Chủ Nhật, 13 tháng 2, 2022

THỜI ÁO LÍNH : Hồi ký / Trần Mỹ Giống

                             (Bản thảo)

    (Bản thảo được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân biên tập, chỉnh sửa hoặc cắt bỏ những từ, những đoạn “nhạy cảm” và ấn hành lần đầu năm 2018, phát hành cho các thư viện trong hệ thống thư viện quân đội. Ngay năm sau, 2019, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân lại ấn hành lần thứ hai theo đơn “Nhà nước đặt hàng” phát hành cho các thư viện công cộng nhà nước, thư viện các trường đại học… Ở đây là nguyên bản thảo. Cuốn sách được tặng Giải Ba Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lương Thế Vinh 2016 - 2020)

 


 

                              TỰ BẠCH

 

       Nhiều năm kể từ ngày rời quân ngũ, tôi thường nhớ về những đồng đội đã cùng tôi sống chết có nhau trong những năm tháng chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972 và những năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới, mong mỏi cơ duyên gặp lại nhau, nhưng không làm sao thực hiện được. Vợ tôi gợi ý: “Hay là ông viết hồi ký về những ngày sống chiến đấu trong quân đội đăng lên mạng. Biết đâu, đồng đội ông đọc được sẽ liên hệ với ông. Ông viết ra cho nguôi ngoai nỗi nhớ đồng đội cũng tốt chứ…” Nghĩ vợ nói phải, tôi bắt tay vào viết hồi ký. Tôi viết như dốc bầu tâm sự, như giãi bày bộc bạch lòng mình, như chuyện trò cùng đồng đội. Những gì tôi viết ra đều là những sự thật tôi trải qua, chứng kiến, tai nghe, mắt thấy. Tôi không quan tâm đến chau chuốt câu văn, nghĩ sao viết thế, thấy sự thật thế nào viết thế.

       Tôi viết hồi ký được kỳ nào, đăng luôn lên mạng kỳ đó. Hồi ký của tôi lên trang blog một thời gian thì tôi nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc động viên, nhận xét nhật ký trung thực. Nhờ việc đăng hồi ký lên mạng mà tôi được một số đồng chí lãnh đạo Hội Cựu chiến binh bảo vệ thành cổ Quang Trị năm 1972 biết và kết nạp tôi vào hội. Đài truyền hình Nam Định mời tôi tham gia buổi giao lưu giữa đài với cựu chiến binh bảo vệ Quảng Trị năm 1972… Nhờ đăng hồi ký, tôi gặp lại được anh Nguyễn Công Sự ở Vụ Bản là chiến sĩ cùng đánh trận An Tiêm với tôi, anh Lê Thanh Oai ở xã Mỹ Thắng (huyện Mỹ Lộc, Nam Định) là thủ trưởng chỉ huy chúng tôi trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt... Gặp lại nhau, chúng tôi xúc động vô cùng. Thời tuổi trẻ hào hùng sống lại trong chúng tôi.

Thủ trưởng cũ của tôi - anh Lê Thanh Oai có lần bảo: “Chú nên xin lệnh xuất bản in cuốn hồi ký để lưu lại cho con cháu biết cha ông chúng đã sống và chiến đấu như thế nào. Chú nên in sớm, để anh em đồng đội chúng mình được đọc và nhớ về một thời tuổi trẻ. Đồng đội chúng mình đều đã trên bảy mươi tuổi rồi, chú nên in sớm nhé!”. Tôi hiểu điều anh Lê Thanh Oai muốn nói, nên mạnh dạn gửi bản thảo đi nhà xuất bản để xin lệnh in…

Nếu may mắn cuốn sách của tôi được ra đời đến tay bạn đọc, tôi vô cùng biết ơn bạn đọc bớt chút thời gian đọc những dòng tâm sự về một thời áo lính của tôi…

 

Thành Nam, tháng 2 - 2017

      TRẦN MỸ GIỐNG

      

 

                                 GIA ĐÌNH

 

       Cụ tổ họ Trần nhà tôi về sinh cơ lập nghiệp ở làng Trà Lũ (nay bao gồm các xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương và Nam Điền thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) từ khoảng nửa đầu thế kỷ 15. Cụ ở làng Kim Lũ, tục gọi làng Lủ nay thuộc Hưng Yên. Có người lại bảo làng Kim Lũ thuộc Hà Nội. Để nhắc con cháu nhớ về làng gốc của cha ông, các cụ đặt tên làng mới là Trà Lũ.

              Chữ KIM đổi lấy chữ TRÀ

       Còn một chữ LŨ để mà làm ghi.

       Hồi ấy, Trà Lũ là vùng sình lầy, đầy lau sậy giáp biển Đông. Cụ tổ họ Trần cùng các họ khác đứng chân ở vùng đất nổi Trà Lũ lập ra Trà Lũ Trung (tức Xuân Trung bây giờ), Trà Lũ Bắc (tức xã Xuân Bắc), Trà Lũ Đông (tức xã Xuân Phương). Nam Điền (nay là xã Xuân Nam) là đất trại cấp cho những gia đình đi lính làm ăn phụ thuộc vào Trà Lũ Trung.

       Đầu thế kỷ 19, khi nghĩa quân Phan Bá Vành nổi lên chống lại triều đình, hầu hết dân làng tôi đi theo. Trà Lũ trở thành đại đồn của nghĩa quân. Năm 1827 khởi nghĩa thất bại, cả làng tôi bị triệt hạ, hơn 800 người bị giết. Cho đến giờ, họ Trần tôi vẫn rất tự hào có tướng quân Hai Đáng nổi tiếng trong nghĩa quân.

       Gia phả họ Trần nhà tôi chỉ chép được 15, 16 đời. Cụ tổ đời thứ 10 là cụ Trần quý công huý Oánh tự Huệ Văn đi lính giữ chức Tiền cường cơ lục đội, Chánh đội trưởng. Ông nội tôi là cụ Trần Hanh sinh hai trai là bố tôi và bác Vượng, hai gái thì một người mất sớm, một người không có con. Năm 1985 bác Vượng tôi mất. Sau đó ít năm bác gái cũng qua đời. Năm 1994 mẹ đẻ tôi mất. Mẹ cả tôi mất từ 1945. Năm 2008 bố tôi qua đời. Năm 2013 cô tôi mất. Vậy là thế hệ bố tôi không còn ai.

Khi còn sống, bác Vượng tôi rất hay văn nghệ. Ông từng làm đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều năm. Trong kháng chiến, ông làm công tác tuyên truyền, bị địch bắt tra tấn thành bệnh. Năm 71 tuổi ông mất. Bác tôi có 5 con gái (Hương, Bình, Thường, Sướng, Thảo), hai trai là anh Hữu và anh Quang. Cả hai anh hiện ở Giao Lạc thuộc Giao Thuỷ. Anh Hữu đi bộ đội, về phục viên, có thời làm Phó Chủ tịch xã. Anh Quang thời trẻ đi bộ đội biên phòng rồi về phục viên. Vợ cả anh đi làm ô sin ở bên Hàn, bỏ anh lấy chồng khác. Anh lấy bà hai kém anh hai chục tuổi. 

       Ông nội tôi mất từ khi tôi chưa ra đời. Bà Nội tôi sống 83 tuổi thì mất. Phần mộ của bà để ở Giao Lạc, nơi anh Hữu cư trú hiện nay. Khi còn sống, bà tôi luân phiên ở với bác Vượng và bố tôi. Khi bác tôi đi khai hoang ở Yên Thế (Bắc Giang) thì bà sống với bố tôi. Khi bác Vượng bỏ vùng Yên Thế về Giao Lạc (Giao Thủy – Nam Định) thì bà tôi lại luân phiên ở với hai con trai. Bà tôi từng là cơ sở nuôi dấu cán bộ trong kháng chiến. Sinh thời, bà làm nghề bán gạo, gọi là nghề hàng sáo. Từ ngày tôi ra đời và biết được thì đã thấy bà già cả, mắt mờ rồi. Tôi yêu bà lắm. Hồi bé, tôi thường đòi ngủ chung giường với bà. Tôi khoanh tròn trong lòng bà, háo hức nghe bà kể chuyện cổ tích rồi ngủ thiếp đi.

Bố tôi hai vợ. Bà cả là bà Trần Thị Tý mất khi tôi chưa ra đời. Bố tôi kể: Hồi ấy nghèo đói lắm, bố tôi phải đi làm thuê làm mướn ở xa, khi về quê thì bà Tý và hai con đã qua đời. Lúc đó bố tôi đã có hai người con, cô lớn tên là Ngọ (thường gọi cô Gái lớn để phân biệt với cô Gái em ruột tôi mất khi 3 tuổi), đứa bé thì chưa đặt tên. Nỗi đau buồn vì mất bà Tý của bố tôi càng lớn thêm khi ông mất luôn cả hai người con. Bố tôi hỏi các con của ông đâu thì bà nội và bà ngoại tôi (tức bà sinh ra bà Tý) đều không cho ông biết. Bố tôi đoán rằng hai bà đã bí mật cho hai cháu đi làm con nuôi người ta để có hy vọng các cháu được sống. Nhưng đó chỉ là hy vọng. Sau này tôi được bà con trong làng nói cho biết hai anh chị tôi mất năm đói 1945 rồi.

Bà hai là U tôi. Sau khi bà Tý mất, bố tôi mới lấy U tôi. Bố tôi nuôi chú ruột là ông Đức vì cha mẹ ông Đức mất sớm. Khi ông Đức lớn đã đi du kích và hy sinh năm 1952 ở Thái Bình. Vì thế bố u tôi được hưởng chế độ gia đình liệt sĩ. Bố tôi có tiếng là hiền lành. Mọi việc lớn trong gia đình do U tôi quyết đoán.

          Ông ngoại tôi là ông Trần Mỹ Riệm, có tiếng đẹp trai và rất “công tử”. Gia đình ông ngoại tôi là gia đình khá giả thời đó. Ông tôi làm nghề may và lấy hai bà vợ. Năm u tôi 13 tuổi thì ông ngoại tôi mất. Bố tôi bảo: “Ông ngoại mất do bị người ta đánh thuốc độc vì ghen ghét... Họ lừa cướp ba cái máy khâu của ông”. Bà ngoại tôi bỏ đi lấy chồng. Bà vợ hai ông ngoại tôi sinh hai con gái là dì Răm và dì Ngọ, cũng bỏ về quê Đông Hưng (Thái Bình) rồi mất ở đấy. Một tay mẹ tôi tần tảo nuôi hai em. Khi lớn lên, dì Ngọ đi du kích, dì Răm đi tu. Hoà Bình lập lại, mẹ tôi đón dì Răm về và gả cho ông Sử là chú rể tôi bây giờ. Dì chú Sử đưa gia đình lập nghiệp ở Trí Thiện (Giao Thuỷ). Dì Ngọ lấy ông Bảng, có 4 con trai hiện còn ở Trà Lũ Bắc (Xuân Bắc). Ông Bảng mất sớm, mấy đứa con còn nhỏ nên dì tôi rất vất vả trong cuộc sống.

       Bà ngoại tôi thường gọi là bà Kẹo vì bà bán kẹo đắng, sau khi ông ngoại tôi mất, bà lấy ông Nhì người Xuân Bắc. Hai ông bà sống nghèo khổ và không có con. Ông Nhì làm nghề bán thịt chó. Hồi nhỏ, tôi thường theo bố tôi lên thăm ông bà. Mỗi khi bố tôi lên thăm, ông Nhì giữ bằng được bố tôi uống rượu ăn thịt chó với ông. Ông Nhì mất, bố u tôi đón bà ngoại tôi về nuôi dưỡng. Bà ngoại và u tôi xung khắc nhau. Bà tôi đòi ở riêng. Bố tôi chiều bà, bèn làm một cái chái phía đông cho bà ở. Hàng ngày bà vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bà rất quý tôi. Mỗi bận đi chợ, bà lại mua cho tôi khi thì cái bánh đa, khi củ khoai lang. Ngày ba bữa, bố u tôi đưa cơm cho bà để bà ăn một mình cho thoải mái. Bà đã lẫn nhưng vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bố u tôi không giám cản bà. Mỗi khi có người hỏi bà đã ăn cơm chưa, dù vừa ăn xong, bà vẫn bảo chưa được ăn gì. Năm 1976, tôi đang đóng quân ở Vĩnh Phú thì được tin bà mất. Nghe vợ tôi kể, hôm bà mất, bà vẫn khoẻ bình thường. Bà bảo đem cho bà cốc nước chè. Uống xong bà  gọi cô Hà lại, móc ruột tượng có ít tiền đưa hết cho cháu rồi bà đi. Hôm đưa đám bà, trời mưa to. Mọi người phải đè ván xuống mới lấp được đất. Sau này sang số cho bà, tôi mua tiểu từ Nam Định, lai bằng xe đạp về. Nhưng ngày sang số bà, chỉ có bố tôi, chú Đằng và ông Số là bạn bố tôi thực hiện. Khi tôi ra quân, về hỏi mộ bà thì bố tôi và chú Đằng đều nhớ không chính xác. Năm sang số cho U tôi, tôi nhờ người đưa luôn bà vào khu mộ tổ thì không tìm thấy mộ bà. Trước đây, do bà ngoại tôi bỏ con đi lấy chồng sau khi ông tôi mất, nên họ nhà ông ngoại tôi không nhận bà, không cho đưa bà vào khu mộ tổ của họ chồng. Đến khi tôi lớn, quyết đưa bà vào khu mộ tổ họ nội tôi thì lại không tìm được mộ bà. Tôi vô cùng áy náy vì việc này mà không biết làm thế nào.

       Bà ngoại đẻ ra mẹ cả tôi là bà Thụ. Mặc dù mẹ cả tôi là bà Tý mất đã lâu, nhưng bà ngoại vẫn đi lại thường xuyên với nhà tôi. Bố tôi không bỏ buổi nào những ngày bên nhà vợ cả ông có việc. Chúng tôi cũng rất yêu quý bà. Tôi còn nhớ như in hình ảnh bà mặc váy đen, thắt ruột tượng nâu, áo cánh gụ, ăn trầu bỏm bẻm. Mỗi bận bà lên chơi, tôi quấn quýt với bà cả buổi. Có lần bọn bạn rủ đi đá bóng, ham quá, tôi muốn đi chơi nhưng lại sợ khi tôi đi chơi thì bà bỏ về. Tôi hẹn đi hẹn lại với bà rằng bà phải ở chơi chờ cháu về. Để yêm tâm, tôi buộc ruột tượng của bà vào cối xay thóc. Khi tôi chơi bóng xong thì bà đã về. Tôi khóc ầm ĩ bắt đền bố u tôi. Sau này bà bị đau mắt, chữa chạy không khỏi thành ra mù. Khi bà mất, người ta chở thuyền đưa bà ra nghĩa trang. Tôi dắt chú Đằng, đầu đội lá khoai, đi bộ theo trên bờ đưa tiễn bà.

       Bố u tôi làm ruộng, nhưng đất hiếm nên sống chính bằng nghề bán hàng sắt. Hàng ngày bố u tôi đi các chợ Trung, chợ Bắc, chợ Thanh Nhang, chợ Bể... từ tinh mơ đến tối. Chợ xa hai mươi cây số mà bố tôi gánh hàng nặng trên sáu chục ký đi bộ quanh năm. Hai vai bố tôi nổi u to bằng cái bát ăn cơm do đòn gánh đè lâu ngày. Có thời khó khăn, bố tôi bỏ đi thân tàng, tức là đi khai thác nứa gỗ ở Thanh Hoá, hoặc mạn ngược xuôi về bán. Vất vả cả đời nhưng không có thời kỳ nào bố u tôi giàu có cả. U tôi đẻ mấy bận đều không nuôi được. U tôi buồn đến phát điên. Sau có tôi ra đời u tôi mới khỏi bệnh. Đứa em liền tôi là cô Gái mất lúc ba tuổi. Sau tôi còn có các chú Đằng, Giang, Hải và cô Hà. Chú Đằng đi trung cấp thuỷ lợi, công tác ở Đội thi công cơ giới Bộ Thuỷ lợi. Chú có thời đi I Rắc lao động nhưng gặp lúc chiến tranh phải về nước, được đền bù ít tiền đủ mua cái xe máy. Chú Giang, chú Hải đều là sĩ quan công an thành phố và tỉnh. Cô Hà làm Kế toán trưởng Công ty Điện báo, điện thoại Nam Định. Nay các em tôi đã nghỉ hưu.

       Không ai nhớ chính xác là tôi sinh năm nào. U tôi bảo :

       - Hồi “hai năm bốn tháng” (từ 1947 đến 1949) đã có thằng Giống rồi. Khi tản cư sang Thái Bình, lúc qua đò thằng Giống khóc to, người tản cư đòi bóp chết thằng Giống vì sợ lộ, sợ bọn giặc bắn, tôi ấn vú vào miệng cho nó nín mà.

       Theo như U tôi nói thì tôi phải ra đời trong khoảng 1947 - 1949. Khi đi học vỡ lòng, tôi khai sinh 1950 cho đúng tuổi đi học. Tên tôi ghi trong “tờ khoán” bán cho Đức Thánh Trần là Trần Hùng Triệu, nhưng ai cũng gọi tôi là Giống, lâu rồi không ai nhớ tên chính thức của tôi. Từ khi đi học đến nay, tôi vẫn giữ cái tên Trần Mỹ Giống.

Từ 1950 đến 1952, nhà tôi bị giặc đốt ba lần, vì bố u tôi là cơ sở cách mạng. Năm 1953, bố u tôi tản cư lên Bùi Chu, tiếp tục buôn hàng sắt. Mỗi lần giặc đến nhà bắt người đi phu, đi lính, bố tôi thường nấp trên gác xép. Tôi canh nhà, giặc hỏi thì bảo bố tôi đi lính rồi. Em Gái tôi năm đó hơn 2 tuổi, đẹp như đức mẹ ở nhà thờ thiên chúa giáo. Mỗi khi tôi dắt em tôi đi chơi ở chợ Bùi, ai trông thấy em Gái cũng khen em đẹp như Đức Mẹ đồng trinh và cho anh em tôi quà bánh. Năm ấy có dịch đậu mùa, hai anh em tôi đều mắc bệnh. Tôi qua khỏi, nhưng em Gái không qua được. Ông Cầm đưa thi hài em về chôn ở tha ma cầu Mới. Lâu rồi nên mộ em thất lạc. Cho đến hiện nay, mỗi khi đi đâu qua cầu Mới, tôi lại thầm gọi tên em.

       Hoà bình lập lại, gia đình tôi trở về quê. Bố u tôi hiến đất của tổ tiên cho xã làm nghĩa trang liệt sĩ. Bố tôi và bác Vượng ra mẩu đất mom sông làm nhà. U tôi lần lượt sinh các em Đằng, Giang, Hà, Hải ở đây. Cải cách ruộng đất, nhà tôi được cấp 3 sào ruộng xứ đồng Nam Điền. Bố U tôi vẫn đi bán hàng sắt. U tôi nhờ bác Riễn cùng làng trông nom chúng tôi và cho các em tôi bú mớm. Anh em tôi lớn lên trong sự yêu chiều của U tôi.

       Khoảng năm 1956 cậu Hoà bị giặc bắt đi Lào trốn về được. U tôi nuôi và cưu mang cậu, khi cậu lấy bà Gái thì cho cậu làm nhà ở mẩu vườn trước nhà tôi. Khi còn sống, cậu từng bị địa phương nghi theo địch, bị giam và bị tra tấn gãy răng. U tôi một lòng thăm nuôi cậu. Sau được minh oan, cậu làm đội trưởng sản xuất một thời gian rồi theo nghề làm kẹo bánh. Lúc đã khá giả, cậu mợ mua nhà mới rộng rãi hơn, trả lại đất cho U tôi.

Bác Vượng tôi làm nhà sau lưng nhà tôi. Năm 1968 bác đi khai hoang vùng kinh tế mới ở Yên Thế, rồi về Giao Lạc bây giờ, bác đã bán lại đất cho U tôi. Đất bác ở ngày trước nay bố tôi thừa kế cho chú Đằng làm nhà ở.

      

 

                                 ĐI  HỌC

 

       Hồi bé, tôi là đứa nghịch ngợm. Ba năm đi học vỡ lòng tôi mới được vào lớp một. Năm đầu tôi học cô Nhường, bỏ dở vì tội lén đổ mực ra ghế cô ngồi. Năm sau học chú Bình, tôi bị đuổi học vì tội chửi chú là ông Bình sẹo (thái dương chú có cái sẹo lớn). Năm thứ ba mới học yên ổn vỡ lòng.

       Thuộc xã Xuân Trung, nhưng vì học sinh đông nên bọn trẻ xóm Đông Thành chúng tôi lại được phân bổ học ở Trường cấp I xã Xuân Phương. Tôi còn nhớ thày Hy già rất nhiều lần phạt béo má tôi vì tội tôi nghịch ngợm. Một lần chơi diều tôi bị ngã gẫy tay trái, sợ bố u mắng nên tôi trốn trong đống rơm. Đau quá, tôi lịm đi. Tới khuya vẫn không thấy tôi về, bố tôi đi tìm không thấy tôi, ông hoảng lên. Anh Hữu sợ quá mới nói cho bố tôi biết tình trạng của tôi. Bố tôi bế tôi sang ông lang Cợn người cùng làng, nhờ ông cứu chữa. Ông lang Cợn hỏi tôi toàn chuyện đâu đâu làm tôi không để ý đến tay đau, rồi  bất ngờ ông giật tay tôi thật mạnh. Ông bó tay tôi bằng nẹp tre và bột. Tay tôi sưng tấy lên, đau buốt. Người tôi sốt hầm hập. Nửa đêm, U tôi ngồi bên mép giường, xoa lên tay đau của tôi. Tay U tôi lạnh như đồng làm tôi giảm hẳn đau. U tôi cứ ngồi xoa cho tôi như thế mấy đêm liền. Sau này tôi nói lại chuyện đó, U tôi rất ngạc nhiên. U tôi nói với bố tôi:

- Khéo mẹ già về chăng...

