn, con dâu lớn tuổi Tuất. Vậy là Thìn,
Tuất, Sửu đi với Mùi là xung lắm…
Tôi
cười:
-
Ông chỉ được cái... Ông gợi ý cúng đầu năm chứ gì, nhưng cái này vợ tôi nó quyết
ông ạ.
Hai
chín Tết, con gái lớn đi chợ hoa bị kẻ cắp móc túi lấy mất điện thoại xịn.
Sáng
mồng một Tết, tôi đánh vỡ cái cốc thủy tinh.
Ngày
8 tháng 3 (18 tháng Giêng âm lịch), vợ tôi bị trộm lấy mất xe đạp, túi tiền...
Bụng
bảo dạ: Lời tay thầy cúng thiêng thật!
Đầu
óc lan man nghĩ ngợi...
...Tháng
giáp Tết, vợ lĩnh trước hai tháng lương hưu liền của hai vợ chồng. Chi tiêu cho
Tết, còn lại vợ đem cho con dâu nhỏ lo ăn cả tháng. Chưa kịp đưa cho con dâu, lớ
xớ thế nào, vợ bị bọn trộm lấy cả tiền, cả xe đạp. Tiền thì một tháng nữa lại
có lương. Tiếc cái xe đạp cà tàng, vật kỷ niệm gắn chặt với vợ. Sáng sớm vợ vội
đi chợ mua rau cỏ, về nấu mì cho chồng; Lại vội vàng sang nhà con út lo cơm nước,
trông cháu cho chúng đi làm; Khi con cháu hai tuổi rưỡi quấy khóc, bà lai cháu
“Vòng quanh thế giới” - đi quanh xóm cho nó nín; Chín mười giờ tối vợ hớt hải về
nhà canh chồng huyết áp cao, sợ nhỡ đêm hôm chồng có làm sao còn... Tất cả sinh
hoạt tất bật ấy đều trông vào cái xe đạp cà tàng. Vậy mà... Thật là chó cắn áo
rách. Bọn trộm nhằm trúng ngày mồng 8 tháng 3 – ngày phụ nữ được tôn vinh, nhẫn
tâm lấy trộm xe và tiền của phụ nữ, thì thật là bất nhân quá...
...Mấy
bà bạn thảnh thơi, ngày ngày đi bộ chăm lo cho sức khỏe và duy trì sắc đẹp, thấy
vợ tôi vất vả héo hon thì bảo:
-
Bây giờ con cái đã trưởng thành, có gia đình riêng, có công ăn việc làm thì để
chúng tự lo. Cần thì thuê ô sin. Ông bà già yếu rồi, phải lo cho mình chứ. Mà
có ôm mãi được chúng nó không?
Khổ!
Thì cũng biết vậy, nhưng thấy con cháu khổ quá, không giúp chúng không đành
lòng. Con dâu bé tốt nghiệp Bách khoa, dạy tin học trường tiểu học ở dưới huyện,
lương tháng ba triệu, bệnh đau tim nên chả dạy thêm dạy nếm gì. Mà có dạy thêm
thì ở nông thôn cũng không ai học. Con trai hai bằng đại học Bách khoa, thêm
cái bằng thạc sĩ điện tử viễn thông, làm giáo viên Trường Cao đẳng của Tổng
công ty Dệt mà lương chưa nổi ba triệu. Không có người học, trường còn nợ lương
giáo viên tháng này trả tháng trước... Tiền lương chỉ đủ xăng xe, đóng tiền học
trong học ngoài cho thằng lớn đang học lớp một, mua sữa cho con bé chưa đi nhà
trẻ. Lại còn bao nhiêu thứ phải chi: ăn hàng ngày cho cả nhà, tiền điện, tiền
nước, tiền vệ sinh, tiền ga, tiền thuê bao truyền hình cáp, tiền internet, tiền
điện thoại, tiền khóc, tiền cười, tiền viện, tiền thuốc cho hai đứa trẻ ốm yếu
luôn, tiền nghĩa vụ với nước, với xóm ngõ, tiền các hội... thì còn đâu nữa mà
thuê ô sin. Thôi thì nước mắt chảy xuôi, đành để vợ đem lương theo làm ô sin
cho con cháu.