U tôi thường gọi bà vợ cả của bố tôi là mẹ già. U tôi thắp hương khấn vái rì rầm. Bà mẹ cả tôi có tiếng là linh thiêng. Từ lần đánh đòn tôi vì tôi hư, bị bà cả phạt tự đánh vào ngực, u tôi sợ không giám đánh tôi nữa. Lại một lần bố tôi đuổi đánh tôi vì tôi đánh nhau với trẻ con. Hai bố con tôi chạy quanh cái bàn gỗ. Chợt u tôi kêu lên:

      - Có con rắn!

      Tôi và bố tôi đều nhìn thấy con rắn to bằng song cửa sổ đuổi theo bố tôi. Hai bố con tôi nhảy vội lên bàn đứng ôm nhau tránh rắn. Mọi người soi tìm thì lại chẳng thấy rắn đâu. U tôi lại bảo:

      - Khéo mà bà mẹ già về chăng.

       U tôi lại thắp hương khấn bà cả.

       Tôi hay nằm mơ thấy một người đàn bà mặc váy, quấn ruột tượng, đội khăn mỏ quạ đen. U tôi bảo đó chính là hình ảnh của bà cả. Khi tôi ra đời thì bà cả đã mất, làm sao tôi lại mơ thấy bà? Cậu Hoà có lần báng bổ thần phật, tự nhiên đau bụng quằn quại mãi không khỏi. U tôi thắp hương kêu cầu bà cả, rồi nhai lá trầu không nhổ nước xoa vào bụng cậu. Thế mà cậu khỏi ngay. Từ đó cậu không giám coi thường chuyện cúng bái nữa. Bà con làng xóm thường khi gặp việc khó khăn hay ốm đau là lại nhờ u tôi kêu cầu bà cả phù hộ. Sau này được học lên đại học, tôi vẫn không sao giải thích được chuyện tôi chứng kiến kể trên. Tôi xây mộ cho bà cả và không quên thắp hương khấn bà mỗi khi về quê.

Phải gần tháng sau ông lang Cợn mới tháo bột cho tôi. Từ đó tay trái tôi yếu hẳn, không xách được vật nặng.   

Năm lớp 4 tôi học thày Trạch. Thày Trạch hay phạt tội nghịch ngợm của tôi, nhưng lại rất yêu tôi. Ông thường xuyên giao cho tôi chữa bài tập toán thay ông. Nghịch ngợm, nhưng năm nào tôi cũng đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.

          Mùa hè năm lớp 4 lên lớp 5, tôi bị sốt cao liên miên. U tôi mời y sĩ trạm xá xã khám và cho thuốc, tôi uống mãi cũng không khỏi. Hơn tháng trời tôi nằm liệt giường, sống thoi thóp, người chỉ còn da bọc xương. Thấy tôi thất thần, bố u tôi ngồi khóc bên giường. Tôi bay lơ lửng trên kèo nhà, nhìn thấy rõ tất cả. Tôi nghe u tôi bảo bố tôi:

- Ông chuẩn bị quần áo mới cho thằng Giống đi, nó khó mà qua khỏi.

Vừa khi đó, ông Đằng cùng xóm đi làm ăn xa về qua, nghe tiếng bố u tôi khóc, ông liền vào hỏi han và xem xét người tôi. Ông bảo:

       - Đậu lào đây mà. Thuốc chữa sao khỏi. Cho tôi cái kim và cái dao bào.

Ông Đằng dùng củ nghệ kỳ vào cổ, lưng và ngực tôi. Từng vốc ghét như đầu bút chì từ người tôi rơi xuống chiếu. Ông lấy kim khêu thịt ở cổ tôi, cắt bằng dao bào nghe tanh tách. Ông khêu và cắt thịt hết ở cổ, lại đến ngực và lưng tôi. Tôi chợt thấy đau nhói khi ông cắt thịt ở lưng liền kêu to lên. Ông Đằng vui vẻ bảo:

- Sống rồi.

Đến chiều thì tôi gần như hết sốt. Đến tối tôi đòi ăn. Ba ngày sau tôi đã đi lại được bình thường. Bố u tôi đem thúng gạo tám biếu trả ơn ông Đằng.

       Bọn trẻ xóm tôi thường tập trung ở sân chung của xóm, nơi dùng để hội họp làng. Tối tối chúng tôi chơi trò “mô đầu” làm náo loạn cả xóm. Chúng tôi chia làm hai phe, rồi xông vào nhau, cứ ai đập tay được vào đầu đối phương là “diệt một địch”. Ai bị “chết” phải ra khỏi cuộc chơi mà... nhìn bọn bạn chiến đấu. Ban ngày chúng tôi chơi trò đánh khăng, đánh đáo, đánh vành xe, chơi bi. Những trò chơi của chúng tôi ngày xưa, bây giờ không thấy trẻ con chơi nữa. Thường các chiều hè, chúng tôi tắm tập thể, thi bơi, thi lặn, thi nhảy cầu trên con sông làng. Cây cầu gỗ xóm tôi có tên là Cầu Trường vì ngày trước ở đó có trường học chữ nho. Cây cầu đó là nơi tụ tập, ngồi hóng mát của trẻ con. Những đêm trăng sáng, tôi thường ngồi trên cầu thổi sáo tới khuya.

Chúng tôi là trẻ con nghèo, áo quần thiếu thốn, vá víu, lại luôn đói bụng. Chúng tôi bày trò ăn trộm chuối xanh, mít, cam... của hàng xóm, rấm trong các đống rơm rạ, khi trái cây chín thì tổ chức liên hoan. Một chiều 30 tết, u tôi phát hiện ra tôi ăn trộm chuối xanh rấm trong đít voi sành ở nghĩa trang liệt sĩ, bà chửi tôi một trận nên thân. Từ đó tôi cạch, không bao giờ giám theo bạn đi ăn trộm nữa.

       Lên cấp hai, cả lũ trẻ Xuân Trung đều học ở Xuân Phương, vì khi đó Xuân Trung chưa có trường cấp hai. Năm lớp 6, tôi gửi hai bài thơ dự thi cuộc thi thơ của trường tổ chức, đoạt giải nhì. Đài truyền thanh huyện đưa tin mấy lần nhắc đến tên tôi, tôi sinh ra kiêu, và cứ tưởng mình thành nhà thơ đến nơi rồi. Tối tối, tôi mang chiếu manh ra đường nằm nghe loa truyền thanh xã Xuân Phương, chờ nghe buổi tiếng thơ, rồi làm thơ khoe bạn bè. Tôi học vào loại đầu lớp, nhất là môn văn. Các thày cô giáo đều yêu quý tôi.

       Năm tôi học lớp 7, cái Nụ, bạn cùng lớp tự nhiên tâm thần, luôn mồm nói yêu tôi. Người nhà phải cùm chân Nụ để nó không trèo cây nhảy xuống đất. Bà ngoại Nụ sang tìm tôi, thí thỏn đưa tôi về... “xem cái Nụ có khỏi bệnh không”. Trông thấy tôi, Nụ tỉnh như người bình thường, không nói. Tôi về rồi, Nụ lại lên cơn điên. Người nhà đưa Nụ đi Hà Nội chạy chữa. Khi khỏi bệnh, Nụ đi vùng kinh tế, rồi lấy chồng, có con. Từ ngày ấy, tôi chưa một lần gặp lại Nụ.  

       Ngày học cấp hai tôi chơi với các bạn Xuân Phương thân hơn các bạn Xuân Trung, vì tôi học ở Xuân Phương từ nhỏ. Tôi thân nhất chị Khổng Thị Oanh, và Huệ. Chị Oanh rất giỏi văn. Năm lớp 6 chị đạt giải nhất cuộc thi thơ của trường cấp hai Xuân Phương. Tôi thường sang chơi ở nhà chị và Huệ tới khuya. Cuối năm lớp 7, không hiểu sao Huệ tránh mặt tôi, rồi đi trung cấp, lấy chồng và ở Nam Định. Năm 2002 tình cờ gặp Huệ, tôi mới biết lý do Huệ tránh tôi là do có mảnh giấy ai đó dán vào cửa nhà Huệ viết “Nếu mày yêu thằng Giống thì tao giết chết”. Tôi không hề biết chuyện này. Tôi dò hỏi bạn bè ngày ấy nhưng không tìm ra thủ phạm. Đúng là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Tuổi học trò chúng tôi nghịch lắm.

       Thân nhất trong số bạn trai của tôi là Trần Hùng Cưu, cùng xóm. Gia đình Cưu bị quy địa chủ, bị tịch thu tài sản. Cưu thường phải nhịn ăn đi học. Tôi thương bạn, sáng nào cũng dậy sớm nấu cơm, rồi nắm một nắm cơm to giấu vào cặp mang cho Cưu ăn. Sợ bố u biết, tôi xới cơm lồng phồng lên cho đầy nồi. U tôi biết, nhưng bà lờ đi như không biết gì. Bà thường nhờ Cưu khi thì quét tước, lúc bổ củi giúp, rồi giữ Cưu cùng ăn cơm với cả nhà. Năm tôi vào cấp ba thì Cưu đi bộ đội. Năm 1969 tôi trọ học ở Đình Bảng (Bắc Ninh), một buổi trưa ngủ mơ thấy Cưu đứng trước mặt tôi nói “Tao chết rồi”. Tỉnh dậy tôi còn bàng hoàng. Mấy năm sau mới có giấy báo tử của Cưu gửi về địa phương kèm thông báo Cưu được truy tặng Huân chương chiến công.

       Cùng học cấp hai với tôi có chị Liên, người cùng xã. Tôi và chị rất quý nhau. Chị nhận tôi là em kết nghĩa. Bố chị là ông địa chủ Khuyến, bị bắn hồi cải cách. Bố tôi vốn có thời đi ở và làm thuê cho ông Khuyến. Hôm chính quyền xã tổ chức đấu tố ông Khuyến, đội cải cách cứ yêu cầu bố tôi lên đấu tố ông. Bố tôi kiên quyết không nghe. Ông nói:

       - Ngày ấy không có địa chủ Khuyến thì không biết tôi có còn sống không. Nhờ ông Khuyến mà tôi có việc làm, có cái ăn mà sống đến giờ. Người ta cứ tố điêu cho ông. Tôi không thể làm việc thất đức như vậy.

       Quả nhiên sau đó có công văn của tỉnh gửi về ân xá cho ông Khuyến. Tiếc là công văn về không kịp.

       Từ khi lên cấp ba, chúng tôi phải học ở Xuân Thuỷ, cách nhà tôi tới 6 km. Sáng sáng bọn trẻ Đông Thành tập trung ở nhà tôi, khi đủ mặt mới đi bộ tới lớp. Dì Ngát, dì Tý, Loan, Ngọc, Thuý là 5 cô gái học với tôi suốt ba năm cấp ba. Bọn con trai có Nghĩa gù, Chiến béo, Bũng, Phái, Giác, Tuấn, Hiếu, Đỗ Tý. Hết  năm lớp 8 thì Chiến đi bộ đội, sau chuyển ngành làm cán bộ tổ chức Bệnh viện Giao Thuỷ. Giác hy sinh ở miền Nam. Hết lớp 10 thì Tuấn, Hiếu đi làm ở xưởng đóng tàu thuyền Nam Định. Hiện nay Hiếu về quê nuôi gà công nghiệp. Tuấn mất vì bệnh ung thư. Bũng đi bộ đội, rồi chuyển ngành về Xuân Thuỷ. Bũng từng giữ chức Phó chủ tịch huyện Xuân Trường. Phái đi bộ đội, đóng lon Trung tá thì mất vì ung thư. Nghĩa học xong Tổng hợp văn thì về Viện Ngôn ngữ, rồi đỗ Tiến sĩ, lấy vợ Hà Nội. Đỗ Tý vào Đại học Bách khoa, ra trường làm tới Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty cơ khí xây dựng Hà Nội. Vợ Tý là Hà cùng học cấp ba, nguyên kỹ sư nông nghiệp Sở Nông nghiệp Nam Định nghỉ hưu sớm theo chồng về Hà Nội. Năm 2015 Tý mất đột ngột. Tôi vào Đại học thư viện. Dì Tý,  dì Ngát tôi và Loan, Ngọc đều vào Sư phạm, đi dạy học. Dì Tý dạy Địa lý cấp ba Giao Thuỷ, dì Ngát dạy cấp hai Nam Điền (Nam Trực), Loan dạy văn cấp ba Xuân Trường B, Ngọc dạy văn cấp ba Hải Hậu A. Riêng Thuý đi Đại học nông nghiệp, ra trường đi miền núi mãi sau mới chuyển về được Giao Thuỷ.

       Ngoài số bạn học cùng xã, tôi còn chơi thân với Đường (Xuân Nghĩa), Hiểu, Hà (Xuân Kiên). Vì bố là địa chủ nên Đường không được đi đại học, ở nhà làm ruộng. Hiểu học xong lớp 10 cũng ở nhà làm nghề thợ mộc. Hà đi đại học nông nghiệp về công tác ở Sở Nông nghiệp Nam Định, rồi lấy Đỗ Tý.

       Năm lớp 10, tôi được chọn vào đội tuyển giỏi văn của trường. Các vòng thi từ trường, miền tới vòng sơ tuyển cấp tỉnh, tôi đều đứng thứ nhất, thứ nhì. Đến vòng chung khảo tỉnh thì tôi bị loại vì đề văn hỏi về văn học dân gian, chúng tôi chưa được thày dạy văn bồi dưỡng. Thày dạy văn tôi là thày Bùi Hoàng Kim. Ông thuộc dạng người sống thiên về nội tâm, giàu tình cảm. Ông thường hay đi thăm các gia đình học sinh và sống chan hoà, giản dị. Chúng tôi rất quý ông còn vì ông yêu văn nghệ. Ông thường chủ trì các tiết mục của lớp tôi dự thi với trường. Ông khen tôi thổi sáo khá hay. Trong học bạ của tôi ông còn ghi rõ là “Có năng khiếu sáo trúc”. Năm 1967 ông dẫn tôi cùng đoàn văn nghệ của trường đi Hội diễn văn nghệ do Ty giáo dục tổ chức ở Lý Nhân. Tiết mục sáo trúc của tôi được giấy khen. Năm 1998, ông mất ở Nam Định.

       Năm lớp 10, chúng tôi phải trọ học ở Xuân Thuỷ. Tôi và Đỗ Tý trọ chung nhà. Hàng tuần chúng tôi về nhà lấy gạo, củi đưa lên nơi trọ. Có lần u tôi đội bó rơm lớn, tay dắt cô Hà lên chơi với tôi. Mỗi tuần u tôi cho tôi 6 bơ gạo (khoảng 4 - 5 kg). Củi và thức ăn mặn mang ở nhà đi dùng cả tuần. Chúng tôi chỉ phải mua rau hàng ngày. Một bận về đột xuất, bắt gặp cả nhà tôi ăn độn toàn củ chóc và khoai, tôi giật mình. Hoá ra tôi vô tâm nhận sự quan tâm hết lòng của u tôi. Dì Mùi bảo nhỏ cho tôi biết là cán bộ phòng thuế tịch thu gánh hàng sắt của nhà tôi vì bố U tôi trốn thuế. Bố tôi phải bỏ đi than tàng kiếm sống cả năm trời. Đỗ Tý bàn với tôi, mỗi tuần mỗi người chỉ ăn ba bơ gạo, để giảm bớt gánh nặng cho u tôi.

       Năm 1968, chúng tôi thi tốt nghiệp, đề lịch sử coi như không tính vì đề ra có vấn đề. Tý và tôi đều là học sinh giỏi nên cả hai được nhà trường cho làm lý lịch xét đi học nước ngoài. Tý là con gia đình liệt sĩ nên xã cho đủ hai lý lịch và đồng ý cho đi nước ngoài. Tôi bị ông Vinh phó chủ tịch xã phê vào lý lịch là “Mẹ buôn gian bán lậu, gia đình chưa có ai tham gia bộ đội nên không đồng ý cho đi đại học”. Năm ấy nhà nước ta xét tuyển đại học mà không tổ chức thi. Khi có kết quả thi tốt nghiệp thì Tý bị điểm toán thấp nên phải học trong nước. Người ta xếp Tý vào Đại học Bách khoa. Tôi toàn điểm 4 và 5 nhưng lại không được chính quyền đồng ý cho đi học nước ngoài. Ngày ấy chủ nghĩa lý lịch còn nặng nề lắm. Chờ đến hết tháng 10 - 1968 mà chẳng thấy được gọi đi học trường nào, tôi buồn rũ rượi. Bố tôi đạp xe 60 cây số lên tận Lý Nhân (nơi cơ quan tỉnh sơ tán bấy giờ) tìm gặp ông anh vợ (anh bà vợ cả của bố tôi) là bác Lê Văn Lễ làm Phó ty Văn hoá nhờ giúp đỡ. Bác Lễ sang hỏi ban tuyển sinh. Cán bộ ban tuyển sinh nể bác nhưng tìm mãi không thấy tên tôi ở trường nào, họ mới lục tìm trong đống hồ sơ không cho đi học thì thấy hồ sơ của tôi. Nhờ chuyện này mà bố tôi biết xã phê lý lịch cho tôi như kể trên. Bác Lễ đảm bảo lý lịch nhà tôi là thành phần tốt và đề nghị Ban tuyển sinh xắp xếp cho tôi đi học. Người ở Ban tuyển sinh bảo chỉ còn Đại học nông nghiệp và Cao đẳng thư viện là đang tuyển người. Bác Lễ quyết định cho tôi đi học thư viện. Sự kiện này quyết định cuộc đời tôi gắn bó với nghề thư viện sau này. Bác Lễ hứa khi tôi học xong sẽ nhận tôi về làm việc với bác. Nhưng tôi phải bỏ dở học để đi bộ đội. Hơn chục năm sau tôi mới chuyển ngành về Hà Nam Ninh thì bác Lễ đã nghỉ hưu và mất.

       Tháng 11 - 1968, có giấy gọi tôi nhập học. U tôi chạy vạy vất vả để lo cho tôi có các tư trang cần thiết. Hồi ấy, tôi chưa từng có một cái quần Tây và áo sơ mi trắng. Ba bộ quần áo cũ của tôi đều là quần giải rút, áo tứ thân nhuộm nâu. Năm ấy Trần Phú Câu là bạn học cùng xóm có lệnh đi bộ đội, Câu đã nhượng lại cho tôi cái quần Tây cạp liền ka ki với giá rẻ. Tôi mừng như bắt được vàng. U tôi mua thêm cho tôi cái mũ lá. Thế là đủ tư trang nhập học. Nhân có xe com măng ca của ông Việt Hùng - người cùng thôn làm Cục trưởng cục đường bộ về chơi, U con tôi xin đi nhờ lên Hà Nội. Ngày ấy đường xá đâu có tốt như bây giờ, phương tiện giao thông lại vô cùng khó khăn, nên được ông Việt Hùng đồng ý cho đi nhờ, U con tôi mừng lắm. Xe xuất phát từ 6 giờ chiều, mãi nửa đêm mới tới Hà Nội. Tôi say xe lả lướt, nôn suốt dọc đường. Ông Việt Hùng nhiệt tình giữ u con tôi nghỉ lại nhà ông. Sáng hôm sau, từ tinh mơ, u con tôi đã đi bộ ra bến Nứa, định đi ô tô sang Yên Viên bắt tàu hoả đi Bắc Giang, nhưng xếp hàng tới chiều vẫn không mua được vé xe, u con tôi quyết định đi bộ 12 km sang ga Yên Viên. Tại ga Yên Viên, u con tôi xếp hàng mất hai ngày mới mua được vé đi Bắc Giang. Trong khi chờ tàu ở Yên Viên, tôi gặp chị Yến (người Nam Trực), Toàn, Yến, Chơi và cái Vinh (người Thái Bình) cùng vào đại học thư viện với tôi. Thằng Toàn ít hơn tôi một tuổi, có bố dẫn đi, trông nó như trẻ con. Chúng tôi nhập hội với nhau cùng đi Bắc Giang. Tới ga Bắc Giang, trời vừa sáng. Cả bọn lại dắt díu đi bộ dọc theo đê sông Thương, gần 20 km mới tới Hồng Phong, Yên Dũng - Nơi trường thư viện sơ tán. Chúng tôi được cán bộ nhà trường bố trí ở khu nhà khách, chờ phân bổ vào ở nhờ nhà dân. Sáng hôm sau, U tôi  cùng một số phụ huynh khác đi bộ ra ga Bắc Giang về quê. U tôi dặn dò tôi từng ly từng tý, rồi dúi cho tôi 70 đồng. Bấy giờ 70 đồng là số tiền không nhỏ, hơn cả tháng lương của trưởng phòng cấp huyện. U tôi về rồi, tôi buồn ngơ ngẩn.

       Tôi được phân công cùng Châu (người Thanh Hoá) và Bút (thành phố Nam Định) ở nhờ nhà bác Phong. Hai vợ chồng bác đông con nên nhà rất nghèo. Ngôi nhà của bác lợp lá lúp xúp trên sườn đồi bạch đàn. Ba thằng chúng tôi ngủ chung một chõng tre, cùng một tổ học tập. Châu giọng trọ trẹ, tính thẳng thắn, không biết cách nói khéo, tính lại chi li vì Châu đã lấy vợ nên phải lo kinh tế gia đình. Tôi chưa có kinh nghiệm sống nên không thích Châu. Trái lại với Châu, Bút rất khéo nói, phong cách hào hoa kiểu thành thị nên tôi rất thân với Bút. Hai chúng tôi như hình với bóng, ăn chung, tiêu tiền chung, ngủ chung, dùng chung va li. Còn Châu thì một mình thui thủi, lặng lẽ. Sau này ra công tác, khi biết tin Châu mất đột ngột ở Thanh Hoá, tôi cứ ân hận mãi về sự lạnh nhạt của mình với Châu trong năm học thứ nhất.

       Tháng đầu tiên nhập học, chúng tôi lao động xây dựng trường. Ngày hai bữa trưa và tối, chúng tôi luân phiên nhau trực nhật: đi lấy cơm cho cả tổ, ngày chủ nhật giúp nhà bếp nấu cơm. Đang ăn sáng và trưa, lại được ăn no, giờ ăn trưa và tối, lại chỉ có một nắm mì hấp và lưng bát cơm, tôi luôn trong tình trạng đói. Có hôm trực nhật gánh cơm qua đồi bị ngã, lại phải nhịn ăn. Tôi và Bút ăn quà hàng ngày. Lúc đầu chỉ có 1 hào 1 quả trứng, sau tăng giá lên ba hào. Bọn học sinh tức khí, nửa đêm ra đốt quán của mấy người hàng quà. Tính tôi hào phóng, sau một tháng bao bạn bè ăn quà hết cả 70 đồng u tôi cho. Thương bọn học sinh đói, bác Phong thường nấu cơm độn thêm nhiều sắn mời chúng tôi ăn.

       Lớp tôi có 30 nam, 30 nữ. Tuy cũng bè phái, cũng có lúc giận nhau, nhưng bao trùm tất cả là rất yêu quý nhau. Bút rất thích Hải vì Hải xinh gái nhất nhì lớp. Tôi thường viết thư, làm thơ hộ Bút gửi tán Hải. Một lần sau khi đọc bài thơ tôi viết hộ Bút gửi tỏ tình với Hải, ví Hải như hoa, Hải đã trả lời Bút bằng một bài thơ lục bát, đại ý nói mình là hoa hồng đầy hương sắc và kiêu hãnh chứ đâu phải loại hoa muống vô vị, đừng có động vào mà gai đâm chảy máu tay.

          Năm 1983 tôi chuyển ngành về Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh. Khi đó Hải và Bút đã lấy nhau và đã có hai con. Một lần sang thăm Thư viện Nam Định, cậu Toàn phó giám đốc Thư viện Thái Bình, bạn học cùng lớp đùa hỏi Hải:

- Bây giờ bà có còn là hoa hồng nữa không?

Hải cười:

          - Tôi ra hoa muống rồi.

       Trong số bạn nữ ở lớp có mấy người tỏ ra thích tôi, nhưng tôi lại chỉ thích có mình Khế. Hồi ấy, Khế gầy và xanh xao ốm yếu. Gặp Khế lần đầu, tôi linh cảm cuộc đời mình sẽ gắn bó với Khế. Chúng tôi bắt đầu gần gũi nhau, đi chơi với nhau thường xuyên hơn. Sau một tháng lao động, tôi đã quyết định ngỏ lời yêu với Khế. Và thế là hai chúng tôi chìm đắm trong hạnh phúc và chịu bao thiệt thòi đau khổ. Chuyện yêu nhau, tôi chẳng hề che giấu ai. Cô Nga chủ nhiệm lớp gọi tôi lên gặp và ra điều kiện:

       - Nếu cậu muốn học, thì thôi yêu. Nếu còn yêu đương vi phạm kỷ luật nhà trường thì sẽ bị đuổi học.

       Tôi cãi lại cô:

       - Em không thấy có luật nào nhà nước cấm chúng em yêu đương. Cô muốn đuổi thì đuổi, em không thể không yêu.  

       Cô Nga chỉ còn biết lắc đầu thất vọng. Cô chỉ đạo lớp họp hai tối liền để kiểm điểm chúng tôi. Các vị cán bộ lớp, phân đoàn trưởng, Ban chấp hành chi đoàn, tổ trưởng học tập được quán triệt tư tưởng trước, đã thi nhau phân tích “tác hại của chuyện yêu đương” và thiên về đổ lỗi cho tôi. Khế thẳng thắn tuyên bố:

              - Tôi yêu anh Giống. Cảm ơn các đồng chí đã nói hộ tôi lời yêu.

       Tôi như được tiếp thêm sức mạnh và quyết học giỏi để... cho bọn nó biết mặt. Ý nghĩ sẽ sống trọn đời với Khế càng rõ rệt trong đầu. Kết quả là ba năm tôi bị hạnh kiểm D và C. Vì thế, dù tôi toàn điểm khá giỏi nhưng vẫn không được công nhận là học sinh tiên tiến. Sau này, dở năm thứ tư, khi tôi đi bộ đội, cái án hạnh kiểm C mới được xoá bỏ. Chuyện tiên phong phá vỡ kỷ luật nhà trường của chúng tôi thành chuyện xôn xao cả trường. Tôi hay làm thơ tặng Khế, thơ bị lọt ra ngoài, nhiều người thuộc và còn nhớ đến bây giờ. Khi đã là ông, là bà, gặp nhau, bạn bè nhắc lại chuyện xưa của chúng tôi như là một kỷ niệm đẹp. Lê Thanh Tình - Hiệu phó Đại học Văn hóa, một lần về Nam Định công tác đã đến thăm tôi. Ôn lại chuyện ngày xưa, Tình đọc câu thơ của tôi:

       - …“Tên chua như Khế thế mà vẫn say”…

       Tôi và chị Yến (người Nam Trực) kết nghĩa chị em với nhau. Khi chị về nhà tôi chơi, thấy chị ăn mặc xuềnh xoàng, U tôi mua tặng chị hai mét vải may áo. Tình cảm của chị và tôi ngày càng thân thiết. Tôi thực sự quý chị như em trai quý chị gái. Một buổi sáng, từ tinh mơ, Khế hớt hải báo tin cho tôi biết:

- Chị Yến làm sao ấy. Chị cứ chửi em cướp em trai của chị ấy. Anh đến ngay xem sao.

         Tôi hoang mang theo chân Khế tới nhà trọ của Khế và chị Yến. Vào nhà, thấy chị Yến phờ phạc, xanh xao, đang ngồi bó gối trên giường, ánh mắt thất thần, tôi lặng lẽ ngồi xuống bên chị. Chị ôm chặt tôi vào lòng, miệng cứ lầm bầm “em yêu của chị”. Tôi chỉ biết ngồi im trước sự ngạc nhiên của những người xung quanh. Lúc sau chị Yến mới nằm xuống nghỉ. Các bạn cùng lớp đưa chị Yến đi bệnh xá. Sau gần một tháng nằm bệnh xá, chị Yến khỏi tâm thần. Cậu Yến người Thái Bình tỏ tình với chị. Chị nhận yêu Yến. Nhưng thằng Yến chỉ lợi dụng chị mà không thực sự yêu chị. Đến mãi sau này, khi gặp lại thằng Yến đã là Phó Giám đốc Sở Văn hoá Thái Bình, tôi vẫn còn ghét nó. Chị Yến về công tác ở Thanh Hoá, lấy chồng ở đó. Năm 1985, tôi chuyển ngành về công tác tại thư viện Hà Nam Ninh.  Một lần đi công tác ở Thanh Hoá tôi đã đến thăm chị. Gặp tôi, chị mừng rỡ như chị gái gặp em trai ruột vậy. Chị kêu các con chị gọi tôi là cậu. Thấy áo đại cán của tôi có cái cúc sắp đứt, chị bắt tôi đưa chị đơm lại. Cử chỉ âu yếm của chị làm tôi cảm động. Tôi cảm nhận được tình cảm chân thành của chị. Dịp về thăm quê, chị tạt qua thành phố Nam Định thăm vợ chồng tôi. Chị cứ thương vợ chồng tôi túng bấn. Chị để mấy bơ gạo nếp cho các con tôi. Chắc là gạo các cụ ở quê  cho chị.

       Vợ chồng bác Phong chủ nhà tôi trọ rất quý tôi và Khế. Hai bác thường vun vào cho hạnh phúc của chúng tôi. Tôi thực lòng biết ơn hai bác. Lần về thăm nhà đầu tiên, tôi nghĩ mãi không biết mua gì làm quà cho hai bác. U tôi mua đôi chiếu cói đẹp, bảo: “Vùng núi thì chiếu cói là quý”. Quả nhiên, hai bác rất mừng khi nhận đôi chiếu tôi biếu. Thấy hai bác vui, tôi cũng vui lắm. Hoá ra, đem lại niềm vui cho người khác thì mình cũng hạnh phúc thật.

       Hết năm thứ nhất, chúng tôi chuyển trường về thôn Long Vĩ, làng Đình Bảng thuộc Bắc Ninh. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp gặp lại bác Phong, nhưng tôi vẫn nhớ về hai bác.

       Năm 1969, Cường người Nam Định và Đê người Hải Dương trúng bộ đội. Tôi không trúng tuyển bộ đội đợt này vì chỉ nặng có 38 kg. Sau này tôi có gặp Đê ở chiến trường Quảng Trị trên đường hành quân. Khi tôi chuyển ngành về trường thì Đê cũng ra quân, học tiếp và về công tác ở Hải Dương một thời gian rồi về hưu non. Còn Cường thì chỉ nghe nói ra quân công tác ở thư viện huyện Mỹ Lộc (Nam Định) mấy năm rồi theo vợ vào Nam.

       Bố tôi nghe tin tôi có thể phải đi bộ đội, ông đã đi bằng xe đạp từ nhà lên Hà Đông tìm gặp anh Tuất con bác Liêm đang công tác ở nhà máy cơ khí, rủ anh cùng sang Bắc Ninh thăm tôi. U tôi gửi cho tôi bánh quà, bắt bố tôi mang theo cả hai con gà nữa. Được biết chắc chắn tôi không đắt bộ đội, bố tôi mới yên tâm đạp xe về. Ngày tôi trả phép năm thứ nhất, bố tôi đèo tôi bằng cái xe đạp trâu Liên Xô lên Nam Định, rồi đi tàu hoả lên Hà Nội. Từ Hà Nội bố tôi lại chở tôi bằng xe đạp lên tận Yên Dũng.

       Sang năm thứ hai, lớp tôi rộ lên phong trào yêu đương. Cậu Trần Lý yêu Xuyên, anh Phan Tứ yêu Hoàng Lý, Bổng yêu Vinh, Tình yêu Thành... Các đôi yêu nhau ngày ấy, có đôi thành công, có đôi không thành. Các đôi đã cưới được nhau như vợ chồng tôi là Tứ - Lý, Trẩm - Lan, Bút – Hải, Bổng - Vinh. Cũng như tôi ngày ấy, các đôi lần lượt được đưa ra toà án lớp xét xử. Trong các buổi kiểm điểm tôi không phát biểu gì. Những người phát biểu không còn cái hăng hái như ngày kiểm điểm tôi và Khế, vì họ là sinh viên thường. Những người bị kiểm điểm lúc này lại toàn là cán bộ lớp, cán bộ đoàn đã từng chỉ trích tôi gay gắt trước đây. Tuy vẫn bị hạnh kiểm xấu, nhưng chẳng ai coi chuyện yêu đương là đáng trách cả. Dư luận nhà trường gọi lớp tôi là lớp “K xấu” thay vì phải gọi đúng tên là K6. Vợ chồng tôi thành những kẻ tiên phong “tử vì đạo” và được công nhận là đôi chung thuỷ và hạnh phúc nhất lớp.

       Các đôi yêu nhau chúng tôi bày trò nấu ăn chung. Từng đôi sinh hoạt ăn uống như một gia đình riêng. Một lần anh Tứ rủ chúng tôi đi ăn trộm phên nứa che gạch của hợp tác xã về làm củi đun. Bị nhân dân phát hiện, nhà trường kỷ luật, anh Tứ nhận hết tội về mình. Khi tôi đi bộ đội, anh Tứ được hoãn. Anh cho tôi địa chỉ bà chị ở 35 Đinh Tiên Hoàng, thị xã Ninh Bình để khi tôi cần giúp đỡ thì tìm tới. Sau này tôi về công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh, anh Tứ có dịp đi công tác Thái Bình đã tạt qua thăm vợ chồng tôi. Anh Tứ từng là cán bộ phong trào Sở Văn hóa Hà Nội, chuyển làm Giám đốc Quốc Tử Giám Hà Nội thay anh Lộc (cán bộ Thư viện Hà Nam Ninh chuyển công tác lên Hà Nội) nghỉ hưu. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Hơn bốn mươi năm ngoảnh lại lớp Đại học ngày ấy, các bạn Lê Thanh Tình, Trẩm, Châu, Khải, Yến, Lý, Hiền,… đã thành người thiên cổ.

       Năm 1970 chúng tôi về Hà Nội. Năm học thứ ba qua đi với tôi vẫn cái án hạnh kiểm xấu và không được tiên tiến dù toàn điểm khá giỏi. Tôi cũng lo ra công tác sẽ gặp khó khăn vì hạnh kiểm kém, nhưng rồi tôi lại cho qua tất cả vì luôn tự tin là mình không sai trái. Sang năm thứ tư, thi kết thúc 8 môn học cuối cùng, có ba người đạt điểm vượt xa so với cả lớp là chị Liễu 65 điểm, anh Chương và tôi đều 63 điểm. Hầu hết còn lại đạt trên dưới 40, 50 điểm. Tôi hy vọng với điểm cao như thế hẳn sẽ có tương lai. Nhưng chưa kịp vào thời gian thực tập thì tôi trúng bộ đội, và vì thế không được cấp bằng đặc cách như bọn bạn đi bộ đội sau tôi ba tháng. Sự kiện đi bộ đội là bước ngoặt lịch sử làm thay đổi toàn diện con người tôi và cuộc đời tôi.  

 

 

 “GÁC BÚT NGHIÊN THEO VIỆC BINH ĐAO”

 

       Thế là sau ba lần khám tuyển, mặc dù chỉ nặng có 39 kg và 3 lạng, bác sĩ khám tuyển ghi tròn là 40 kg, tôi trúng bộ đội. Những năm 1970 - 1972 đi bộ đội vào Nam chiến đấu rất ít hy vọng có ngày trở về, vì cuộc chiến vào hồi ác liệt chưa từng thấy. Tôi không thấy vui, cũng chẳng buồn đến rã rời như một số người khác cùng trúng bộ đội đợt này. Đối với tôi, đi bộ đội như là một việc tất nhiên phải thế.

       Lớp K6 Đại học Thư viện năm thứ 4 chúng tôi có cả chục người được gọi nhập ngũ đợt này, nhưng cuối cùng chỉ ba người nhận nhiệm vụ. Đó là Nguyễn Văn Thị, quê Hưng Yên, rất giỏi tiếng Nga, người nhỏ thó. Thị bị thương trên đường tiến vào Quảng Trị, phải ra Bắc rồi về học tiếp. Sau Thị làm Giám đốc Thư viện tỉnh Hưng Yên, rồi đi xuất khẩu lao động, về nước học thạc sĩ thư viện, lại làm giám đốc thư viện và nghỉ hưu. Người thứ hai là Nguyễn Văn Đủ, quê Thái Bình. Đủ hiền lành, tốt tính. Đủ bị thương ở Ái Tử (Quảng Trị), ra Bắc học lại rồi về Thư viện tỉnh Thái Bình. Là thương binh, bí thư chi bộ, nhưng bị người ta kèn cựa vùi dập, Đủ phải bỏ nghề về quê. Người thứ ba là tôi, kẻ được bạn bè quen gọi là “Giống còm”, từng ba năm liền bị hạnh kiểm D hoặc C và không được công nhận là Học sinh tiên tiến mặc dù điểm thi và kiểm tra các môn toàn khá giỏi, chỉ vì cái tội yêu đương. Chỉ khi tôi có lệnh nhập ngũ, cái án hạnh kiểm D dành cho tội yêu đương mới được xóa bỏ.

       Số người trong danh sách phải đi bộ đội cùng đợt với tôi còn lại đã được hoãn, miễn với các lý do thật xác đáng: người có điện bố chết, kẻ có giấy của y sĩ chứng nhận là liệt dương, đứa hạnh phúc tan vỡ vì kẻ ở người đi...
       Cả trường có 10 người lên đường. Ngoài ba thằng K6 chúng tôi, còn có Đặng Hoàng Song (K5), Lê Văn Thạch (K7), Cúc quê Đình Bảng (Bắc Ninh) lớp trung cấp thư viện 4, Bảo, Dũng, Hậu lớp trung cấp văn hoá quần chúng, và một cậu nữa tôi không nhớ tên. Khi vào chiến trường, Đặng Hoàng Song được điều xuống đơn vị chiến đấu và hy sinh. Lê Văn Thạch được đề bạt Trung đội phó Trung đội vận tải. Mấy tháng sau có tin Thạch bị kỷ luật cho ra Bắc, học tiếp đại học. Cúc vào chiến trường, đột ngột có lệnh ra Bắc. Sau này khi về học tiếp đại học, tôi nghe nói cả nhà Cúc bị bom chết hết. Cúc ra Bắc về Đoàn quân nhạc thổi kèn. Sau Cúc xuất ngũ và lấy vợ ở quê... Số bạn cùng trường đi bộ đội với tôi còn lại đến nay tôi không được tin gì.

       Đêm 5 - 9 - 1971 trường tổ chức liên hoan tiễn chúng tôi. Mọi người phát biểu cảm tưởng và hứa hẹn với những lời có cánh. Đến lượt tôi, tôi chỉ nói một câu:

       - Tôi đi chiến đấu, dù chết cũng không đảo ngũ.

       Lời phát biểu cộc lốc của tôi làm mọi người bất ngờ. Tôi nhận được nhiều ánh mắt đồng cảm của bạn bè và của cả những người tôi chưa từng quen biết. Một vị khách tự nguyện đến đưa tiễn chúng tôi là chồng chị Dung cùng lớp tôi, phát biểu :

       - ... Chúc Giống lập nhiều chiến công, viết lên những trang anh hùng ca. Và Khế sẽ là người giới thiệu những trang anh hùng ca ấy...

         Không ngờ lời nói văn hoa bay bướm của anh làm tôi bị ám ảnh suốt những ngày chiến đấu ở Quảng Trị sau này. Có lẽ một phần nhờ câu nói đó mà tôi không có gan hèn nhát.

       Cuộc liên hoan chia tay chúng tôi kéo dài đến khuya. Không ai muốn ra về trước. Sau buổi liên hoan, các chàng lính tương lai rủ nhau mang sách vở ra đốt. Chẳng hiểu sao ngày ấy chúng tôi lại làm thế. Có người bảo đốt sách để tỏ rõ quyết tâm đi chiến đấu. Tôi không nghĩ được như thế, thấy bạn rủ đốt thì đốt thôi. Thấy chúng tôi đốt sách, anh Hoàng Chương cùng lớp tôi xin lại tất cả vở ghi của tôi. Anh bảo vở của tôi ghi rất đầy đủ và đẹp, còn của anh thì ghi chẳng đâu vào đâu. (Lạ thật, tôi được mệnh danh là “vua ngủ gật” trên lớp mà vở lại ghi đủ và đẹp?). Tôi đi bộ đội thì không cần đến nữa, nhưng anh thì cần. Tôi tặng anh tất cả sách vở chưa kịp đốt của mình. Sau này, khi tôi rời quân ngũ về trường học tiếp, anh Chương đã là giảng viên dạy Mỹ học.

       Đêm ấy, chúng tôi thức trắng. Khế lặng lẽ ngồi bên tôi, tranh thủ khâu cho tôi cái túi đựng đồ đánh răng. Tôi tiếc là không được học hết đại học, nhưng biết làm sao, trai thời loạn mà. Nghĩ đến những tháng năm tới phải xa Khế, tôi nôn nao trong lòng. Nói dại, nếu tôi không trở về được, Khế sẽ ra sao? Dường như hiểu những suy nghĩ của tôi, Khế thì thầm:

       - Dù anh có làm sao thì em vẫn yêu, vẫn đợi.

       Tôi ôm xiết Khế vào lòng, cảm nhận rõ hơi ấm và tình yêu của Khế. Chúng tôi cứ ngồi bên nhau như thế, không còn khái niệm thời gian. Khi Đủ gọi lên Hội trường tập trung, tôi bừng tỉnh.

       Hôm ấy là ngày 6 - 9 - 1971.

       Sáng sớm, bố tôi từ quê lên tiễn tôi. Để kịp sáng nay tiễn con trai lên đường, bố tôi phải đi từ chiều hôm trước, tới Nam Định thì đi tàu đêm. Trông thấy tôi, ông không nói gì, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt buồn sâu lắng. Lần đầu tiên tôi nhận ra rằng bố tôi rất yêu tôi. Anh Tuất con bác Liêm ở quê đang làm công nhân cơ khí trong Hà Đông và Đỗ Tý, bạn thân cùng học với tôi từ nhỏ, hiện là sinh viên năm thứ tư Đại học Bách khoa, cũng đến tiễn tôi.

       Người tiễn chúng tôi khá đông. Tôi không nghe rõ những bài phát biểu của lãnh đạo trường, không nghe rõ những lời chúc tụng của bạn bè. Một thợ ảnh lăng xăng chụp chúng tôi. Không biết vì chụp hỏng, hay vì máy không có phim như có người bình luận mà không bao giờ chúng tôi được nhìn thấy tác phẩm của anh ta. Khi xếp đội hình để người ta chụp ảnh, thấy mắt anh Đặng Hoàng Song đỏ ngầu, gỉ mắt hoen trắng, tôi kéo tay áo lau cho anh. Anh Song ôm chặt hông tôi, người anh run bần bật như bị sốt rét. Đặng Hoàng Song vừa nhận bằng tốt nghiệp và quyết định giữ lại trường làm giảng viên, chuẩn bị cưới chị Lâm cùng lớp. Chưa được lên bục giảng lấy một lần, Đặng Hoàng Song đã nhận quyết định nhập ngũ.

       Đến giờ xuất phát, 10 chiến sĩ tương lai chúng tôi lên xe com - măng - ca. Xe chuyển bánh. Cả lớp tôi vẫy tay. Đỗ Tý và anh Tuất nắm tay tôi thật chặt. Bố tôi nghẹn ngào:

       - Con đi!

       Tôi cố tạo nụ cười để bố tôi yên lòng:

       - Bố giữ gìn sức khỏe chờ con trở về. Nhất định con sẽ về... Bố nói với u con như thế bố nhé!

       Khế chạy theo xe, nước mắt tràn mi, cố níu tay tôi. Tôi thầm gọi trong lòng: "Khế ơi!" và căng mắt nhìn thu lấy hình ảnh những người thân cho tới khi không còn nhìn thấy gì nữa.