Vắng
bàn tay chăm sóc của vợ, tôi tự lo cho bản thân thật là vất vả. Lại nghĩ: Mình
vất vả một, vợ vất vả mười...
Thấy
vợ mặt nhợt nhạt, thảng thốt báo tin: “Ông ơi... tôi... mất hết rồi! Xe đạp và
túi tiền...”, tôi hụt hẫng: “Đã bảo...”, nhưng lời tắc lại trong họng. Chợt
nghĩ đến lời ông thầy cúng, thôi của đi thay người... Lát sau:
-
Thế cái... cái bà vẫn dí vào thơ tôi ấy, có còn không?
Vợ
trả lời bị động:
-
Còn…
-
Ôi, thế thì may quá! Cảm ơn bà!
Thoáng
thấy đôi mắt u ám của vợ tôi ánh lên tia sáng, những nếp nhăn hằn sâu trên mặt
như giãn ra...
Mấy tháng
sau khi khánh thành nhà Minh Thu, tôi bị tai nạn xe máy gẫy xương phải nhập viện…
Thật là, mấy ông thầy cứ độc miệng, nói tôi thể nào cũng gặp nạn làm nhà, gạ phải
cúng giải hạn… Tôi chả tin. Bây giờ bị nạn tôi cũng thấy sợ sợ… Tôi ghi lại sự
kiện này như sau:
NẰM VIỆN
HỌA VÔ ĐƠN CHÍ
Tự nhiên tai trái lão bị đau ngứa đến ù như điếc cả tuần không
đỡ. Lão đành đi khám bệnh. Bác sĩ bảo lão bị nấm sợi ống tai trái, phải nhập viện
điều trị ít nhất là hai đợt, mỗi đợt 15 ngày.
Nằm
khoa da liễu bệnh viện đa khoa tỉnh được 8 ngày thì bà dì ruột lão mất ở quê.
Lão buộc phải xin ra viện về chịu tang dì.
Hai ngày phục tang dì xong, hai vợ chồng lão đi xe máy từ Giao
Thiện (Giao Thủy) về tỉnh. Quá mệt mỏi, nên lão đi chậm. Qua ngã ba Cổ Lễ - đường
21 thì bất ngờ lão nghe đánh rầm, rắc rắc, rồi ngã lăn quay giữa đường. Định thần,
nhờ người bên đường dìu đứng dậy, lão thấy vợ còn ngồi bệt giữa đường, đầu gối
xước tua rướm máu, ánh mắt thất thần. Lão vội giơ tay bước đến để đỡ vợ thì bàn
chân phải, ngực trái và bả vai nhói đau. Cánh tay trái lão phản xạ tự nhiên ép
vào sườn, cẳng tay co lại ôm chặt bụng. Lão có cảm giác làm thế cái đau đỡ đi
phần nào. Ai đó đỡ vợ lão dậy. Vợ lão bấm điện thoại gọi cho các con ở thành phố,
nhưng tay run không sao thực hiện được. Một ai đó đã bấm gọi hộ. Lão phều phào
hỏi vợ:
- Bà có bị
thương chỗ nào nặng không? Đầu gối…?
Vợ lão lấy
lại bình tĩnh, trấn an lão:
- Tôi
không sao. Đầu gối xước da thôi… Ông thấy trong người thế nào?
- Tôi…
đau…
Lão bắt đầu
như ngất đi, như mơ ngủ.
- Mở cửa xe đưa ông lên.
-
Đi luôn Bệnh viện đa khoa tỉnh chứ bà?
- Ừ. Ông có bảo hiểm ở đó…
*
Khi lái xe gọi to: “Ông ơi, tới rồi ạ”, lão mở mắt, giơ tay phải
mở cửa xe, mãi không mở được. Mu bàn tay lão đầy máu lẫn thuốc lào và lông Cu
Li do dân nơi xảy ra tai nạn đắp cầm máu cho.
- Để cháu mở cho ông.
Lão đưa chân phải ra đứng lên thì cảm giác nhói đau, lại ngồi
bệt xuống ghế. Vừa khi ấy, các con giai, con gái và vài người bạn của con lão,
con dâu, con rể, mấy đứa cháu lão đã kịp đến bế lão đặt lên xe lăn…
Từ
phòng chụp hình, siêu âm đến phòng mổ là quãng đường dài như vô tận, là cực
hình với lão. Mỗi cái vấp của bánh xe là một lần buốt đau tận óc. Lão nhắm mắt,
gồng người chịu đau… Loáng thoáng ai đó nói bên tai lão:
- Ông phải mổ nẹp đóng đinh xương đòn trái… Nhanh thôi ông ạ…
Không sao đâu…
Lão nghĩ: Các cụ nói không sai, thật là họa vô đơn chí…
*
Bác sĩ áo xanh luồn ống thở vào hai lỗ mũi lão, nói:
- Ông hít thở sâu vào…
Lão hít thật sâu, thật sâu… Rồi lão nghe tiếng khoan bắt vít
vào tường… Rồi lão thấy bố mẹ lão dắt lão đi trên con đường quê đầy hoa lá… Rồi
lão thấy bỗng nhiên mình rơi vùn vụt xuống một vực sâu đen nghòm, cây cối đá
núi cứ vun vút chạy ngược lên trên… Lão nghĩ, phen này mình chết chắc rồi,
nhưng mình chưa thể chết được, còn phải đưa đón cháu nội đi học, còn phải bế
cháu đích tôn sắp ra đời, còn phải đợi dự cưới cháu ngoại, còn nợ bao nhiêu là
bài của bạn văn chưa lên trang blog… Chợt lão nhớ chuyện vợ nhà báo Trần Anh
Kim 7 lần mổ ung thư, một lần sơ ý bị rơi xuống hố ga sâu 2 mét. Trong lúc bất
lực, chị chỉ còn biết liên tục niệm “Nam mô a di đà Phật”… Thế rồi chị cảm thấy
như có lực hỗ trợ nâng chị lên miệng hố ga và chị thoát chết. Lão lập tức luôn
mồm niệm “Nam mô A di đà Phật… Nam mô a di đà Phật…”. Chợt lão thấy một chú tiểu
cầm cây chổi cán dài đang bay từ dưới lên. Khi lão rơi ngang chú tiểu, lão liền
chộp lấy cán chổi của chú tiểu. Và lão lấy lại thăng bằng, như đứng trên mặt đất…
Lão thấy ai đó đang lay vai lão, hỏi tiếng nhỏ rồi to dần:
- Ông ơi, ông tên là gì ạ?
Lão cố cất tiếng trả lời:
- Trần Mỹ Giống.
- Ông thấy trong người thế nào? Có đau ở đâu không?
- Không thấy đau… nhưng không sao nhắc nhói người được…
Tiếng người hỏi nói với người khác:
- Ông tỉnh rồi, không sao đâu các chị ạ!
TRONG CÁI RỦI CÓ CÁI MAY
Vợ
lão vừa xoa bóp nhẹ nhàng lên tay chân lão, vừa bảo:
- Ông bị thế này còn là may đấy. Chứ nếu ông bị vào đầu thì
không biết rồi sẽ ra sao…
Lão định cãi vợ: “Đã thế này rồi còn may nỗi gì” nhưng vốn yêu
nể vợ nên lão lại nằm im. Vợ lão lại bảo:
- May mà ông đi chậm, chứ đi nhanh thì…
Láy
sau, vợ lão lại kể:
- Thằng bé đâm phải ông là đứa trẻ ngoan ông ạ. Nó nhận lỗi
ngay và lo thu xếp đưa ông đi viện. Từ hôm ông bị mổ đến nay nó vẫn túc trực
thăm nom ông. Khổ thằng bé vừa ra trường chưa có việc làm, sáng nay còn bị công
an bắt xe về đồn vì để xe lòng đường mua hoa quả thăm ông đấy…
- Xe của tôi thế nào?