       Xe qua Khâm Thiên, chợ Mơ rồi tới Lĩnh Nam. Phố xá ồn ào bỗng thấy thân quen xiết bao. Chúng tôi ai nấy im lặng suy tư. Tôi rụt rè đề nghị: "Hát lên!" cho... khí thế và cất giọng không tự tin lắm hát "Giải phóng miền Nam". Một người hát theo, hai người, rồi cả 10 người cùng hát. Những người đi đường dừng lại vẫy chào chúng tôi. Một cảm xúc dạt dào rất lạ dấy lên trong lòng...

       Tới địa điểm giao quân, chúng tôi được biên chế thành một tiểu đội. Tiểu đội trưởng tên là Chít, người Vĩnh Linh, rất trẻ. Anh Song là Đảng viên, được phong chức Tiểu đội phó. Mỗi người được phát hai bộ quần áo, khăn mặt, giày vải và dép cao xu, ba lô, mũ và một số thứ khác trang bị cho cá nhân. Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi mặc bộ quần áo rộng khác hẳn bình thường, cứ nhìn nhau không nín được cười.

       Trong khi chờ tổ chức biên chế, chúng tôi học điều lệnh đội ngũ, xạ kích. Chưa quen với nếp sinh hoạt của người lính, tôi rất mệt, nhưng vẫn cố hết sức để theo kịp đồng đội. Trong tiểu đội, tôi là người gầy yếu nhất.
       Nhớ lớp, nhớ người yêu đến cồn cào trong dạ. Có hôm, tôi cùng Đủ và Thị kéo nhau ra chỗ khuất ôm nhau khóc thút thít như trẻ con. Cuối tháng tổng kết, tôi được biểu dương vì có tinh thần cố gắng học tập, được đơn vị thưởng phép ngày chủ nhật. Tôi đi bộ về trường ngay sau khi sinh hoạt tối xong. Nửa đêm, cả phòng tập thể nữ thức dậy vui mừng đón tôi. Các bạn nữ dồn người nằm chung giường, dành cho tôi và Khế một giường. Suốt ngày hôm sau chúng tôi ở bên nhau. Mới xa lớp một tháng mà tưởng như đã một năm rồi. Bạn bè tíu tít hỏi han, chăm sóc. 5 giờ chiều tôi lại đi bộ về Lĩnh Nam (Thanh Trì) để kịp điểm danh buổi tối. Thời gian bên người thân đi nhanh như ngựa phi.

       Tháng 10 - 1971 tổ chức biên chế xong, đơn vị hành quân về Yên Thế (Bắc Giang). Đại đội tôi đóng quân ở xóm Cầu Đá, xã Tân Tiến. Ngày ngày rèn luyện xạ kích, đội ngũ, tập đeo nặng đi bộ... Cùng đại đội tôi có họa sĩ Lê Duy Ứng rất hay hát bài hát về hoa chăm pa, sau đi chiến trường Ứng bị đạn vào mắt đã dùng máu vẽ chân dung Bác Hồ... Ngày chủ nhật, có lần chúng tôi rủ nhau thăm nhà văn Nguyên Hồng, nghe ông nói về văn chương.

           U tôi và em Đằng lên thăm ba ngày. U tôi gầy yếu lắm, nhưng bà yêu tôi nhất trên đời nên bà đủ sức đi bộ hàng trăm cây số. Tôi đưa U và em Đằng vào thăm bác Vang, chị Mận và cô Giốc. Cô Giốc là con nuôi của bà nội tôi. Bác Vang và cô Giốc bỏ quê lên vùng kinh tế mới Yên Thế từ năm 1960.
           Tháng 12 - 1971, tiểu đoàn 19 (sinh viên) thuộc Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 chuyển quân về Quế Võ và kiện toàn tổ chức. Hầu hết quân số thuộc trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa được điều về Trung đội vệ binh của Trung đoàn. Anh Đặng Hoàng Song K5 về làm tiểu đội phó vệ binh.

       B trưởng Trung đội vệ binh là anh Từ, người Thanh Hoá, lớn tuổi. B phó là anh Lục người Tây Nguyên. Sau vào Quảng Trị anh Lục hy sinh trên đường công tác. B trưởng lên làm Phó Trưởng ban hành chính rồi hy sinh. Tiểu đội trưởng Nguyễn Đình Dần, người Thanh Hoá lên B trưởng. Tiểu đội trưởng Nguyễn Minh Châu người Thạch Hà (Hà Tĩnh) lên làm B phó. Tiểu đội phó Nguyễn Văn Sánh, người Hà Tĩnh lên Tiểu đội trưởng. Tôi cũng được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Nhưng đấy là sau này, còn bây giờ chúng tôi chuyên lo xe than, vác gạo, canh gác bảo vệ các thủ trưởng và cơ quan đầu não trung đoàn.

            Tôi thường tâm sự với anh Ổn về chuyện tình yêu, chuyện học hành. Anh Ổn là thạc sĩ, giảng dạy ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, có bệnh đau dạ dày rất khổ. Nghe đâu người ta điều anh đi bộ đội vì anh yêu một cô học sinh và cô này có thai. Sau vào chiến trường, anh Ổn được điều về Sư đoàn bộ làm trong bộ phận cơ yếu hay cơ công gì đó...

           Tết đầu tiên xa nhà, chúng tôi ở đồi bạch đàn. Đơn vị tắt bếp để toàn thể cán bộ, chiến sĩ vào dân ăn tết ba ngày. Tôi tình nguyện trông trại cho mọi người vào dân ăn tết. Nói không ai tin, ngày mồng một tết, tôi đói mềm cả người cho tới khi có hai cô gái làng tình cờ qua doanh trại tặng cái bánh chưng nhỏ.

       Sau tết, tôi được cử đi học 1 tháng lớp “quản ca” do Tổng cục Chính trị tổ chức ở Bắc Giang. Chúng tôi được học nhạc lý, trình độ “ký âm pháp”. Kết thúc lớp, hai bài hát đơn ca báo cáo của tôi là “Tôi là Lê anh nuôi” và “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” được xếp loại khá. Sau này, hai bài đó trở thành “tủ” của tôi trong hội nghị và những đêm văn nghệ của đơn vị. Ngón “đệm sáo ngâm thơ” và độc tấu sáo trúc “Lý hoài nam” của tôi được sử dụng không biết bao nhiêu lần trong các đêm văn nghệ và những khi hành quân.

       Trong thời gian tôi học lớp văn nghệ ở Bắc Giang, Khế lên thăm. Cả đêm chúng tôi không ngủ, chỉ ngồi bên nhau, giữa trời sương lạnh và im lặng. Sáng sớm hôm sau Khế ra tàu về Hà Nội kịp thi...

 

 

 “VUI DUYÊN MỚI KHÔNG QUÊN NHIỆM VỤ”


       Trung đoàn đi dã ngoại về Chí Linh (Hải Dương). Trung đội vệ binh đóng quân trên đồi thông đền Côn Sơn, nơi ngày xưa Nguyễn Trãi từng ẩn dật.
       Nghe phong phanh chúng tôi chuẩn bị đi vào Nam, bố u tôi lên Hà Nội xin phép cho Khế nghỉ học để cùng đi thăm tôi. Hai cụ đi bộ từ nhà lên thành phố Nam Định hơn ba chục cây số, đi tàu hỏa lên Hà Nội, vào trường văn hóa xin phép cho Khế nghỉ học đi cùng. Ba người đi ô tô khách lên Bắc Ninh, lại đi xe khách về Phả Lại rồi đi xe đạp ôm về Sao Đỏ, từ Sao Đỏ thì đi bộ vào Côn Sơn.

       Vừa tới đơn vị, bố u tôi chưa kịp uống hớp nước đã bỏ Khế lại cho tôi rồi chủ động đòi gặp bằng được thủ trưởng trung đoàn. Anh em vệ binh tình nguyện dẫn bố u tôi lên gặp tham mưu trưởng trung đoàn. Khi gặp tham mưu trưởng trung đoàn, hai cụ tha thiết đề nghị thủ trưởng trung đoàn cho phép tôi về cưới vợ trước khi đi chiến đấu, để gia đình có người “nối giõi tông đường”.

       Bộ phận hành chính đơn vị bố trí cho Khế và bố u tôi nghỉ nhờ trong nhà dân một đêm. Sáng sớm ba người lại đi bộ ra Sao Đỏ để về Hà Nội. Tôi rất muốn tiễn bố u tôi ra Sao Đỏ, nhưng công việc đơn vị không cho phép. Nhìn u tôi gầy quắt queo, chân bước liêu xiêu trên đường đồi, lòng tôi như thắt lại.

       Một tuần sau, Đại úy Tham mưu trưởng, người miền Nam (tôi không nhớ tên) cho gọi tôi. Tôi lên gặp ông mà lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ngồi cạnh cái bàn con, chăm chú ghi ghi chép chép lên cuốn sổ tay bìa bọc nhựa giả da. Nhìn mặt ông nghiêm trang, da đen sắt, gầy lộ xương, tôi có cảm giác ông rất khó gần. Chờ ông viết xong, bỏ bút xuống bàn, tôi mới lên tiếng:

       - Báo cáo thủ trưởng, em có mặt ạ!

       Ông vẫy tay:

       - Vào đi! Ngồi xuống đây – Vừa nói ông vừa kéo cái ghế đẩu từ gầm bàn ra mời tôi ngồi. Ông nói giọng Bắc rất chuẩn, có lẽ ông ở Bắc đã lâu.

       Tôi rụt rè ngồi ghé lên ghế, lí nhí thưa:

       - Dạ!

       Ông bắt đầu hỏi tôi như thẩm vấn tội phạm:

- Đồng chí có mấy anh em?

       Tôi hơi ngạc nhiên, sao thủ trưởng lại hỏi về chuyện gia đình tôi vậy nhỉ? Tưởng ông giao cho nhiệm vụ gì, hay là chấn chỉnh tư tưởng tôi vì gần đây tôi có tư tưởng diễn biến không an tâm... Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn cố giữ giọng bình thường trả lời ông:

       - Dạ! Bố mẹ em có 5 người con ạ!

       - Mấy trai?

       - Dạ! Bốn ạ!

       - Mấy người đã xây dựng gia đình?

       - Dạ! Chưa có ai ạ!

       - Đồng chí là thứ mấy?

       - Dạ! Em là con trưởng ạ!

       - Người yêu đồng chí làm gì? Bao nhiêu tuổi?

       - Dạ! Cô ấy đang thi tốt nghiệp đại học ạ! Cô ấy 23 tuổi rồi ạ!

       - Có đẹp không?

       Tôi tưởng nghe không rõ, nên hỏi lại:

       - Dạ! Thủ trưởng bảo sao ạ?

       Ông nói rõ từng tiếng:

       - Cô - ấy – có – đẹp – không?

       - Dạ! Với em thì cô ấy đẹp nhất trên đời ạ!

       Tôi mạnh dạn lấy từ túi áo ngực tấm ảnh chụp chung tôi và Khế ngày tôi mới nhập ngũ cho ông xem. Ông nhìn chăm chú một lát rồi đưa lại cho tôi, bảo:

       - Trông cô bé già dặn hơn đồng chí. Không nên để cô ấy đợi lâu hơn... Thôi đồng chí về đi!

       Tôi đứng dậy, giơ tay lên ngang tai chào ông:

       - Dạ! Xin phép thủ trưởng, em về ạ!

       Hai ngày sau, trưởng ban hành chính gọi tôi sang lều bạt của anh, đưa cho tôi giấy nghỉ phép 15 ngày và bảo:

       - Đồng chí về thu xếp giao lại súng đạn cho trung đội, cầm tờ giấy này sang quân nhu lấy ba tút thuốc Đrao và về giải quyết việc gia đình. Đúng hạn phải lên đơn vị ngay. Do điều kiện đơn vị không cử người về dự đám cưới của đồng chí được, thay mặt ban hành chính và trung đội vệ binh, tôi chúc mừng hạnh phúc đồng chí.

       Nói rồi ông đưa cho tôi một gói gồm 5 tút thuốc lá Trường Sơn. Tôi mừng rú lên vì bất ngờ, nói lời cảm ơn líu cả lưỡi. Khi tôi về lán trung đội vệ binh, mọi người đã biết tin, râm ran chúc mừng, dặn dò tôi. Cậu liên lạc bảo:

       - Tham mưu trưởng bảo anh thu xếp cho gọn, rồi ra xe đơn vị đi nhờ về Hà Nội. Đúng 16 giờ xe chạy.

       Tôi vội xuống quân nhu nhận thuốc lá đơn vị tặng rồi theo xe về Hà Nội. Suốt chặng đường về Hà Nội, tôi vẫn còn không dám tin mình được về cưới vợ trong lúc đơn vị chuẩn bị gấp rút để sẵn sàng đi B. Tôi định bụng hôm trả phép nhất định phải nói lời cảm ơn tham mưu trưởng. Nhưng thật tiếc, dự định ấy không thực hiện được, vì khi tôi trả phép tham mưu trưởng đã đi tiền trạm vào Nam, sau đó ông chuyển đi đơn vị nào tôi không biết nữa.


       Thời gian này lớp K6 đang ôn thi. Thấy tôi về đột ngột đòi cưới, Khế không dám tin, cứ cho là tôi nói đùa. Tôi làm mặt giận:

       - Em không tin, không cho anh cưới thì anh ra tàu đi luôn.

       Nói rồi tôi đeo ba lô phăm phăm đi ra ga Hàng Cỏ. Khi tới ga, tôi quay nhìn về phía phố Khâm Thiên, thấy Nguyễn Xuân Đào - bạn cùng lớp tôi, gò lưng đạp xe về phía ga. Đào không khó khăn gì để phát hiện ra tôi.  Đào bảo:

       - Lên xe, tao đèo về! Cái Khế nó đang khóc! Lớp sẽ tổ chức cho mày!
       Nhìn cái chân thọt của Đào, tôi bảo:

       - Ừ, để tao lai.

       - Không được! Ngồi lên đi! Tao lai được.

       Khế phải bỏ ôn để lo việc cưới, vì thời gian nghỉ phép của tôi rất ngắn. Sáng hôm sau tôi và Khế lên gặp cô Nguyễn Thị Thuận (trưởng khoa, sau này khi tôi về học tiếp thì cô Thuận đã là Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Văn hóa), báo cáo sự việc và xin phép cho Khế nghỉ học về cưới. Khi biết ý định của chúng tôi, cô Nguyễn Thị Thuận băn khoăn:

       - Các em đã suy nghĩ kỹ chưa? Cưới rồi, ngộ nhỡ em hy sinh thì Khế sẽ nhỡ nhàng... Cô khuyên hai em không nên cưới vào lúc này, để Khế tập trung thi tốt nghiệp cho tốt, để Giống đi chiến đấu không vướng bận thê nhi…

       Tôi không biết nói gì, ngồi im nghe cô nói. Nhưng Khế đã quyết:

       - Thưa cô, chúng em đã nghĩ kỹ rồi. Chúng em yêu nhau gần bốn năm, đã phải chịu đựng thiệt thòi vì kỷ luật của nhà trường. Chúng em quyết tâm đi đến hôn nhân cô ạ. Hai gia đình chúng em cũng mong như vậy.

           Cô Thuận lắc lắc đầu, rồi lại gật gật đầu và lặng lẽ viết giấy giới thiệu và giấy chứng nhận chưa xây dựng gia đình để chúng tôi về quê đăng ký kết hôn và tổ chức lễ cưới.

       Khế ở lại thi, đến ngày cưới mới về.

       Tôi vội vàng ra tàu trưa về Nam Định. Thời chiến, đi tàu xe hết sức khó khăn. Tôi đứng vào hàng rồng rắn trước ga Hàng Cỏ để mua vé tàu chợ về Nam Định. Gần hai tiếng đồng hồ mới tới gần cửa bán vé thì họ lại tuyên bố hết vé. Tôi đành mua vé ngoài đắt gấp ba lần. Tàu chật như nêm, hàng hóa xếp chật lối đi, hơi người ngột ngạt. Tàu chạy chậm rề rề, ga nào cũng dừng, hơn 5 tiếng đồng hồ mới tới Nam Định. Xuống ga, tôi đi bộ một mạch ra phà Tân Đệ. Về tới nhà Khế ở xã Phú Chử (Thư Trì, Thái Bình) thì đã tối mịt. Cả nhà thấy tôi về đột ngột, tỏ ra ngạc nhiên. Dì út Chanh và dì Đèo vui ra mặt, hỏi han tôi tíu tít. Hai cụ không nói gì, lặng lẽ quan sát tôi. Chờ tôi ăn xong bữa, cụ ông bảo:

       - Anh đi đường mệt rồi, con Đèo thu dọn giường cho anh nghỉ. Có gì mai nói.

       Lúng túng mãi không biết mai trình bày với hai cụ ra sao, tôi thao thức đến gần sáng mới thiếp đi. Buổi sáng, tôi cứ ra ra vào vào, ngồi đứng không yên. Đầu óc tôi quay cuồng nghĩ cách thưa thế nào với hai cụ. Dì Chanh đào giun, rủ tôi ra ao câu cá. Tôi buột mồm bảo dì:

       - Kỳ này anh về xin cưới chị Khế...

       Dì Chanh kêu tướng lên:

       - Mẹ ơi! Anh Giống bảo về cưới chị Khế đây này.

       Mẹ đứng ở bên bậu cửa nhà cười bảo:

- Muốn cưới thì về mời bố mẹ sang đây!

          Nghe thế, tôi vội bỏ cần câu lại bờ ao, đeo ba lô, nói với hai cụ:

          - Con xin phép... bố mẹ, con về Nam Định...

       Tôi đi như chạy gằn một mạch sang Nam Định. Qua phà Tân Đệ, lại đi bộ qua phà Đò Quan, vào bến xe xếp hàng mua vé đi Giao Thủy. Chiều tôi về tới nhà. Bố U tôi mừng rỡ chạy đôn đáo nhờ người giúp. Cũng may, thời chiến, việc cưới hỏi chẳng cầu kỳ như bây giờ. Hai ngày sau, đoàn ăn hỏi được thành lập. Trưởng đoàn là cụ Ránh, cụ vốn quen phát biểu trước tập thể. Cậu Hoà đại diện họ mẹ tôi. Bác Vượng đại diện họ nội tôi. Nguyễn Thế Đường (xã Xuân Nghĩa) thay mặt bạn bè tôi... Đoàn ăn hỏi đi bằng xe đạp, sau 5 giờ đồng hồ vượt hơn năm chục cây số, qua đò Bùi và hai phà (Đò Quan và Tân Đệ) có mặt ở nhà gái vào chiều ngày 16 - 2 - 1972. Họ nhà gái tổ chức đón tiếp chu đáo và bàn chuyện cưới cho chúng tôi. Trong lúc ngồi tiếp nhau, hai cụ thông gia liên tục “Rước ông”, “Mời ông” và “Cứ thế ông nhá”. Cụ bà nhắc nhở:

       - Hai ông cứ thế là thế nào?

       Hai cụ thông gia:

       - Ừ nhỉ! Thế mấy giờ mai ta xuất phát được hả ông?

       - Đường cũng khí xa, tám giờ sáng ta đi cho sớm, được không ông?

       - Vâng, được ạ!

       - Vậy cứ thế ông nhá.

       Tôi như có lửa trong lòng, đứng ngồi không yên cho tới 9 giờ tối nghe tiếng Khế gọi trên đê. May quá, Khế về kịp. Có cả Nga và Tình thay mặt lớp K6 cùng về. Nga là bí thư chi đoàn, sau này làm Giám đốc Thư viện Hà Tây. Tình là lớp trưởng, được giữ lại trường, sau đỗ Tiến sĩ được đề bạt Hiệu phó Trường Đại học Văn hóa, rồi Vụ phó Vụ Thư viện.

       Sáng 17 - 2 - 1972, đoàn đưa đón dâu đi hai chục xe đạp, mà xe lại đèo người, thành ra xuất phát đúng 8 giờ sáng mà mãi 3 giờ chiều mới về tới bến đò Bùi, Xuân Trường. Qua đò Bùi Chu thì gặp đoàn nhà trai đi đón khá đông. Đoàn đưa dâu và đoàn đón dâu hợp lại, bố trí đội hình, cờ dong trống mở rước dâu rùng rinh trên đoạn đường 4 km từ đò Bùi về Xuân Trung.

Cái sân nhỏ và mẩu vườn trước nhà tôi được bắc rạp che kín. Rạp là hai lá buồm nâu dùng cho thuyền gỗ mượn của bà con trong làng, bắc trên những cây luồng và cột buồm. Cổng vào sân nhà được trang trí hoa lá như cổng chào của thiếu nhi trong dịp Tết Trung Thu. Trên giữa rạp là chiếc đèn kéo quân bằng giấy bóng màu với hình bộ đội, xe tăng quay xung quanh ngọn nến. Bốn sợi giấy cắt hình nối với nhau kéo từ đèn kéo quân vòng cung ra bốn góc rạp. Một cái phông xanh treo phía trước nhà, nổi bật hình hai con chim bồ câu đấu mỏ vào nhau được cắt bằng giấy trắng. Hàng chữ họ tên cô dâu chú rể và ngày tháng âm dương lịch cắt bằng giấy màu, nét to nhỏ như trẻ con tập viết được dán lên phông theo đường vòng cung. Chỉ có mỗi cái bàn gỗ để lọ hoa giấy làm bục cho đại biểu phát biểu và cho văn nghệ. Trên bàn còn có cái đài Lido làm micro, nối dây điện ra cái loa 10w treo trên cành xoan góc vườn. Sân và vườn xếp đầy ghế các loại: ghế ba nan, ghế đôn, ghế băng, ghế xa-lon gỗ... Hai bên là hai băng khẩu hiệu nền đỏ đã phai màu, chữ vàng cắt theo kiểu nửa platon nửa romăng: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Đảng Lao Động Việt Nam muôn năm”...