- Thằng bé quay về Cổ Lễ sửa chữa và mang lên cho ông rồi. Nếu
nó như đứa khác, nó đổ lỗi cho ông hay bỏ chạy thì mình cũng chịu ông ạ. Tôi bảo
nó là ông có bảo hiểm rồi, cháu không phải lo tiền nong gì đâu, về đi mà lo lấy
xe ra và lo công việc…
- Sao bà không bảo chú Hải xin xe cho nó. (Chú Hải là em út
lão, là trưởng phòng ở công an thành phố đang).
- Nào tôi có hỏi tên tuổi thằng bé đâu mà biết mà nhờ chú Hải…
với lại nó cũng về rồi…
*
Một người bạn của con lão là trưởng khoa trong viện đến thăm bảo
lão:
- Chúng cháu đã nhờ bác sỹ phẫu thuật giỏi nhất viện mổ cho
ông rất kịp thời. Kiểm tra sau mổ, ổn rồi. Ông không phải lo lắng gì nhé!
- Vâng, cảm ơn các chú…
Ừ, đúng là trong cái rủi có cái may…
HẠNH PHÚC TRONG BẤT HẠNH
Bà
vợ lão phàn nàn:
- Tôi đã cấm con cháu đưa tin ông tai nạn lên mạng để đỡ phiền
bạn bè ông phải đến thăm trong cảnh đầy người bệnh máu me mất vệ sinh và ồn ào
như chợ vỡ trong buồng cấp cứu này… mà sao lắm người biết đến thăm ông thế cơ
chứ!
Ngay ngày đầu nằm viện, hầu hết bạn bè thân thiết trong thành
phố của lão đã đến thăm, có người cách ngày lại đến thăm… Rồi bạn bè, cơ quan của
các con lão. Rồi bà con hàng xóm của lão, của các con lão. Rồi họ hàng lão ở quê…
rồi…
Có người không thân gì với lão cũng đến thăm, dúi vào túi lão
đồng tiền, chân thành, chất phác như nông dân làm lão cảm động muốn khóc. Hắn cảm
thấy hạnh phúc…
Các con dâu, con trai, con gái tranh nhau nấu món ăn ngon ép
lão ăn. Các con trai và các cháu con chú em lão thay phiên đêm đêm phục vụ lão
vệ sinh trên giường… Thằng cháu con thứ hai chú em lão chăm sóc lão từng ly từng
tý. Nó biết lão muốn gì mà đón việc trước. Đêm dăm lần đi tiểu, lão đều trông
vào nó. Mỗi khi lão rên vì đau, nó lập tức nắn bóp chân tay, xoa gãi lưng cho
lão quên đau. Lão cảm nhận được tình cảm ruột rà, chân thực của thằng cháu qua
từng nhát gãi, cái bóp, cú xoa của nó… Lão cảm động và cảm thấy cái nhức đau giảm
đi rất nhiều.
Lão cố ăn từng thìa cháo do con gái và vợ lão thay nhau đút tận
mồm cho lão, để họ vừa lòng. Lão biết vợ lão với cái đầu gối tụ máu sưng tấy
thì ắt là đau lắm. Nhưng vợ lão cứ làm như chẳng đau đớn gì nên lão cũng lặng
im. Lão rưng rưng nghe vợ lão đọc thư cháu nội Sóc Hạnh học lớp 4 động viên lão
bằng lời lẽ ngây thơ, giàu tình cảm… Lão muốn khỏe nhanh để về nhà!
Ngày thứ 8 lão phải nằm buồng cấp cứu. Bác sĩ trưởng khoa khám
và tuyên bố: “Mai ông được ra viện rồi đấy! Nhưng ông nhớ ít nhất hai tháng
không được đi xe đạp nhé!” Nghe câu nói của bác sĩ, lão sướng như bắt được
vàng. Vợ lão bảo: “Nhận thuốc hết ngày hôm nay là ông có thể về nhà trước, để
các con làm giấy ra viện sau cũng được!”