       Sau tràng pháo tép râm ran tung hoa giấy đỏ lên đầu đoàn đưa đón dâu, Ban tổ chức đám cưới do cánh chú Tuấn, anh Bính chịu trách nhiệm liền vào việc ngay. Cưới thời chiến đơn giản và mau lẹ. Tuyên bố lý do, đại diện hai nhà phát biểu, thay mặt chính quyền xã và thay mặt lớp K6 phát biểu, văn nghệ cây nhà lá vườn, cám ơn và kết thúc. Chú Tuấn trưởng trò đã tuyên bố kết thúc mít tinh, nhưng khách đông đứng tràn ra đường còn rềnh rang nửa tiếng sau mới giải tán. Cánh thanh niên làng, cả mấy cụ cao tuổi nữa, liên tục thay nhau lên hát, ngâm thơ, kể chuyện. Ông Trần Quốc Sử là chú rể lấy dì tôi, hát oang oang bài “Con trâu sắt”, vừa hát vừa đập tay xuống bàn đánh nhịp. Trần Văn Thành, bạn tôi, là bộ đội không quân về phép gặp đám cưới, bỏ ba lô xuống, lên hát bài “Phi đội ta xuất kích” ca ngợi không quân để chúc mừng tôi. Ông Trần Mỹ Vượng, bác ruột tôi vốn là đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều năm, tự biên tự diễn theo điệu “Cây trúc xinh”, “Cô Khế xinh tang tình là cô Khế đẹp...” Giọng ông sang sảng, lời ca tinh nghịch làm khán giả liên tục rộ lên cười muốn vỡ rạp. Ai đó kêu lên:

       - Mời cô dâu chú rể văn nghệ đáp lại hai họ nào!

       Mọi người ào ào hưởng ứng. Mấy cậu thanh niên đẩy tôi lên cạnh bàn, chỉnh lại “loa đài” và giới thiệu chú rể hát tặng bà con hai bài... tự chọn! Bốc lên, dù rất mệt, tôi hát liền hai bài tủ: “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”, “Tôi là Lê Anh Nuôi”... Khi tôi hát “Tôi là Lê Anh Nuôi” mọi người hoan hô, vỗ tay náo nhiệt, yêu cầu tôi hát lại mấy lần...

       Nhóm tiếp tân do cánh thanh niên nữ đảm nhiệm bưng trầu cau, thuốc lá Trường Sơn, nước chè tươi len lỏi mời khách. Cuối cùng thì cũng đến lúc cô dâu chú rể tay cầm thuốc lá Đrao mời tiễn khách ra về.

       Thời ấy cưới hỏi thật đơn giản, tiết kiệm. Cô dâu không có áo dài, thì mượn của bạn cái áo vét đã cũ. Chú rể không có comlê caravat thì mặc nguyên bộ quân phục mùa hè đã phai màu. Hội hôn không nhạc vàng, nhạc xanh gì hết, cứ dân ca và nhạc đỏ mà chơi. Vậy mà vui đáo để.

          Đoàn đón dâu mãi 6 giờ chiều mới được ăn cơm. Chú rể, cô dâu thu dọn tới 9 giờ tối mới được đi đăng ký kết hôn. Thời chiến nên xã linh động cho cưới trước, đăng ký sau.

       Mợ Hòa có chín con, vừa trai vừa gái, được u tôi bố trí giải chiếu, soạn chăn màn cho tôi, “để cháu Khế cũng mắn như mợ”.

       Đêm tân hôn, hai vợ chồng mệt bã người, gần nửa đêm mới được nghỉ, cả hai văng ra ngủ.

       Ngay sáng hôm sau chúng tôi sang Thái Bình để “lại mặt”. Bố mẹ và các em rất vui, hỏi han nhiều chuyện. Trưa hôm sau chúng tôi lên Hà Nội để Khế kịp thi tốt nghiệp. Tàu hoả chậm rề rề. Vào tới trường thì đã 7 giờ rưỡi tối. Cả lớp đã tập trung, bày hoa, bánh kẹo và thuốc lá Trường Sơn chờ hai nhân vật chính. Lớp tổ chức cưới cho chúng tôi khá vui. Thày Rính, người Cổ Lễ (sau là Phó Tiến sĩ) còn mang cả đàn gió đến để đệm cho mọi người hát. Anh Nhân chủ trì văn nghệ, lại bài hát tủ của anh: Tầm vu. Tôi nhận được ở bạn bè những tình cảm đẹp mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm xúc của mình lúc ấy. Đây là lần đầu tiên Trường Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội có chuyện lớp tổ chức cưới cho sinh viên. Nội quy của trường không cho sinh viên yêu nhau bị chính các thày cô phá lệ qua việc nhiệt tình ủng hộ đám cưới của chúng tôi. Có lẽ do tôi chuẩn bị đi chiến đấu mà mọi người ứng xử thế chăng?

       Đêm ấy, lớp bố trí chúng tôi ngủ nhờ ở nhà giữ trẻ. Khế đến kỳ kinh nguyệt. Thế là chúng tôi chưa thể có con. Chúng tôi thức cả đêm. Sáng sớm, anh Tuất và Đỗ Tý đến cùng đưa tiễn tôi ra bến Nứa. Thật kì lạ là chính tôi lại tâm niệm “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”...

       Từ đây, tôi bắt đầu một cuộc sống đầy biến cố gian khổ ác liệt của người lính chiến.

 

 

         TỪ CÔN SƠN ĐẾN THẠCH HÃN

 

       Tôi trở về đơn vị đúng ngày quy định. Các anh chỉ huy trung đội rất lo tôi bỏ ngũ. Nay tôi trả phép đúng hạn, các anh mới yên tâm.

          Bộ phận vệ binh vẫn hàng ngày canh gác, xe than, lấy củi. Chị Lâm lên thăm anh Đặng Hoàng Song. Chị Lâm cùng học khóa 5 Đại học Thư viện với anh Song. Hai người yêu nhau chưa kịp cưới thì anh Song nhập ngũ. Sau này anh Song hy sinh, chị Lâm đi lấy chồng. Năm 1985, khi tôi đã chuyển ngành về thư viện Hà Nam Ninh, tôi có vào thăm Thư viện tỉnh Thanh Hoá. Gặp chị, tôi mừng rỡ, nhưng không hiểu sao chị làm như không biết anh Song là ai.

       Ngày đầu tháng 4 năm 1972, Khế bỏ lớp lên thăm tôi. Trưởng ban hành chính mượn cho chúng tôi một gian nhà trẻ của địa phương. Hôm sau có lệnh báo động chuẩn bị chiến đấu, tôi đưa Khế vào nghỉ nhờ nhà Tiền để sáng về Hà Nội. Tiền cùng lớp K6 với vợ chồng tôi, nhà cách Côn Sơn – nơi tôi đóng quân 5 km.

       3 giờ sáng, lại báo động. Trung đội trưởng tập họp phổ biến nhiệm vụ và phân công công việc cho từng tiểu đội. Sốt ruột không chịu nổi, tôi tự ý bỏ đơn vị, chạy một mạch 5 km đường đồi tới nhà Tiền. Trong nhà đèn vẫn sáng. Khế đắp chiếu nằm trên chõng tre. Khi nghe tôi gọi nhỏ, Khế choàng dậy. Chúng tôi ôm chặt nhau chẳng nói được gì. Hai trái tim cùng đập loạn trên lồng ngực nhau. Chúng tôi cứ đứng lặng như thế giữa trời đêm đầy sao... Rồi như chợt tỉnh, tôi buông Khế ra và chạy như muốn đứt hơi trở về đơn vị.

       5 giờ 30. Cả đơn vị đã nai nịt gọn gàng đang xếp hàng kiểm tra. Thấy tôi hớt hải quay về, mọi người như trút được gánh nặng. Anh Ổn, nguyên giáo viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, cùng tiểu đội, đã thu dọn ba lô và súng giúp tôi. Tôi như người mất hồn, ý nghĩ luôn xoay quanh về Khế.

         Tin làm chúng tôi bàng hoàng: Anh Tại, tiểu đội trưởng anh nuôi của bếp trung đoàn, người Hải Dương, là Chiến sĩ thi đua nhiều năm liền đã bỏ về quê. Anh Tại đã ngoài ba mươi tuổi, một vợ ba con... Anh quá nặng gánh gia đình nên không thắng nổi bản thân? Có lẽ ai cũng thông cảm hoàn cảnh của anh Tại nên chẳng ai tỏ ra coi thường và chê trách anh ấy. Nhưng không biết ở quê họ sẽ xử lý anh Tại ra sao? Liệu anh Tại có bị xỉ nhục bằng cách đày ải lao động công ích và đeo biển “Ai cũng như tôi thì mất nước” – hình thức xử lý với bộ đội “B quay” rất phổ biến thời ấy không?

       Tiếng hô của Trung đội trưởng “Chạy tại chỗ” cắt dòng suy nghĩ của tôi. Chúng tôi chạy tại chỗ chừng ba bốn phút. Tiếng chân giậm mặt đất rầm rập, tiếng súng đạn và trang bị va đập lách cách vang lên, nhưng không một ai cất tiếng nói. Trung đội trưởng Nguyễn Đình Dần hô dứt khoát:

       - Nhằm ga Mỏ Trạng, hành tiến!

       Chúng tôi lặng lẽ hành quân trong buổi sớm mùa hè thoang thoảng mùi thơm nhựa thông... Ý nghĩ tôi lại quay về Khế. Không biết lúc này Khế làm gì? Khế về Hà Nội bằng cách nào? Khế sẽ phải chờ đợi tôi bao nhiêu năm?…

       Hành quân cứ mỗi giờ đồng hồ được nghỉ 15 phút giống như tiết học trong nhà trường. Trên vai tôi lỉnh kỉnh ba lô, súng đạn, bao gạo... trên ba chục ký mỗi lúc thêm đè nặng. Tôi thường bị tụt lại sau. Anh Lục, người Tây Nguyên, nguyên cán bộ quản lý một đơn vị “B quay”, được điều về làm Trung đội phó vệ binh. Lục to khỏe, da đen sắt, giọng hơi trọ trẹ nhưng lại rất dịu dàng. Lục tỏ ra rất thích tôi. Có lần Lục kể:

       - Ông nội mình nguyên là Hiệu trưởng trường Võ thuật Việt Nam đấy. Mình học võ từ lúc 5 tuổi. Trước khi vào quân đội, mình là giảng viên Trường Đại học Bách khoa, dạy môn quân sự. Phụ trách đơn vị “B quay”, mình rất nghiêm khắc nên “bọn nó” ghét mình. Một bận mình tát tai cậu lính giả ốm không chịu đi lao động, thì bất ngờ một cậu khác cầm cái xẻng quân dụng ở phía sau chém lên đầu mình. Mình phản xạ tự nhiên, xoay người đá một phát, chẳng may làm gẫy hàm cậu ta. Thế là bị kỷ luật và được điều về đây…

          Chẳng biết anh Lục nói có thật không, nhưng tôi thích nghe anh kể chuyện. Tôi cũng thường kể với Lục về chuyện học đại học, về thơ văn, về tình yêu... Có vẻ Lục nể phục tôi. Thấy tôi tỏ ra đuối sức, Lục mang đỡ tôi bao gạo.

          Hành quân tới ga Mỏ Trạng. Đơn vị tạm nghỉ trong khuôn viên một công trường hay cơ quan mà tôi không nhớ rõ, chờ lệnh lên tàu. Đại úy trung đoàn phó Ngoan trực tiếp chỉ đạo trung đội vệ binh trong việc canh gác. Tôi không nhớ họ của ông. Chỉ nhớ tên ông là Cường, khi đi chiến trường thì đổi là Ngoan. Ông dặn chúng tôi:

       - Không cho bất kỳ ai ra khỏi khu vực tạm dừng, nếu không có lệnh của tôi.

       Nửa đêm, trung đoàn phó đi kiểm tra gác, lừ lừ tiến ra cổng. Cậu Toàn vệ binh đang phiên gác quát:

       - Ai? Quay lại ngay! Không có lệnh của thủ trưởng Ngoan, không được ra ngoài. B quay hả?

       Bố Ngoan – Cánh vệ binh chúng tôi thường gọi Trung đoàn phó như vậy - cầm một túi bánh mì chọc vào bụng mấy cậu lính gác:

       - Ngoan đây! Mỗi thằng một cái ăn đi cho đỡ đói mà thức.

       Ông Ngoan người Hải Dương, dáng người đậm, khuôn mặt to phúc hậu, da đen như nông dân, là thủ trưởng rất dễ gần. Bọn vệ binh rất thích được nghe ông nói chuyện. Chuyện trên giời dưới biển ông nói đều hấp dẫn chúng tôi. Chúng tôi coi ông như cha chú của mình. Lần đầu tôi được gặp ông là khi ông xuống kiểm tra Trung đội vệ bình. Thấy tôi đang cầm xem cuốn từ điển Anh - Việt, ông hỏi một câu bằng tiếng Pháp. Tôi không biết tiếng Pháp, nhưng nghe có mấy từ na ná tiếng Anh, tôi đoán ông hỏi: “Đọc từ điển tiếng Pháp hả?”. Tôi trả lời ông: “Dạ! Từ điển Anh - Việt ạ!”. Ông hỏi tôi về tên tuổi, quê quán, làm gì trước khi đi bộ đội... Từ không khí căng thẳng, chuyển sang tự nhiên, vui vẻ, bọn lính chúng tôi quây lấy ông. Sau này, khi đi công tác, ông rất hay chọn tôi đi bảo vệ. Trái lại bố Ngoan, cụ Chính ủy và Trung đoàn trưởng không mấy khi chọn mấy đứa còm cõi yếu ớt như tôi đi bảo vệ, thành ra tôi không dám gần và chẳng mấy nhớ về hai ông.
       Có lệnh lên tàu. Trung đội vệ binh lên một toa riêng. Trong toa chỉ có hai hàng ghế băng gỗ gắn hai bên thành toa. Tàu chạy chậm nhưng vẫn lắc như lên đồng, mỗi lần dừng ở ga chờ rất lâu. Tàu tới ga Hà Nội thì đã sang chiều. Tàu dừng ở ga mấy tiếng nhưng không ai được xuống ga. Thị, Đủ và tôi căng mắt nhìn qua cửa sổ, hy vọng gặp một người quen. Không thấy ai quen. Còi báo tàu chuẩn bị xuất phát. Thị đưa vội cặp sách qua cửa sổ cho một cô gái lạ, nhờ chuyển về lớp K6. Tàu đêm. Chật chội. Nóng bức. Đoàn tàu già rệu rã lắc lư phát ra những tiếng cót két, thỉnh thoảng lại hụ hụ rồi rít lên hồi còi hơi. Mệt mỏi. Chúng tôi ôm súng ngủ gà ngủ gật. Tàu qua ga Nam Định. Tôi bừng tỉnh, nôn nao nhìn mọi người xa lạ dưới ánh đèn không đủ sáng mà thấy thân thiết vô cùng. Tạm biệt quê hương. Thương bố u vô hạn. Chú Đằng, em tôi, cũng được gọi nhập ngũ ở quê. Do tôi đã nhập ngũ nên xã hoãn chú lại. Ngày tôi nhập ngũ, u tôi lo cho tôi đến ngây dại cả người. Bà chặt tất cả chuối trong vườn “làm cỗ liên hoan cho thằng Giống đi bộ đội”. Sau này tôi được biết, trong thời gian tôi chiến đấu ở Quảng Trị, u tôi đã đi kêu cầu, cúng bái ở nhiều chùa và đốt cơ man là lính giấy để đi “bảo vệ” thằng con cả của bà. Những năm ấy đi chiến đấu là 9 phần hy sinh, chỉ có 1 phần sống. Nói dại, nếu tôi chết, hẳn bà khó sống được. Tôi tự nhủ: Phải sống, phải hy vọng dù chỉ rất mong manh.

       Đến ga Quán Hành. Bắt đầu hành quân bộ. Đêm đi. Ngày nghỉ. Không khí chiến tranh nóng dần lên. Những đoàn xe tải ngụy trang cành lá xanh nối nhau vượt lên. Máy bay địch oanh kích trọng điểm. Pháo ta nhả đạn rực trời. Mỗi khi gặp thanh niên xung phong là cánh lính trẻ lại rộ lên nhận đồng hương, trêu ghẹo. Tôi thường mệt rũ trong những ngày hành quân mang nặng, chẳng buồn ngó ngàng đến các em tóc rụng, da xanh. Chúng tôi đã vượt trọng điểm ngã ba Đồng Lộc, sông Lam, sông Son... Đã dừng chân ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), tập kết ở Bãi Hà. Trong trí não già nua của tôi bây giờ không sao nhớ được chính xác những địa danh đã qua. Có lẽ do hậu quả nhiều lần sức ép bom B52 làm tôi suy nhược thần kinh kéo dài nhiều năm sau. Nhưng lạ thay, có những chuyện đến nay tôi vẫn nhớ như in trong khi phần lớn thì quên quên nhớ nhớ. Một lần chúng tôi canh gác bảo vệ Bộ chỉ huy trung đoàn khi ấy đang ở trong rừng miền tây, Thiếu úy Thái sẹo dẫn theo một lính liên lạc lên trung đoàn họp. Chúng tôi yêu cầu xuất trình giấy ra vào. Thái nổi cáu:

       - Chúng mày có biết tao là ai không? Thái sẹo C trưởng trinh sát đây!
       Cậu Toàn nổi máu quát lại:

       - Mày có biết tao là ai không? Tao là anh nuôi đây!

       Thái dọa:

       - Oánh bỏ mẹ chúng mày bây giờ!

       Trung đội trưởng Dần đi đốc gác thấy vậy nhảy ra hô to:

       - Anh em! Xích cổ tay Thái lại!

       Chắc chắn cuộc ẩu đả sẽ xảy ra nếu lúc đó không có bố Ngoan tình cờ đi qua can thiệp:

       - Thái đấy à? Sao không mang giấy ra vào? Thôi các con để cho anh Thái vào họp đi...

       Thái đi qua cạnh tôi, lừ mắt:

       - Mày nhớ mặt Thái sẹo này nhé!

       Chúng tôi gọi Thái là Thái sẹo và chính Thái cũng tự xưng cái tên ấy, vì mặt hắn nhiều sẹo. Thái tốt nghiệp sĩ quan trinh sát đặc công loại... kém. Nghe cánh lính trinh sát kháo nhau: Thái học giỏi, nhưng vẫn bị xếp loại kém vì một bận nhận nhiệm vụ đánh mục tiêu nhà cao tầng của nông trường Sông Bôi, Thái thấy một cô công nhân mặc đồ lót ngủ, liền... sờ đùi cô ta. Cô ta kêu toáng lên. Thái phải trốn vào bốt điện. Hai ngày sau, khi quân xanh rút hết Thái mới dám ra ngoài. Về trung đoàn 101 Thái được đề bạt Đại đội trưởng trinh sát, hàm thiếu úy. Trên đường đi B Thái lên trung úy tiểu đoàn phó. Vào chiến trường Thái lên thượng úy tiểu đoàn trưởng, rồi về làm tham mưu trưởng trung đoàn với hàm đại úy. Sau này khi tôi đi học sĩ quan lục quân thì Thái cũng đi học Học viện quân sự. Tôi không thể quên vụ va chạm với Thái sẹo bởi sau này tôi được điều xuống trực tiếp chiến đấu trong đội hình tiểu đoàn 1 của Thái sẹo. Khi tôi được gọi về trung đội vệ binh thì Thái sẹo cũng về làm Tham mưu trưởng trực tiếp quản lý chúng tôi.

       Đơn vị vệ binh biến động tổ chức: Thị và Đủ về đại đội thông tin, phụ trách máy 15 w. Tôi được phong binh nhất, được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Anh Đặng Hoàng Song xung phong xuống đơn vị chiến đấu, làm khẩu đội trưởng cối 60. Thạch K7 được đề bạt làm trung đội phó đại đội vận tải. Hậu, Dũng trung cấp văn hoá quần chúng cũng xuống đơn vị chiến đấu. Cúc trung cấp thư viện, người Bắc Ninh được điều ra Bắc, vì cả gia đình Cúc ở quê bị trúng bom Mỹ, không ai còn sống. Thế là 10 sinh viên trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá mỗi người một nơi, mỗi người một số phận. Nhiều người đến giờ tôi vẫn chưa có dịp gặp lại. Thế chỗ những người chuyển xuống đơn vị là những cậu lính má còn lông tơ.

       Đơn vị có lệnh chuyển hướng hành quân theo đường miền tây. Tạm biệt những vùng cát bỏng chân. Chúng tôi hành quân theo đường mòn trong rừng núi. Hành quân đêm. Người sau bám sát người trước. Để giữ bí mật, cấm dùng đèn pin. Ai đó có sáng kiến bắt đom đóm nhốt trong lọ Pinixilin buộc vào ba lô để người sau định hướng. Những mệnh lệnh thường xuyên được truyền xuống:

       - Cẩn thận mìn lá!

       - Khu vực có biệt kích!

       - Chuẩn bị qua suối!

       - Phía sau vận động!

       - Bám sát, đường khó đi!

       Trèo đèo. Lội suối. Hai bàn chân tôi rát bỏng. Khi trượt ngã, lúc vừa đi vừa ngủ gà ngủ gật. Vắt, muỗi thi nhau làm thịt chúng tôi. Có lần tôi sốt 39 độ vẫn quyết bám sát đơn vị, không dám tụt lại sau. Súng đạn, ba lô tư trang nặng trĩu vai. Chúng tôi dùng những cây gậy Trường Sơn làm chỗ tựa mà vượt lên gian khổ.

       Toàn đơn vị dừng lại khu tập kết Bãi Hà, chuẩn bị vượt tuyến. Từng tổ ba người căng bạt, mắc võng cạnh nhau ngủ. Nửa đêm bỗng giật mình vì súng AK nổ.

       - Biệt kích à?

       - Không. Một cán bộ trung đội kiểm tra gác, nói mật khẩu chậm, bị cậu lính trẻ hốt hoảng xả đạn trúng đùi. May không chết.

       Lại trở về miền đông. Dừng ở thôn Thuỷ Ba Tây, chờ lệnh. Đêm hành quân vượt Bến Hải. Chúng tôi gói ba lô trang bị vào túi áo mưa lấy từ các bao gạo được thả trôi từ biển vào để làm phao bơi qua sông. Cả chục cây số nam Bến Hải toàn cỏ tranh. Lệnh truyền xuống: Đến Gio An (thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị) mới nghỉ. Giữa bạt ngàn cỏ tranh, cây cỏ lúp xúp, ẩn hiện mấy xác xe tăng địch đã cháy rụi, nòng pháo đen ngỏng lên trời. Bỗng có tiếng V010. Bụp! Pháo sáng ngay trên đầu. Tưởng trông rõ cả cái kim dưới đất. Lộ rồi. Tranh thủ vượt lên tránh vào khu vực có tre xanh. Không kích địch thả bom trúng đuôi đội hình hành quân của trung đoàn. Một số hy sinh và bị thương.

       Làng Gio An còn vài nóc nhà, mái lợp tôn. Nhà nào cũng có hầm kèo chống pháo. Nghỉ lại một ngày. Khi đã chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ phó chính uỷ Nguyễn Trung Nến, người Thanh Hoá lên đường thì có lệnh tôi cùng cậu Do ở lại làm giao liên đón tiểu đoàn pháo trực thuộc bên bờ Bắc về Gio An.

       - Đến Gio An thì đi đâu?

       - Sẽ có người đón.

       Thế là hai chúng tôi buồn bã quay ra Bãi Hà. Chờ cả tuần không thấy đoàn pháo nào qua, sốt ruột quá. Có hai anh lính Hà Nội, vốn là cán bộ ở một trường đại học, hồi huấn luyện cùng đại đội với tôi, quay ra Bắc. Gặp ở Bãi Hà, hai anh thí thỏn tôi cùng quay cho có bạn.

       - B quay ư? Nhưng em không có tiền.

       - Không sao, các anh lo cho em về đến Nam Định. Đây cho em cái đồng hồ Liên Xô.

       - Em sợ lắm.

       - Còn hơn là chết. Cứ cho qua cái đẫn ác liệt này rồi anh em mình lại vào.
       - Em không dám.

       - Tạm biệt

       Chẳng biết rồi hai anh có ra tới Hà Nội được không?

       Được biết đoàn pháo đã đi theo đường miền tây vào chiến trường rồi, Do và tôi vội quay vào tìm đơn vị. Chúng tôi cứ nhằm hướng Nam mà đi. Ngày đi. Đêm mắc võng nghỉ trên cành cao. Đói. Mệt. Sợ. Hay là ra Bắc? Ra mà chết trên đường thì... Cứ vào. Loanh quanh mãi trong rừng. Chúng tôi quyết định theo đường miền đông, nguy hiểm hơn nhưng đi đường đồng bằng đỡ khổ. Tìm vào được Gio An. Chẳng có ai đợi cả. Đang ngơ ngác thì bị tổ du kích địa phương bắt. Ba cô du kích đen nhưng trẻ măng.

       - Có giấy tờ gì không?

       - Chẳng có gì cả.

       - Đơn vị nào?

       - E101.

       - Biệt kích giả bộ đội thì sao?

       - Bộ đội Bắc mà.

       - Tên gì?

       - Giống.

       - Tên lạ hoắc. Đói hả? Cơm nguội với muối, có ăn không?

       - Có.

       Ăn bốn bát liền.

       - Ăn từ từ thôi, nghẹn đấy.

       - Đã quá. Cả tuần toàn ăn rau rừng và thịt bò chết.

       - Bò ở đâu?

       - Trên rừng, bị bom chết cả đàn. Sao đau bụng thế này.

       - Tham ăn quá đấy mà.

       Sau này học trường sĩ quan lục quân, dã ngoại bị nôn ra máu, đi viện mới biết mình bị viêm loét dạ dày. Chắc là từ đận ấy.

       Ba ngày sau, nhờ du kích về tỉnh đội hỏi giúp biết đơn vị đang ở Đông Hà, chúng tôi lên đường. Đi bộ qua Cồn Tiên, Dốc Miếu vừa được giải phóng. Những lô cốt nham nhở vết đạn, những hàng rào gai đủ kiểu bùng nhùng, dậu, vướng chân... bị bộc phá đánh tung từng đoạn. V010 lượn dai như đỉa suốt ngày. Pháo kích địch bắn cầm canh. Từng đợt không kích đối phương thả bom sau khi V010 bắn đạn khói chỉ điểm nơi chúng nghi có quân Việt cộng.

       Cuối cùng thì chúng tôi cũng về tới đơn vị ở Đông Hà. Cả trung đội lần lượt ôm lấy chúng tôi mừng rỡ. Tôi như đứa con xa lâu ngày trở về nhà. Tôi không diễn đạt được cảm xúc của mình lúc ấy. Mi mắt tôi ướt nặng, không nói lên lời. Tôi hiểu rằng từ nay số phận tôi gắn chặt với những đồng đội của mình. Trung đội trưởng Dần nắm tay tôi:

       - Nghỉ ngơi đi, mấy ngày nữa sẽ vượt Thạch Hãn. Sẽ rất ác liệt đấy.

          Hai tháng hành quân từ núi Côn Sơn (Chí Linh) tới Quảng Trị, tôi đã vượt qua biết bao gian khổ. Sự gian khổ nhiều khi đến cơ cực đối với người gầy yếu “gió thổi bay” như tôi. Với ai đó thì “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, chứ với tôi thì quả thực “đường ra trận mùa này... nhớ mãi!”

       Con đường trước mặt mà tôi phải đi tiếp còn ác liệt bội phần. Đó là chiến trường thực thụ, là lò lửa khủng khiếp của bom đạn, đó là sự hy sinh, mất mát để giành lấy độc lập, tự do và cuộc sống hòa bình của dân tộc.

 

 

        NHỮNG MẢNH KÝ ỨC VỀ ĐỒNG ĐỘI

 

       Chính ủy Trung đoàn, cao tuổi, ra Bắc vì cụ bệnh suốt, thuốc Tây không khỏi, phải chuyển sang “thuốc Bắc”. Phó chỉnh ủy Nguyễn Trung Nến, người Thanh Hóa lên thay. Anh Lê Thanh Oai được bố trí lên Phó Chủ nhiệm Hậu cần nhưng không hiểu sao lại quay về làm Trưởng ban hành chính. Sau này tôi được biết: anh Oai văn hóa thấp, lại nóng tính và thẳng như ruột ngựa, chả biết kiêng nể ai. Vì thế anh Oai thì bị trả về chức cũ. Tôi được biết anh ở xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc nhưng mãi đến đầu tháng 9 – 2012 tôi mới được gặp lại anh.

       Phó ban hành chính Từ, người Thanh Hoá, một lần đi công tác, gặp pháo kích, phải trú vào hầm hàm ếch bên đường, cậu bảo vệ nhường anh Từ ngồi trong cho an toàn. Pháo kích dai dẳng. Anh Từ nằng nặc đòi đổi ra ngoài để duỗi chân cho đỡ mỏi. Vừa đổi chỗ thì anh dính pháo hy sinh. Lẽ ra đi công tác về hậu cứ phụ trách hậu cần là anh Oai, nhưng anh Từ xin được anh Oai nhường cho mình. Khi ấy anh Từ vừa được tin vợ đẻ con trai...

         Trung đội phó Lục cùng cậu Hệ, người Hải Dương bị dính bom hy sinh trong một lần xuống đơn vị công tác. Tiểu đội trưởng Nguyễn Minh Châu, người Thạch Hà, Hà Tĩnh nhận chức Trung đội phó kiêm chính trị viên trung đội.

       Công việc chủ yếu của vệ binh lúc này là canh gác bảo vệ cơ quan, bảo vệ thủ trưởng. Mỗi tiểu đội được trang bị thêm một B40 chống tăng. Việc đào hầm đã có đại đội công binh. Cũng không phải xe than kiếm củi như trước, nhưng thường phải cử người tham gia vác gạo được thả trôi ở biển vào.

       Đầu tháng 8 - 1972 Trung đoàn bộ 101 tiến vào đóng quân dưới chân cao điểm 33 Bắc Cửa Việt. Thời gian này, cuộc chiến chống địch phản kích trong thành Quảng Trị vô cùng ác liệt. Quân số ta thương vong chuyển ra Bắc liên tục. Giữa tháng 9 - 1972 ta rút khỏi thành Quảng Trị, lui về co cụm ở bắc sông Thạch Hãn. Pháo địch từ biển thường xuyên nã vào đất liền. Máy bay địch quần đảo suốt ngày đêm làm thần kinh tôi luôn trong tình trạng căng thẳng.

       Trận bom B52 lần thứ ba trúng đội hình trung đoàn, hầm chủ nhiệm hậu cần sập. Chủ nhiệm và liên lạc hy sinh. Tôi bị bom vùi kín, tự chui lên, khạc đất cát từ trong miệng, lại cầm súng làm nhiệm vụ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Lần khác, tôi đang đứng gác canh máy bay địch, trung đội trưởng Dần bất ngờ kéo tôi vào hầm kèo chữ A. Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì nghe tiếng nổ như ngô rang trên đầu. Thì ra máy bay địch thả bom bi sát thương. Tôi thầm cảm ơn Dần đã cứu tôi trong tích tắc.

       Tiểu đội tôi có 5 chiến sĩ. Ngủ nhờ ba hầm du kích. Tôi lớn tuổi nhất được phân công ngủ nhờ hầm hai cô du kích địa phương. Mấy tối đầu, ngại không giám vào nằm. Hầm chữ A rộng 1,2 m, ra vào va nhau. Tôi ôm khẩu AK ngủ ngồi ở cửa hầm. Mỗi khi pháo bắn gần, lại giật mình bật vào trong. Ngớt pháo, tôi lại ra cửa hầm. Tôi nơm nớp lo sợ bị trúng mảnh đạn. Mấy cô du kích hàng ngày cười nói như không, đêm ngủ ngon lành. Họ đã dạn bom đạn. Độ bốn năm đêm sau, hai cô cùng kéo nghiến tôi vào hầm, ấn tôi năm giữa. Tôi run bắn người. Sau rồi quen cũng ngủ được.

       Tình cờ gặp Đê cùng lớp K6 khi hành quân. Mừng quá. Đê đi bộ đội trước tôi hai năm. Cậu ta là lính H12 cùng tham gia chiến dịch Quảng Trị. Sau chiến dịch Cửa Việt, Đê được về học tiếp và công tác ở Thư viện Hải Dương.

       Có lệnh tiến sang bờ nam Cửa Việt. Tiểu đội tôi sang trước nhận vị trí cho trung đội và chuẩn bị công tác bảo vệ cơ quan. Trên đường vận động qua trảng cát ra bờ sông, bất ngờ bị pháo kích. Mấy cậu vận tải cáng thương binh từ tiền phương về sợ quá bỏ cáng chạy tìm nơi tránh pháo. Cậu thương binh lồm cồm bò dậy, cà nhắc nhảy theo. Hoá ra là Thị. Trời, Thị ơi! Pháo rát quá, không sao chạy tới chỗ Thị được. Pháo ngừng. Tải thương chạy như ma đuổi. Tôi đành quay lại chuẩn bị vượt sông. Sau này được biết Thị là thương binh hạng 2, học tiếp, rồi về Thư viện Trường Nguyễn Ái Quốc 2, lại đi lao động ở Liên Xô. Năm 1982, khi đã ra quân về học tiếp tôi mới có dịp gặp lại Thị. Cậu ta béo, tai hễnh hãng, học Thạc sĩ. Khi Hải Dương chia tỉnh, Thị về làm Giám đốc Thư viện Hưng Yên. Hai chúng tôi gặp nhau trong một hội nghị chuyên ngành thư viện do Bộ Văn hóa tổ chức, cùng ôm nhau bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm máu lửa ở Quảng Trị hồi 1972.

       Chuẩn bị vượt sông. Chúng tôi dùng áo mưa gói quân tư trang làm phao bơi. Cửa sông Thạch Hãn khá rộng. Người không biết bơi cũng rất nguy hiểm. Rất nhiều đồng đội đã hy sinh khi bơi qua sông này, do địch pháo kích. Tôi tuy gầy yếu, nhưng biết bơi khá nên vượt sông không mấy khó khăn. Tôi vượt sông trước. Khi tôi sang bờ Nam nhìn lại, mấy đồng đội vẫn còn ở giữa dòng, có cậu mới ra được 1/3 sông. Nguyễn Minh Châu dáng thư sinh nhưng trẻ khỏe, bơi giỏi, đưa đồ đạc cho tôi giữ rồi lao xuống nước qua lại mấy lần dìu đồng đội. Thật may, lần vượt sông này không bị pháo địch.

       Sang bờ nam, trụ lại trên cao điểm 28,8. Được tin anh Đặng Hoàng Song (Thư viện K5) bị dính bom hy sinh cùng cả khẩu đội cối anh chỉ huy. Buồn đến mất ngủ mấy đêm liền. Thương anh Song và lo cho số phận của mình.

       Đêm đêm nhìn vòng cung pháo sáng, biết được đội hình địch và ta. Nghe rõ tiếng súng bắn thẳng trên chốt. Vệ binh canh gác cả ngày và đêm, có tình huống thì phải báo động. Đến phiên tôi gác ngày. Không hiểu sao nóng ruột thế, cứ vào ra không yên. Thắng, người thị xã Hải Dương sờ trán tôi, bảo:

       - Anh sốt rồi. Người nóng hầm hập thế này, vào hầm mà nghỉ. Em gác thay cho.

       Một chốc Thắng quay vào:

       - Em đói quá, cho em mảnh lương khô.

       Tôi đưa cho Thắng thanh lương khô 701. Thắng cầm thanh lương khô vừa bóc ăn vừa đi ra chốt gác.

       Đột nhiên V010 bắn đạn chỉ điểm ngay khu trung đoàn bộ đóng quân. Không biết là nó phát hiện cái gì hay có chỉ điểm của địch. Pháo dồn dập. Thắng bị mảnh pháo vỡ đầu, gục xuống. Tôi bị sức ép hất ra xa. Thấy nóng ấm trên đầu và vai, tôi sờ đầu, tay nắm phải vật gì mềm và nóng, hoảng quá kêu lên:

       - Tao bị rồi Hạnh ơi!

       Hạnh kéo tôi vào hầm, kiểm tra thân thể tôi, bảo:

       - Anh không bị vết nào đâu! Thắng bị rồi anh ạ. Chắc là óc Thắng văng vào đầu anh đấy!

       Tôi bật khóc: “Thắng ơi!... Thắng ơi!... Thắng ơi!...”

       Pháo ngớt, chúng tôi xúm vào khênh xác Thắng về hầm trú ẩn. Đơn vị làm thủ tục chôn cất Thắng rất đơn giản. Không có ván, chỉ có tăng và võng gói xác Thắng. Trung đội trưởng ghi trích ngang của Thắng vào mảnh bao thuốc lá, bỏ vào lọ philixilin đậy kín rồi nhét vào túi áo ngực Thắng. Tôi ngồi nán lại hồi lâu trước nấm mồ bé nhỏ sơ sài, nói thầm với Thắng: “Thắng ơi! Anh ngàn lần cảm ơn em đã nhận cái chết thay anh! Là phiên gác của anh, nhưng em... Ai ngờ...”

       Trận bom B52 ngay sau đó làm biến đổi địa hình. Tôi không sao nhận ra được mộ Thắng ở chỗ nào nữa.

       Trung đội trưởng Dần thông báo: Ông già trụ lại quê hương mà hàng ngày chúng tôi cơm bưng nước rót hầu hạ để làm công tác dân vận chính là tên chỉ điểm cho địch. Không tin được. Nhưng trong chiến tranh, mọi chuyện đều có thể xảy ra.

       Tiểu đội tôi đổi về bảo vệ bộ chỉ huy trung đoàn, bàn giao công tác bảo vệ Bộ chỉ huy tiền phương cho tiểu đội Sánh. Trong một tối gác đêm hầm các chỉ huy trung đoàn, tôi được phân công gác hầm trung đoàn trưởng. Nguyễn Xuân Trắc, người Phú Thọ gác hầm chính uỷ. Tới hầm trung đoàn trưởng phải lội qua tràn ruộng, mà tôi thì đi giày vải nên cứ lúng túng, định quay về thay giép cao su. Thấy thế, Trắc bảo:

       - Em đi giép, để em gác hầm trung đoàn trưởng cho, anh gác hầm chính uỷ.

       - Ừ! Em đổi vị trí cho anh nhé!

       Trắc lội thoăn thoắt qua tràn ruộng. Tới cửa hầm trung đoàn trưởng, Trắc quay lại cười và vẫy tay với tôi. Tôi chui vào hầm chính uỷ, ngồi ở cửa hầm vuông nơi dùng làm nơi họp của chính ủy chưa nóng chỗ thì B52 rải thảm. Tôi bị hơi bom thổi bay vào trong hầm kèo chữ A, khẩu AK mắc lại cửa hầm. Chính uỷ đang làm việc trong hầm chữ A, sờ khắp người tôi, lo lắng:

       - Có sao không con?

       - Dạ, con không sao ạ.

       - Không sao là tốt rồi. Ra xem tình hình thế nào.

       Tôi chui ra khỏi hầm. Quang cảnh địa hình sau 3 loạt bom B52 thay đổi lạ hoắc. Tôi không sao nhận biết được vị trí các hầm của ta ở đâu. Rộ lên tiếng người kêu cứu, tiếng bước chân vội vã của chiến sĩ, tiếng xẻng, cuốc hối hả đào bới, tiếng ra lệnh của các chỉ huy... Dần và Châu vừa tìm kiếm vừa gọi rối rít :

       - Giống ơi! Giống ơi! Mày ở đâu?

       - Trắc ơi! Mày ở đâu?

       Tôi kêu lên :

       - Tao ở đây!

       Dần, Châu rồi cả trung đội vệ binh ùa lại. Dần hỏi:

       - Trắc đâu?

       - Tao không rõ. Nó đổi gác sang hầm Trung đoàn trưởng.

       Châu định hướng và đo khoảng cách bằng bước chân.

       - Chỗ này! Tất cả đào bới nhanh lên.

       Cả trung đội vừa bới đất, vừa gọi Trắc và trung đoàn trưởng. Lại bới rộng ra xung quanh. Chúng tôi đào bới hết sức nhưng vẫn không tìm thấy hầm trung đoàn trưởng. Khi chính uỷ hết hy vọng, cho phép lính vệ binh nghỉ thì bỗng nhiên cùng với tiếng kêu cứu, đầu của công vụ trung đoàn trưởng thọc từ đất nhô lên. Chúng tôi lao tới tiếp tục công việc đào bới. Khi chúng tôi moi được những người trong hầm ra thì Trắc đã hy sinh. Trên người Trắc chỉ còn cái thắt lưng và cái bi đông nước. Trung đoàn trưởng bị sức ép nặng. Khi tỉnh lại, ông liên mồm chửi Mỹ nguỵ. Ông được đưa ngay ra bắc. Cậu lính công vụ cũng được đưa ra cùng ông. Tham mưu trưởng trung đoàn điều cậu Quỳnh gầy vệ binh đi theo phục vụ Trung đoàn trưởng. Cho đến giờ tôi cũng không có dịp gặp lại họ. Nghe tin trung đoàn trưởng và công vụ hy sinh trên đường ra Bắc.

       Trung đoàn phó Ngoan lên nắm quyền Trung đoàn trưởng.

       Gặp Dũng trung cấp văn hoá quần chúng về công tác ở Trung đoàn. Dũng đã là trợ lý tiểu đoàn. Dũng báo tin Đủ K6 về thông tin 15 w dính bom đã ra Bắc rồi. Thế là ba thằng K6 (Đại học Thư viện khóa 6) đến nay chỉ còn tôi ở lại chiến trường.

       Anh cán bộ quân lực trung đoàn cho biết: Thạch K7 trung đội phó vận tải được ra bắc. Lý do thật khôi hài: Phiên Thạch ở hậu cứ, cố tình ngủ với du kích địa phương. Cô du kích khoe rầm lên. Đơn vị yêu cầu kiểm điểm.  Thạch nhận tất. Kỷ luật. Ra Bắc. Về trường học tiếp. Sau này tôi biết Thạch học xong đại học thì được về công tác ở văn phòng Chính phủ, rồi tốt nghiệp thạc sĩ khoá đầu tiên của trường Đại học Văn hoá. Còn tôi, nào Huân chương chiến công, nào dũng sĩ quyết thắng mà mãi năm 1980 mới được trở về học tiếp với cái giá từ chối quân hàm Thượng uý. Nhưng thôi, đấy là sau này. Mỗi người có số phận của mình.

       Tháng 9 - 1972. Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325 chúng tôi đã tham chiến nhiều trận, tổn thất nặng nề. Nghe đồn có lệnh cho E101 ra Bắc củng cố lực lượng, nhưng các thủ trưởng sợ mất “sao” nên cố xin ở lại tiếp tục chiến đấu. E101 thuộc F325 được điều trực thuộc Sư đoàn 320. Phó Tư lệnh F320 là trung tá Đào Dũng, người Hải Dương, trực tiếp chỉ huy E101 của F325. Khi về chỉ huy E101, việc đầu tiên ông làm là thăm trung đội vệ binh. Chẳng hiểu vì lý do gì, ông thường gọi đích danh tôi và Quỳnh (không phải cậu Quỳnh gầy) đi bảo vệ mỗi khi ông đi công tác. Ông thường hỏi han tình hình gia đình và tâm sự của chúng tôi, hay cho chúng tôi lương khô 702 và thuốc lá. Có bận qua suối, ông đeo giầy da nên cứ lúng túng sợ ướt giầy. Tôi xung phong cõng ông qua suối, nhưng Quỳnh bảo:

       - Để em, anh gầy thế nhỡ ngã thủ trưởng thì...

       Nói rồi Quỳnh khom lưng cõng thủ trưởng qua suối. Chuyện vệ binh cõng ông, năm 1978 gặp lại tôi, ông vẫn còn nhớ. Khi ấy tôi là Thiếu uý trợ lý tuyên huấn sư đoàn 338 đóng ở Đình Lập, Lạng Sơn. Ông được điều về làm tư lệnh trưởng F338. Gặp ông, tôi hỏi:

       - Có phải thủ trưởng hồi 1972 chỉ huy E101 của F325?

       Ông ngạc nhiên :

       - Sao cậu biết?

       - Dạ, em là vệ binh bảo vệ thủ trưởng ở Quảng Trị mà.