Được về nhà! Về nhà! Về nhà… Hai tiếng “Về nhà” cứ reo vang
trong đầu lão…
Bệnh
viện tỉnh Nam Định, 28/8 - 13/9/2017
***
29-11-2017 Hường sinh cháu Trần Mỹ Thịnh, cả nhà gọi là Tôm…
Sinh con
Hạnh gần chục năm rồi mà Hường không mang thai, tôi thấy lo và buồn… Tôi mong mỏi
có cháu đích tôn. Đích tôn là con trai cả của con trai trưởng. Thấy Hường càng béo
ra, tôi càng lo. Người ta nói càng béo càng khó chửa… Đôi lần tôi bảo vợ chồng
Hưng Hường đi khám chữa… nhưng chúng đều gạt đi. Thời gian càng trôi đi, tôi
càng mất dần hy vọng mình có đích tôn. Khi con Hạnh 10 tuổi thì Hường bảo bố mẹ
là con có thai rồi. “Con có thai rồi” nghe như reo vui. Cả nhà vui háo hức. Bao
nhiêu bức bối trong nhiều năm bỗng được giải tỏa. Tôi như sắp chết khỏe lại. Sức
khỏe con Hường là điều vợ chồng tôi quan tâm nhất. Con Hường chửa tháng thứ tám
thì thấy trong người bất bình thường nên vào viện khám. Kết quả con Hường phải
mổ đẻ ngay, cháu đích tôn của ông bà ra đời sớm một tháng. Cháu Thịnh ra đời nặng
2,4 kg. Bệnh viện nuôi cháu trong lồng kính 7 ngày.
Tôm Thịnh
là trung tâm quan tâm của cả nhà…
Tôm Thịnh
là báu vật mà trời Phật ban cho gia đình tôi. Có Tôm Thịnh, tôi không còn mong
ước gì hơn nữa. Tôi yên tâm có thằng đích tôn, nối giõi và duy trì chi họ của
tôi… Từ ngày có Tôm Thịnh, tôi thấy cuộc đời tươi đẹp biết nhường nào… Tôi cứ
muốn nhìn mãi, nhìn mãi, và lẩm bẩm một mình: “Ôi! Cái mỏ trên thì nhọn, cái
môi dưới thì tụt vào, cái mắt một mí, cái trán cao… lại má lúm đồng tiền nữa…
Ôi, cháu tôi, cháu tôi”…
Gia
đình là tổ ấm quan trọng nhất đối với tôi bây giờ. Càng nhiều tuổi, tôi càng thấy
yêu quý gia đình. Quỹ thời gian của đời người không còn nhiều, mới thấy những
ngày được sống với người thân là quý giá vô ngần. Tôi luôn khao khát sự quây quần
của con cháu. Các con, cháu là nguồn hạnh phúc lớn của tôi.
Mong
sao các con, cháu tôi sớm nhận thức được rằng cuộc sống là quý báu nhất, gia
đình là gốc của cuộc sống, mà biết quý trọng từng giây từng phút cuộc đời, mà
yêu thương người thân.
Cùng với tuổi già, sức khoẻ vợ chồng tôi giảm sút, bệnh tật
tăng lên. Cái thời của tôi đã qua, cái thời của các con tôi đã tới. Mong các
con phấn đấu vượt lên những gì bố mẹ đã đạt được. Trong lòng mình, bố luôn tự
hào về các con. Bố tin các con sẽ vững vàng tiến lên bằng chính đôi chân của
mình, trở thành chỗ dựa cho bố mẹ sau này.
Sinh mạng của con người là quý giá vô ngần. Được sinh ra làm
người là một ân huệ lớn lao của tạo hoá ban cho. Hãy biết quý trọng từng phút từng
giây sinh mạng của mình. Hãy cẩn thận giữ gìn, bảo vệ và chăm chút sức khoẻ của
chính mình. Hãy luôn nhớ thường xuyên tự làm phong phú, tăng chất lượng sống và
hoàn thiện cuộc sống của mình.
Cuộc sống
vô cùng gian khó nhưng tràn đầy hạnh phúc.
... Nối
truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau, sự sống không ngừng tiếp diễn...
Thành Nam, 2018
LÝ LỊCH NGHỆ THUẬT
Họ và tên: TRẦN MỸ GIỐNG
Năm Sinh: 1950.