       Ông mừng rỡ:

       - Thế à? - rồi nhìn kỹ tôi: “Mày là thằng Giống còm, đúng không?”
       - Dạ đúng.

       - Nhưng khi ấy mày mới là binh nhất.

       - Còn thủ trưởng lúc đó đâu đã là Đại tá như bây giờ.

       Ông xởi lởi:

       - Mày yên tâm, tao sẽ chú ý đến mày.

       Nhưng chưa đầy ba tháng sau, ông lại bị điều về làm Tư lệnh trưởng Đặc khu Quảng Ninh… Từ đấy tôi không có dịp gặp lại ông.

 

 

                    LÊN CHỐT

 

       Chiến sự ngày càng vô cùng ác liệt. Con số thương vong tăng hàng ngày. Các đơn vị trực tiếp chiến đấu số bổ sung không bù kịp số thương vong. Nhiều trung đội chỉ còn dăm tay súng.

       Trung đội vệ binh chúng tôi được lệnh chia quân luân phiên tăng cường cho đơn vị trực tiếp chiến đấu. Tôi được cử đi đợt đầu. Trung đoàn trưởng Ngoan động viên chúng tôi. Ông nhấn mạnh:

       - Xuống đơn vị chiến đấu phải tỏ rõ được bản lĩnh của lính trung đoàn, lính cơ quan. Tranh thủ dùng phương pháp bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch, gây cho địch tâm lý hoang mang lo sợ…

       Tôi mang theo khẩu CKC lắp thêm máy ngắm, xuống tăng cường cho Tiểu đoàn 1. Liên lạc dẫn chúng tôi lên gặp tiểu đoàn trưởng. Khi gặp tiểu đoàn trưởng, tôi giật mình: hoá ra là Thái sẹo. Tôi lo lắng bất an nhớ lại vụ va chạm với Thái sẹo khi còn ở Bắc. Đó là lần ở bãi Hà, chúng tôi không cho Thái sẹo vào họp giao ban trung đoàn vì Thái không mang giấy ra vào. Lần ấy Thái dọa tôi: “Mày nhớ mặt Thái sẹo này nhé!”…

       Bây giờ tôi về làm lính của Thái sẹo, coi chừng hắn trả thù thì nguy. Nghe lính kháo về Thái sẹo thật lắm chuyện kỳ. Thái sẹo có người anh ruột là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Trâu Điên nguỵ. Khi ở Bắc về Quảng Trị, Thái sẹo đem theo cậu cần vụ về nhà giỗ cha ở Triệu Phong. Hai anh em gặp nhau, không nói không rằng, tay luôn sờ bao súng. Thật trớ trêu, hai anh em ruột trở thành hai kẻ đứng đầu của hai đơn vị đối đầu nhau.

       Sau này được trở về trung đội vệ binh, tôi lại dưới quyền Thái sẹo. Thái sẹo được phong đại uý, về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Đôi lần có thời cơ nghỉ ngơi, chúng tôi chơi tú lơ khơ với Thái sẹo. Khi chơi bài, Thái sẹo dường như không bao giờ nhớ mình là chỉ huy. Thái thường xuyên bị chúng tôi hùa nhau vẽ râu, đội mũ. Cáu quá, Thái sẹo văng tục:

       - Đù mẹ!

       Chúng tôi chớp lấy lý do đó:

       - A, chửi làng hả? Phạt! Phạt! Phạt!...

       Thái cuống lên:

       - Không, tao không chửi làng.

       - Không chửi làng thì chửi ai?

       - Ờ... Tao chửi tao.

       - Ha ha ha…

       Có một lần, chúng tôi dùng thủ pháo ném xuống hố bom, vớt được cả rổ cá rô. Đánh vảy, ướp muối, chưa kịp kho. Nửa đêm Thái sẹo đi trinh sát về, đói bụng, bèn bốc cơm nguội ăn với cá rô. Sáng sau thấy cá vơi đi, Châu kêu:

       - Cá chưa kho mà thằng nào đã ăn thế?

       Thái sẹo văng tục, vừa chửi vừa móc họng để nôn ra.

          Khi tôi được cử đi học sĩ quan lục quân thì Thái sẹo cũng đi học sĩ quan cao cấp – Học viện quân sự. Tôi tốt nghiệp sĩ quan lục quân lại được điều về Sư đoàn 338, mà không về E101 F325, thành ra không có dịp gặp lại Thái sẹo.

         Trở lại chuyện gặp Thái sẹo, tôi cứ thấp thỏm lo Thái sẹo trả thù... Hình như Thái sẹo không nhớ, hoặc cố tình tỏ ra không nhớ chuyện xích mích với chúng tôi trước kia.

       Thái sẹo nói say sưa:

       - …Đồng chí xuống đơn vị tham gia giữ chốt An Tiêm. Nhiệm vụ giữ chốt rất nặng nề. Chốt là phải chốt chắc. Muốn chốt chắc, phải kết hợp với vận động tấn công. Phải biết chớp thời cơ tấn công tích cực, tấn công dũng mãnh, tấn công chớp nhoáng, tiêu diệt được hỏa lực và sinh lực địch. Phải giữ được chốt bằng mọi giá. Phát huy sức mạnh tổng hợp, cần phải hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng giữa cá nhân với cá nhân, giữa đơn vị với đơn vị…

       Nói rồi Thái sẹo gọi liên lạc dẫn tôi xuống đơn vị.

       Chính trị viên đại đội giữ chốt An Tiêm người Nghĩa Hưng - Nam Định mà tôi không sao nhớ được tên, là chú cái Hồng cùng học đại học thư viện K6 với tôi. Khi biết tôi là bạn học của cháu mình, chính trị viên tỏ ra rất vui. Ông chuyện trò thân mật, dặn dò tôi rất kỹ về kinh nghiệm chiến đấu ở chốt. Sau khi ở chốt về, tôi không được gặp lại ông. Đến giờ tôi cũng không được biết ông ra sao…

       Liên lạc dẫn tôi tới hầm chỉ huy thê đội giữ chốt. Đồng chí chỉ huy hỏi trong tiếng pháo rít không khí:

       - Cậu tên gì?

       - Tôi tên Giống.

       - Cậu về tiểu đội một nhé!

       Liên lạc đại đội dẫn tôi tới hầm trung đội báo cáo tình hình rồi đưa tôi lên tiểu đội. Trên đoạn đường đến vị trí chốt của tiểu đội, chúng tôi khi bò trườn, khi lom khom theo giao thông hào nông choèn. Tiếng đạn pháo bắn cầm canh rít trên đầu. Cối cá nhân của địch điểm đều đều “cắc”… “oành”, “cắc”… “oành” xuống trận địa ta. Từng tràng tiểu liên rộ lên, khi ở phía này, khi phía kia…

       Tiểu đội tôi có 5 tay súng. Tiểu đội trưởng chỉ cho tôi vị trí và khu vực đảm nhiệm chiến đấu, nhìn tôi ái ngại:

       - Cậu lẻo khoẻo quá! Cậu ấm sinh viên hả? Thế này nhé, trong khi chúng tớ lo công sự, hào giao thông, cậu cảnh giới tỉa địch…

       Tôi bắt tay ngay vào việc đào sâu thêm hố chiến đấu của mình. Hàng ngày chúng tôi ra sức đào giao thông hào, củng cố hầm chiến đấu. Mỗi đêm một lần vận tải đưa lương khô, rau xào khô, cơm nắm lên chốt. Khi bộ phận vận tải trở ra thì tải thương binh về phía sau

       Buổi tối, mỗi người được một nắm cơm ăn với ca-la-thầu (rau khô Trung Quốc), buổi chiều thì ăn một phong lương khô. Có hôm chúng tôi phải ăn cơm thấm máu của chiến sĩ vận tải. Nhiều lần vận tải bị pháo chặn, thương vong tổn thất lớn, nhưng anh em quyết không để chúng tôi đứt bữa.

Khi trời mưa, hầm ngập nước, chúng tôi thay nhau tát nước. Khi trời nắng, chúng tôi cắt phiên lo nước uống hàng ngày. Nước được lấy từ những hố bom. Mỗi bi-đông nước được bỏ vào hai viên thuốc “lọc nước” để tiệt trùng. Có lẽ do đặc tính con người ta thích nghi với hoàn cảnh để tồn tại nên chúng tôi không mấy khi bị đau bụng. Nhiều khi đi lấy nước, chúng tôi bị địch phát hiện. Chúng bắn xối xả và còn gọi cả pháo kích nữa. Không ít người đã thương vong trong khi đi lấy nước.

       Đêm ngủ ngồi, không màn, quờ tay bắt được muỗi.

       Chốt địch dàn hàng ngang đối diện với chúng tôi. Chốt gần nhất cách chúng tôi chừng 50 mét. Các tay súng phát huy khả năng bắn tỉa. Đêm đêm hai bên tổ chức tập kích nhau. Có ngày nổ ra ba bốn trận lớn nhỏ. Chỉ một thay đổi nhỏ trên mặt đất như mảnh dù pháo sáng hôm qua rơi xuống, hôm nay không thấy đâu, là địch pháo kích, phóng M72, rót M79 vào những nơi chúng nghi có Việt cộng. Không ngày nào là không phải sửa chữa hầm hào do pháo địch cày xới. Ở chốt ít khi phải chịu đựng bom. Chỉ khi địch chuẩn bị tấn công, chúng rời chốt, lùi về sau, máy bay mới đánh bom. Pháo mặt đất của ta thỉnh thoảng dập sang trận địa đối phương. Mỗi lần pháo ta bắn, chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh.

       Điều kiện ăn ở, sinh hoạt của chúng tôi như loài chuột. Suốt thời gian ở chốt, chúng tôi không rửa mặt, không tắm giặt. Mùi hôi từ người chúng tôi ban đầu rất khó chịu, sau quen mũi. Pháo địch cùng những trận chiến liên miên làm thần kinh chúng tôi luôn trong trạng thái căng thẳng. Mỗi người một vị trí chiến đấu, đảm bảo một khu vực được phân công. Thời gian gặp nhau rất hiếm.

       Nhìn thấy bóng người loáng qua loáng lại bên chốt địch. Tôi nổ súng. Phát hiện vị trí chúng tôi qua khói súng, địch phóng tới một quả M72. Đạn nổ ngay trước mặt tôi, may có mô đất che đỡ. Tôi buộc giây vào các tấm tôn, từ xa giật giây cho phát ra tiếng kêu, lừa cho địch nổ súng thì bắn trả. Sau này ban chính trị trung đoàn gọi đó là sáng kiến đem phổ biến cho toàn đơn vị. Tôi bắn vào loại khá nên hiệu quả cao. Hồi huấn luyện, môn xạ kích tôi thường đạt loại giỏi. Chỉ cần năm bảy giây phát hiện địch trong khoảng cách ba trăm mét trở lại là tôi có thể điểm xạ “bách phát bách trúng”. Mỗi khi nghe tiếng AK điểm xạ 2 phát một “tằng, tằng” giòn giã của tôi, đồng đội đoán chắc một địch đã trúng đạn. Cái tên “Chiến sĩ bắn tỉa” được anh em tự phát gọi thay tên tôi. Anh em lính mới nhìn tôi với ánh mắt tin tưởng và cảm phục. Lính mới vào rồi thương vong, tôi không còn kịp biết tên họ. Có lần, một cậu lính trẻ măng hỏi biết tôi có vợ quê Thư Trì (Thái Bình), cậu ta reo lên: “Em ở Thư Trì đây”. Tôi định bụng khi có dịp sẽ hỏi cậu ta về tình hình ở quê vợ, nhưng ngay đêm ấy đi tập kích, cậu ấy hy sinh.

       Suốt thời gian ở chốt, tôi không hề bị thương. Trong khi đó, cán bộ đại đội, trung đội thay đổi luôn vì thương vong. Số chiến sĩ tiểu đội tôi cũng đã thay liên tục. Tôi luôn phải gồng mình che dấu nỗi sợ chết. Khi địch tấn công, người tôi run bắn lên, da cứ giật giật. Nhưng khi đã nổ súng, cái sợ biến đâu mất. Tôi quan sát, nhận định và hành động như máy. Chúng tôi rải băng đạn, thủ pháo, lựu đạn và súng ở nhiều vị trí dọc giao thông hào. Khi bị tấn công, chúng tôi vận động đến vị trí nào cũng có sẵn vũ khí đánh chặn địch.

       Tôi không còn nhớ được bao nhiêu trận trong thời gian giữ chốt An Tiêm. Hình ảnh đồng đội còn lưu đậm trong kí ức tôi là những khuôn mặt khô khốc, đen xạm khói đạn, mắt bắt ánh sáng đèn dù lấp lóa, răng trắng ởn, tóc bết vào thái dương và trán… Đôi khi bắt gặp khuôn mặt tái xám, ánh mắt thất thần của một đồng đội không vượt qua được nỗi sợ chết. Có lần tôi tâm sự với một cậu người xứ Thanh:

       - Tao cưới vợ trước khi đi B nên rất sợ chết. Hiện nay chúng ta chiến đấu với quân cộng hòa là chính. Giặc Mỹ chỉ để lại cố vấn và máy bay đánh bom. Giá mà quân Thiệu và quân Giáp tìm cách đàm phán chung sống hòa bình thì hay biết bao, bởi ta và lính cộng hòa đều là người Việt Nam mà. Sao lại cứ “gà cùng một mẹ” nện nhau hoài làm biết bao thanh niên phải chết…

           Cậu lính người xứ Thanh nổi đóa:

       - Đồ vô chính phủ. Ý thức giai cấp hỏng. Giảm sút tinh thần chiến đấu sẽ bạc nhược đầu hàng địch hoặc B quay cho mà xem. Đã ra chốt, mày không bắn nó, nó cũng bắn mày. Không còn cách nào khác là phải chiến đấu hết sức thì mới có hy vọng được sống trở về… Tao là tao cứ kiên quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

       Nghe hắn nói, tôi như pháo tịt ngòi. Chợt nhớ chuyện thằng Trịnh (tôi không nhớ chính xác họ tên cậu ta) bỏ chốt. Lần ấy bọn rằn ri tấn công chiếm chốt. Chúng quét AR15 như mưa về phía chúng tôi. Thằng chỉ huy cầm súng ngắn, miệng khi thì thổi còi, khi thì hò hét “Dô lên! Dô lên!” đốc thúc lính tấn công. Trái ngược với địch, quân ta khi tấn công thằng nào là đảng viên, là chỉ huy phải xông lên trước.

       Đang theo dõi địch, chợt nghe tiếng thằng xứ Thanh gằn lên: “Quay lại, không tao bắn!” Tôi quay nhìn, thấy thằng Trịnh đang bò trườn rời khỏi chốt. Nghe tiếng thằng xứ Thanh, Trịnh quay lại nhìn, hai mắt nó trắng dã thất thần. Vài giây, nó lại trườn thoăn thoắt như rắn. Tôi định bảo thằng xứ Thanh thôi kệ nó, nhưng loạt tiểu liên cực nhanh của địch sạt qua tai buộc tôi phải quay lại chống trả. Không có thời gian ngắm bắn. Thấy bóng địch là roẹt luôn một loạt AK. Nghe tiếng Ak điểm xạ 2 hoặc 3 phát một là biết ngay đó là lính đã dày kinh nghiệm chiến đấu. Cậu nào non tay thì xả cả tràng dài. Địch gần, chúng tôi ném lựu đạn. Chúng tôi vận động từ vị trí này đến vị trí khác. Mọi ý nghĩ, xử lý tình huống đều chớp nhoáng như không suy nghĩ gì cả.

       Địch bị chúng tôi đánh bật trở lại. Chúng lui về củng cố lực lượng chuẩn bị đợt tiến công mới. Giữa hai đợt tiến công, địch gọi pháo “vua chiến trường” nã vào chốt chúng tôi. Tiếng nổ rung chuyển đất. Mảnh đạn văng như mưa rát bỏng không gian. Mặt đất bị cày xới tung lên nhiều lần. Hầm hào bị đánh sập. Mặt đất nham nhở hố pháo. Mùi thuốc đạn khét lẹt. Pháo dừng bắn. Chúng tôi chui từ đất lên…

       Đột nhiên không gian im ắng lạ. Tai tôi ong ong. Hai mu bàn tay đen nhẻm, lòng bàn tay rát bỏng vì nắm vào phần sắt của khẩu AK báng gập. Mồ hôi cay mắt. Mấy giọt rớt xuống trúng nòng AK sủi lên rồi biến mất. Màu quần áo biến thành màu đất và khói súng. Khẩu AK thứ ba bị trúng mảnh đạn, phải thay khẩu khác. Tôi theo dõi địch và phát huy sở trường bắn tỉa. Ngày và đêm ở chốt dường như không rõ ràng, rạch ròi như ở hậu cứ. Đêm đêm chốt được đèn dù soi sáng như ban ngày. Địch không mấy khi tấn công chiếm chốt vào ban đêm. Nhưng đêm là khoảng thời gian của những trận tập kích. Khoảng lặng hiếm hoi báo hiệu một trận chiến mới sắp diễn ra. Dường như chúng tôi đã quá quen với tình huống đó…

       Một hôm cậu liên lạc đại đội bò tới chốt, bảo tôi:

       - Anh Giống ơi! Chính trị viên phó bảo em truyền đạt cho anh biết: anh phụ trách tiểu đội thay thế tiểu đội trưởng hy sinh hôm qua.

       Tôi vặc liên lạc:

       - Cậu về bảo chính trị viên phó xuống giao nhiệm vụ trực tiếp tôi mới nhận.
       Liên lạc nháy mắt:

       - Em chỉ biết truyền đạt lệnh của chị tri viên phó, làm hay không tuỳ anh. Thôi em về chỗ chính trị viên phó đây.

       Nghe anh em xì xèo tay chính trị viên phó mới lên này nhát như thỏ. Từ hôm lên chốt, hắn nằm bẹp trong hầm, đi ỉa vào loong bắt liên lạc đổ. Hơn một tháng chiến đấu giữ chốt, số cán bộ tiểu đội và trung đội hy sinh hoặc bị thương hầu hết, thay liên tục, thành ra chẳng ai muốn nhận chức chỉ huy cơ sở. Làm cán bộ tiểu đội, trung đội là phải đi trinh sát, rồi dẫn quân đi đánh, xung trận phải lên đầu.

       Đầu tháng 11 - 1972 địch mở cuộc hành quân “Sóng thần 9” tấn công Nham Biều, Ái Tử. Từ trước đó, tháng chín và mười, tại chốt chúng tôi giữ, địch liên tục thay quân luân phiên tấn công hòng chiếm lại chốt. Quân số chúng tôi đã thiếu lại luôn biến động vì thương vong hàng ngày.

       Một hôm, liên lạc truyền đạt lệnh của Ban chỉ huy C là 19 giờ tối sẽ thay chốt để về hậu cứ củng cố lực lượng. Buổi sáng bỗng yên ắng lạ. Tôi nằm ngửa nhìn trời và tự cho phép mình xả hơi. Nhưng đến chiều trực thăng quần đảo và bắn đại liên, thả cối xuống chốt. Khi trực thăng rút, pháo kích lại dồn dập. Cả khẩu đội cối 60 của đại đội ở phía sau bị trúng pháo hy sinh. Địa hình biến đổi sau trận pháo.

       Tôi không sao vượt qua được nỗi sợ hãi trước trận chiến, dù đã đánh nhiều trận. Thoáng thấy bóng một bộ rằn ri, tôi lia đại một loạt AK. Loạt AK của chính mình đã làm tôi tự tin và không còn co giật da nữa…

       Khi trận chiến tạm dừng, tôi mò lại các vị trí của tiểu đội. Cậu lính người Thanh Hoá hy sinh. Cậu ấy đã thực hiện đúng quyết tâm của mình: Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Cậu Quỳnh bị đạn cối cá nhân rót trúng ngực. Vết thương lộ xương, máu vẫn ri rỉ. Mặt cậu ta ám đen khói đạn, răng trắng ởn, hai mắt lấp loá ánh đèn dù. Quỳnh yếu ớt:

       - Anh cho em ra với.

       Tôi bảo:

       - Cứ nằm đây chờ tao đi xem thế nào đã…

       Mò tới hầm chỉ huy, tôi gọi nhỏ:

       - Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi!

       Trong hầm có tiếng lục xục rồi “Đù mẹ” và vụt ra một quả mỏ vịt. Tôi phản xạ lăn vào ngách hào. Tôi quay lại chỗ Quỳnh.

       - Hầm chỉ huy bị chiếm rồi. Chắc mọi người đã rút ra. Mình cũng ra thôi Quỳnh ạ.

       Quỳnh bảo:

       - Anh lấy võng kéo em.

       Tôi đặt Quỳnh vào võng, kéo Quỳnh rời khỏi chốt. Tôi cứ nhằm hướng không có pháo sáng mà đi. Vòng cung pháo sáng chính là ranh giới vị trí chốt đối lập giữa ta và địch. Quẹt phải mảnh tôn. Lập tức “cắc”… “oành”, địch bắn cối cá nhân. Tôi lăn xuống hố pháo. Mũ cối bị mảnh đạn văng đi. Loanh quanh mãi vẫn chưa ra được đường 4. Bất ngờ có tiếng quát nhỏ:

       - Các bố làm lộ hết bây giờ. Ra hay vào?

       - Ra.

       - Đi lối này.

       Một cậu lính công binh, trên người mặc độc cái sơ líp, đầu bọc túi vải trắng chỉ hướng cho chúng tôi ra đường 4 để về tiểu đoàn quân y. Cánh công binh đang thực hiện nhiệm vụ đánh bom phóng loại vũ khí mới, chắc là để mở màn cho trận tiến công trên toàn tuyến phòng thủ Thạch Hãn.

       Gần tới đường 4, chúng tôi gặp nhóm vận tải đang trên đường vào chốt lấy thương binh liệt sĩ. Hai cậu vận tải cáng Quỳnh về tiểu đoàn quân y. Tôi cũng đi theo. Người tôi bỗng nóng hầm hập, run bắn. Ở chốt mãi không sao, bây giờ về tuyến sau lại sốt. Một cậu lính quân y bảo người tôi hôi thối quá và cho tôi bộ quần áo cũ để thay. Trước khi thiếp đi tôi còn kịp nhìn rõ những ánh chớp sáng choá bầu trời… Từ phía vòng cung pháo sáng nơi tôi vừa ở đó về vang lên ba tiếng nổ long trời. Đó là hiệu lệnh quân ta bắt đầu một cuộc tấn công mới.

       Sau hai ngày sốt ly bì, ngủ mê mệt, tôi khoẻ lại. Quỳnh đã được chuyển ra Bắc. Từ đó đến nay tôi vẫn không có thông tin về Quỳnh. Trên đường về ban chỉ huy tiểu đoàn báo cáo, tôi cứ lo lo có khi bị kỷ luật vì tội tự ý bỏ chốt cũng nên. Không hiểu tình hình ban chỉ huy đại đội ra sao, có còn ai không hay hy sinh hết rồi?

       Thái sẹo đã về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Tiểu đoàn trưởng mới truyền đạt mệnh lệnh của Tham mưu trưởng trung đoàn cho gọi tôi về trung đội vệ binh. Tôi như trút được gánh nặng lo bị kỷ luật. Tôi hỏi tiểu đoàn trưởng về ban chỉ huy đại đội, ông làm như không nghe thấy câu hỏi của tôi. Ông lặng lẽ đưa cho tôi mảnh giấy xé từ cuốn sổ tay ông vừa viết vội và ký tên. Trong mảnh giấy ông xác nhận thành tích chiến đấu của tôi và lời nhận xét rất tốt đẹp.

       Khi tôi về tới trung đoàn bộ thì các đồng đội xuống đơn vị cùng đợt với tôi còn sống đã về trung đoàn bộ từ tuần trước. B trưởng Dần, B phó Châu và A trưởng Sánh ôm tôi lắc mạnh, mắt ngân ngấn nước. Tôi cũng không sao cầm được nước mắt. Một cảm giác lạ lùng, gai gai lan toả trong người. Sau này tôi hỏi Dần:

       - Tao hay trêu ghẹo và đả kích làm mày có lúc nổi cáu lên, mà sao mày lại khóc khi tao trở về?

       Dần bảo:

       - Trên chốt ác liệt lắm, tao lo mày gầy còm yếu sức, lo mày bị thương. Nghe báo cáo mày chiến đấu dũng cảm, lập thành tích, được biểu dương... Mày về, tao mừng quá. Có mày về rồi, khoản công tác văn nghệ tao yên tâm.

          Vậy là hành động của tôi đã được truyền về trung đoàn bộ từ trước…

       Buổi tối, tham mưu trưởng Thái sẹo cho gọi tôi lên gặp. Thái sẹo cho tôi biết đơn vị thay chốt dính pháo trên đường, tổn thất nặng nề, phải rút ra ngoài củng cố rồi mới vào đánh chiếm lại chốt.

       Tin lan truyền trong lính: quân cảnh vừa bắt được 5 thằng B quay của trung đoàn ở Bãi Hà, trong đó có một thằng C viên phó, một thằng B trưởng...

       Trung đội vệ binh chúng tôi xuống chiến đấu cũng tổn thất nặng nề. Cứ mười người đi, chỉ bốn người trở về. Mấy tuần sau, Chính uỷ Nguyễn Trung Nến trịnh trọng thông báo trong cuộc họp giao ban:

       - Trung đội vệ binh được đề nghị tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng ba. Có 5 cá nhân được tặng danh hiệu dũng sĩ quyết thắng cấp ba và cấp hai, ba người được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.

       Ông tự hào nhấn mạnh:

       - Lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam có một đơn vị vệ binh được tặng Huân chương chiến công giải phóng trong chiến đấu.

       Cá nhân tôi được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba và Danh hiệu dũng sĩ quyết thắng cấp 2.

       Chúng tôi vốn rất quý trọng chính ủy. Ông cư xử với lính như cha chú đối với con cháu. Sau này trên đường ra Bắc học Sĩ quan lục quân, tôi cùng Nguyễn Văn Sánh về vùng quê biển Thanh Hóa thăm gia đình ông. Nhà ông đơn sơ, nghèo lắm! Vợ ông và cô con gái vừa tốt nghiệp đại học sư phạm tiếp chúng tôi như đối với người thân yêu. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp được gặp lại ông.

       Biết tôi viết chữ đẹp, Ban tham mưu trưng tập lên chép báo cáo của Trung đoàn và danh sách chiến sĩ hy sinh. Con số thứ tự trong danh sách hy sinh, theo trí nhớ của tôi, lên tới trên bảy trăm người, đa phần quê Nam Định và Thái Bình.

       Trải qua những ngày tháng chiến đấu khốc liệt, tôi còn được sống, thật là một kì tích. Tôi tự hỏi: do số hay do may mắn mà tôi không hề hấn gì sau hàng tháng chiến đấu liên tục trong máu lửa trên tuyến đầu của phòng tuyến Thạch Hãn?

       Và tôi mãi mãi nhớ ơn những đồng đội đã ngã xuống cho tôi được sống trở về…

 

 

                        TRẬN CỬA VIỆT

 

Tháng 1 - 1973, tin ta thắng lợi ở hội nghị Paris làm chúng tôi rất phấn khởi, mong đình chiến sớm được thực hiện. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được chính thức ký kết. Lính ta ôm nhau hoan hô vui mừng. Chỉ huy, lãnh đạo trung đoàn tỏ ý lo lắng tư tưởng hoà bình chủ nghĩa sẽ làm ta mất cảnh giác.

Quân cộng hòa tuyên truyền kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, “Kiện toàn an ninh lãnh thổ”, “Bình định đặc biệt”.  Địch tổ chức tấn công liên tục cướp đất. D2 của E101 rải quân từ Tám Cát về Cửa Việt phải chiến đấu vô cùng ác liệt. Trước sức tấn công điên cuồng của địch, Tiểu đoàn 2 tổn thất nặng nề. Trung đoàn bổ sung quân không kịp với số hy sinh. Cuộc chiến đấu giành đất giữa ta và địch diễn ra ác liệt suốt đêm 27 - 1 - 1973.

Bộ chỉ huy mặt trận nhận định địch sẽ tấn công chiếm cao điểm 33 bên bờ bắc Thạch Hãn làm điểm tựa uy hiếp toàn mặt trận Cửa Việt. Phần lớn các đơn vị tăng, pháo, cối, chủ lực triển khai chiếm lĩnh khu vực Bắc Cửa Việt. Trung đội vệ binh chúng tôi ở cùng bộ chỉ huy tiền phương đóng trên cao điểm 28,8 bờ Nam Cửa Việt. Đêm 27 - 1 - 1973 địch tập trung xe tăng, pháo binh, bộ binh tấn công từ biển lên, từ đường quốc lộ Một thọc ra, từ phía tây tràn xuống... tiến tới sát bờ Nam cửa Việt. Lực lượng chốt bờ Nam của ta quá mỏng, không cản được bước tiến của địch. Quân ta ở bờ Bắc lại không sang kịp. Có ba xe thiết giáp 28 tấn kịp bơi qua sông, được lệnh tấn công ngay. Nhưng trước số đông xe tăng địch, xe thiết giáp của ta không phát huy được uy lực. Trên xe chỉ có súng 12 ly 7, không thể diệt được tăng địch. Có lẽ thiết giáp ta tấn công chỉ nhằm củng cố tinh thần cho bộ binh. Trên cao điểm 28,8 nhìn rõ xe tăng địch lù lù tiến. Các chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường trên trảng cát. Một chiến sĩ xông lên, quỳ xuống, chĩa B40 chống tăng vào chiếc xe tăng địch gần nhất. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chiến sĩ đã hy sinh trong tư thế quỳ bắn. Chính uỷ Nguyễn Trung Nến theo dõi trực tiếp cuộc chiến đang diễn ra trên cảng nguỵ, nhìn các chiến sĩ ta hy sinh ông bật khóc vì đau xót, vì cảm thấy mình bất lực.

Có lệnh tất cả sĩ quan và lính vệ binh trung đoàn cầm súng chiến đấu trực tiếp. Tiểu đội vệ binh của tôi được lệnh tiến vào tham gia giữ khu cảng. Lực lượng chủ yếu của ta ở đây đã thương vong nặng nề. Chúng tôi tiến vào vị trí chiến đâu chỉ với lựu đạn và súng AK. Trung úy Lê Thanh Oai – Trưởng Ban 5, người bé nhỏ, mắt long sòng sọc, tay vung vẩy khẩu K59, trực tiếp đốc thúc và chỉ huy vệ binh chiến đấu. Nhìn dáng vẻ kiên cường dũng cảm và có phần… ác liệt của ông, tôi kìm được cái cảm giác sợ chết đến run giật da thường thấy trước khi lâm trận và lấy lại được bình tĩnh. 

Toàn mặt trận đạn nổ như ngô rang suốt đêm. Phía Nam, đạn vạch đường bắn thẳng lên trời. Lạ nhỉ, sao lại có đạn bắn lên trời? Làm gì có máy bay? Sau này tôi được biết có một trung uý tiểu đoàn trưởng của ta đã liên lạc với địch cùng ở tại chỗ, không chiếm đất, không đánh nhau, hai bên cùng bắn lên trời. Nghe đâu vị trung uý này bị kỷ luật.

Xe tăng địch như cua dọc bờ biển tiến vào. Tôi lia một loạt AK vào chiếc tăng gần nhất. Đạn AK như gãi ghẻ xe tăng, không hiệu quả. Tăng vẫn lù lù tiến tới. Hình như bộ binh địch cũng không ham đánh. Cảm giác thời gian dài như vô tận. Cuối cùng thì 7 giờ sáng, giờ ngừng bắn cũng tới. Không gian bỗng im bặt tiếng súng. Tai tôi ong ong. Rồi bất ngờ bật lên tiếng reo hò, cả của ta, cả của địch. Tôi đứng dậy nhìn. Xe tăng địch xen kẽ với quân ta. Các chiến sĩ ta giơ cao súng tiểu liên, vẫy cờ xanh đỏ. Lính cộng hòa đưa thuốc lá Rubi ra mời quân giải phóng. Mấy cậu lính đơn vị bạn bắt tay, trao đổi lương khô lấy thuốc lá của đối phương. Trông cảnh ấy, cứ như là hai bên vốn là anh em, chưa từng đánh nhau bao giờ vậy. Hình ảnh ấy như câu tự vấn cứ xoáy vào não nhiều năm sau này làm tôi day dứt khôn nguôi… Tâm trạng ấy dồn nén làm tôi bật ra hai câu thơ:

Mải mê đuổi bóng bắt hình

Tóc sương chợt ngộ ra mình ngu ngơ

 

Bộ chỉ huy lệnh cho tiểu đội vệ binh rút về trung đoàn bộ. Thay thế chúng tôi là cả đại đội trinh sát vào tiếp quản. Địch và ta xen kẽ nhau. Theo quy định, sau giờ ngừng bắn, bên nào ở đâu là đất thuộc quyền quản lý của bên đó. Tại khu cảng, ta và địch đều không nhường nhau. Ngày 28, 29 - 1 - 1973, chúng tôi được lệnh vượt sông Thạch Hãn, sang bờ bắc tham gia đón và dẫn quân tiếp viện sang bờ nam. Riêng bộ binh ta tăng cường sang bờ nam tới 19 tiểu đoàn. Linh tính cho tôi biết, cuộc chiến chưa dừng lại. Quả như thế thật. Đêm 31 - 1 - 1973, quân ta dốc toàn lực mở trận phản kích bất ngờ và giành thắng lợi lớn, chiếm lại đất. Địch lên tiếng phản đối, tố cáo ta vi phạm hiệp định.

Hơn bốn mươi năm sau gặp lại anh Lê Thanh Oai, ôn lại trận Cửa Việt, tôi hỏi:

- Ngày ấy bác thể lực rất nhỏ mà sao trông bác lẫm liệt thế? Em thì sợ run lên trước khi lâm trận. Trông dáng vẻ oai phong, đằng đằng dũng khí của bác, em lấy lại tự tin và bất chấp hy sinh…

Anh Lê Thanh Oai thật thà:

- Khi ấy đốc thúc các em tiến lên chặn địch, anh biết là với trang bị AK và lựu đạn, anh em mình khó mà thắng được đại bác, xe tăng của nó. Nhưng tình thế mình không diệt nó thì nó diệt mình, chỉ còn cách là xông lên giáp chiến. May mà sắp đến giờ đình chiến, nó dừng lại, chứ nó cứ tiến lên chắc anh em mình hy sinh cả rồi.

Nhớ về đồng đội hy sinh như Phó ban hành chính Từ (người Thanh Hóa), Trung đội phó vệ binh Lục (người Tây Nguyên), chiến sĩ Hệ (Hải Dương), Trắc (Phú Thọ), Thắng (Thị xã Hải Dương)… chúng tôi bùi ngùi lặng đi.

 

       Năm 2013, trong buổi giao lưu với chiến sĩ bảo vệ thành cổ Quang Trị của Đài truyền hình Nam Định, tôi có trả lời phỏng vấn của phóng viên… Xin trích một phần cuộc phỏng vấn này:

       Phóng viên (PV):

       - Thưa bác Trần Mỹ Giống, được biết bác từng chiến đấu bảo vệ cửa Việt năm 1972 – 1973, xin bác cho biết tầm quan trọng của cảng Cửa Việt, tương quan lực lượng giữa ta và địch, diễn biến trận Cửa Việt năm xưa!

       Trần Mỹ Giống:

       - Khi trận Cửa Việt diễn ra vào đầu năm 1973, tôi là lính vệ binh trung đoàn 101 sư đoàn 325. Đơn vị tôi được giao nhiệm vụ chủ lực bảo vệ Cửa Việt. Xin tóm tắt theo báo cáo tổng kết trận chiến này của đơn vị ngày ấy: 

           Cửa Việt có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc chiến giữa ta và địch.

       Đối với ta, Cửa Việt là bàn đạp phát triển tấn công mở rộng vùng giải phóng về phía Nam, là căn cứ trung chuyển hậu cần trọng yếu cho các đơn vị đóng ở phía Đông phòng tuyến Thạch Hãn. Mất Cửa Việt, ta khó giữ được phòng tuyến Thạch Hãn và nguy cơ mất cả mặt trận Quảng Trị.

       Đối với địch, đánh chiếm được Cửa Việt sẽ làm chủ khu cảng quan trọng, tạo ra các chốt giữ cửa sông Thạch Hãn, tạo thành bàn đạp có giá trị quân sự quan trọng, có thể phối hợp lục quân - hải quân để tấn công chiếm lại phần đất ở Bắc Thạch Hãn, đẩy đối phương vào tình thế rất khó khăn trong tiếp vận hậu cần cho Quảng Trị.

       Do Cửa Việt có tầm quan trọng như vậy nên cả ta và địch đều quyết tâm giành giật bằng được Cửa Việt. Cuộc chiến trở nên vô cùng ác liệt.

Ngày 21/1/1973 quân Việt Nam cộng hòa mở trận Tangocyti tấn công Cửa Việt.

Lực lượng địch tham gia trận này có: 1 lữ đoàn đặc nhiệm, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 2 tiểu đoàn bảo an binh, 3 thiết đoàn xe tăng, 4 tiểu đoàn pháo, 4 tàu đổ bộ, 5 tàu khu trục, 1 sư đoàn không quân có B-52 của không lực Hoa Kỳ yểm hộ.

Lực lượng của ta có E95 của F325, E64 của F320B tổ chức 3 tuyến phòng ngự chặn địch.

Đêm 25/1/1973, quân địch nổ súng tấn công, sử dụng 80 phi vụ B52 rải thảm, bắn hơn 60.000 viên đạn pháo xuống trận địa quân ta. Lữ đoàn đặc nhiệm địch luồn lách qua các chốt chặn của ta, đến nửa đêm 27 – 1 chúng tiếp cận được cảng Cửa Việt.

Trung đoàn 101 thuộc F325 của chúng tôi khi đó đang ở Gia Hội, được tăng cường 5 xe tăng, vận động tiến công đánh vào sườn Lữ đoàn đặc nhiệm ở Đông Hòa, Vĩnh Hòa, bắn cháy 8 xe tăng nhưng vẫn không ngăn được Lữ đặc nhiệm tiến về cảng Cửa Việt, hình thành 3 cụm quân vây bọc cảng.

Rạng sáng ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn từ các trung đoàn 27, 48, 64 (sư 320B), 271 (độc lập), 38 (Quân khu IV) tăng viện cho các lực lượng giữ Cửa Việt. Đến trưa 28/1, điều tiếp Trung đoàn 24 (sư 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của lữ đặc nhiệm địch.                                                                                                   

Ngày 30/1 quân ta nổ súng tấn công nhưng bị địch đẩy lùi. Ngày 31/1, quân ta tổ chức tổng công kích đồng loạt vào 5 cụm quân của địch. 8h 30' sáng 31/1, ba cụm quân địch ở cảng bị diệt, hai cụm quân còn lại rút về Mỹ Thủy. Tuyến phòng thủ Vĩnh Hòa, Thanh Hội, Long Quang, Chợ Sãi của B5 được khôi phục. Cuộc hành quân Tangocyti của địch đã bị đập tan.

 

 

               HỌC SĨ QUAN LỤC QUÂN

 

       Sau trận Cửa Việt, Trung đoàn trưởng Ngoan về Sư đoàn bộ 325 nhận chức Tham mưu trưởng. Ngày 23 - 2 - 1973, chính uỷ trung đoàn gọi tôi, Châu, Sánh lên nhận nhiệm vụ mới: Nguyễn Minh Châu đi học Sỹ quan ở Học viện chính trị đóng tại Vĩnh Phú. Nguyễn Văn Sánh và tôi về học Trường sỹ quan lục quân ở Sơn Tây. Nhận nhiệm vụ mới, tôi nửa vui nửa buồn. Vui vì được ra Bắc có dịp về nhà. Buồn vì đã học sĩ quan chắc phải phục vụ quân đội lâu dài, mơ ước học tiếp đại học của tôi không biết đến bao giờ mới thành hiện thực.

       Chúng tôi bàn giao vũ khí trang bị cho đơn vị, chỉ mang theo tư trang cá nhân. Nửa đêm, cả trung đội tập họp chia tay chúng tôi. Mọi người cùng thức đến 3 giờ sáng, giờ chúng tôi xuất phát. Những ngày sống chết có nhau, chia sẻ ngọt bùi, yêu quý nhau như ruột thịt làm chúng tôi bịn rịn không muốn rời nhau.

       Khi lên xe tải có mui bịt kín, tôi thấy đã có khoảng ba chục đồng đội từ các đơn vị cơ sở cùng đi học. Xe chở chúng tôi ra tới cầu Hiền Lương thì dừng lại. Chúng tôi xuống xe đi bộ. Tới hậu cứ Bãi Hà, cán bộ quân lực thanh toán cho chúng tôi phụ cấp tiêu vặt suốt những tháng chiến đấu ở Quảng Trị, trao cho chúng tôi giấy tờ nhập học. Chúng tôi nghỉ lại Bãi Hà một đêm. Tôi trằn trọc không sao ngủ được, nằm nghe tiếng suối róc rách, tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng lá rừng xào xạc mà buồn vui khó tả. Sáng hôm sau Châu, Sánh và tôi bắt đầu cuộc hành trình đi bộ từ Bãi Hà ra Bắc. Tôi mời Châu và Sánh cùng về chơi nhà tôi trước khi mỗi đứa một nơi. Hai đứa nhận lời. Ba chúng tôi đi bộ mấy ngày liền ra Đồng Hới. Đêm ngủ nhờ trong dân. Mấy ngày vất vưởng mới mua được vé xe ra Vinh. Ngày ấy đi xe khách rất khó khăn. Tôi say nôn suốt dọc đường. Đến Vinh, lại cả ngày xếp hàng mua vé tàu. Tới Thanh Hoá, Châu đi tiếp cho kịp ngày nhập trường ở Vĩnh Phú, còn tôi và Sánh xuống ga vào thăm gia đình chính uỷ Nguyễn Trung Nến ở một xã miền biển (tôi không nhớ tên xã) thuộc huyện Tĩnh Gia. Chẳng có gì làm quà, chỉ là báo tin chính uỷ vẫn còn sống cho gia đình mừng thôi. Cô con gái và bà mẹ ở trong căn nhà nghèo nàn. Bà mẹ quý chúng tôi như con. Nghỉ một ngày, chúng tôi ra tàu về Nam Định. Lại một ngày một đêm xếp hàng ở bến xe Đò Quan Nam Định mới mua được vé xe Giao Thuỷ.

       Về tới nhà lúc 10 giờ sáng. Vẫn hàng dậu đài bi vàng rực tơ hồng, u tôi thường lấy lá nấu nước xông cho tôi mỗi khi tôi bị cảm. Vẫn ngôi nhà thấp bé lợp bổi giản dị, nơi anh em tôi được sinh ra và sống trọn tuổi thơ ở đó. Dòng sông nhỏ bên nhà chảy quanh làng, nơi chúng tôi hụp lặn nô đùa, vẫn trong xanh hiền hòa...

       Sánh giữ tôi lại để vào nhà trước cho u tôi bất ngờ. Tới ngõ, thấy bà nội tôi đang lom khom quét sân. Bà tôi đã 80 tuổi, mắt loà rồi. Nghe tiếng Sánh hỏi nhà anh Giống, tiếng khu Bốn trọ trẹ, bà tôi dừng quét, buồn bã:

       - Ai hỏi thằng Giống đấy? Nó đi bộ đội hy sinh rồi còn đâu.

       Nghe bà tôi nói thế, tôi sững người. Tôi chạy vào sân, ôm lấy bà thảng thốt:
       - Bà ơi, cháu về rồi đây mà.

       Bà tôi quăng cái chổi đi rồi rờ rẫm lên mặt, lên lưng tôi. Khi đã nhận ra đúng cháu mình, bà reo lên, nước mắt đặc quánh chảy trên má nhăn nheo:

       - Ôi, đúng là thằng Giống về rồi. Anh Thuỵ ra mà xem con anh về đây này.
       Bố tôi đứng lặng bên