Quê quán:
Xóm Đông Thành, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Nơi ở:
thành phố Nam Định.
Hội viên Hội
VHNT Nam Định.
Hội viên Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Hồi nhỏ học
trường cấp 1 và 2 xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và Trường cấp
3 huyện Xuân Trường.
1968 – 1971 học Đại học Thư viện Trường
Trung cấp Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội.
6-9-1971
nhập ngũ c10 d19 e101 f325.
5-1972 đến
2-1973 thuộc b23 e101 f325 chiến đấu ở Quảng Trị.
3-1973 đến
5-1974 học khóa 35 Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam.
6-1974 đến
12-1980 làm B trưởng c10 e102 f338 rồi Trợ lý Ban tuyên huấn f338, phục vụ chiến
đấu bảo vệ Lạng Sơn chống giặc Trung Quốc.
1-1981 đến
5-1983 chuyển ngành học Đại học Văn hóa Hà Nội.
6-1983 đến
12-2009 công tác tại Thư viện tỉnh Nam Định.
1-2010 nghỉ
hưu.
Khen thưởng:
- Huân chương chiến công giải
phóng hạng Ba.
- Huân chương chiến sĩ vẻ vang
hạng Ba.
- Danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng
cấp Hai.
- Huy chương Vì sự nghiệp Văn
hóa.
- Kỷ niệm chương Văn học Nghệ
Thuật.
- Kỷ niệm chương Cựu chiến
binh.
Giải thưởng:
- Giải Ba giải thưởng VHNT
Lương Thế Vinh (2006-2010).
- Giải Ba giải thưởng VHNT
Lương Thế Vinh (2016 – 2020)
- Giải Khuyến khích cuộc thi
Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ.
Tác phẩm đã xuất bản:
- Tác giả Hán - Nôm Nam Định (Hội VHNT Nam
Định, 2008)
- Các nhà
khoa bảng Nam Định (Nxb. Quân đội nhân dân, 2017)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Hội VHNT Nam
Định, 2009)
- Thời áo
lính: Hồi ký. – H.: Quân đội nhân dân, 2018.
- Thời áo
lính: Hồi ký. – H.: Quân đội nhân dân, 2019. – In lần thứ 2 theo “Đơn đặt hàng
của nhà nước”.
- Thư mục nhân vật Nam Định
(Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)
- Truyện nhặt. – H.: Nxb. Hội
Nhà văn, 2021. – T.1.
Đồng tác giả:
- Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần
Quốc Tuấn và quê hương Nam Định (Nxb. Quân đội, 2000)
- Danh nhân văn hóa Nam Định
- T1. (Sở VHTT Nam Định, 2000)
- Danh nhân Nam Định thế kỷ
XX được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (Sở VHTT Nam Định, 2001).
- Danh tướng thời Trần. –
H.: Thanh niên, 2020.
- Dấu ấn thời gian (Hội VHNT
Nam Định, 2007)
- Lược khảo tác gia văn học
Nam Định (Nxb. Văn học,1997)
- 1000 năm Thiên Trường Nam
Định - Thăng Long Hà Nội: Thơ (Nxb. Hội Nhà văn, 2010)
- Những người giữ lửa tình
yêu với sách: Ký (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2004 - 2005. - Tập 1 và tập 2)
- Nói chuyện giới thiệu
sách. (Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)
- Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt (Hội
VHNT Nam Định, 2008)
- Thơ Nam Định 5 năm đầu thế
kỷ: 2001 - 2005 (Nxb. Hội Nhà văn, 2006)
- Tiến sĩ Vũ Huy Trác (Sở VHTT Nam Định, 2008)
- Trạng nguyên Đào Sư Tích đời
và thơ văn (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2010)
- Trạng nguyên đất học Nam
Trực (Phòng VHTT Nam Trực, 2009)
- Tuyển tập văn học nghệ thuật
Nam Định thế kỷ XX (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005)
- Văn hóa Nam Trực cội nguồn
và di sản (2000)
v.v...
Hàng trăm bài viết và công trình nghiên cứu đăng báo và tạp chí…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét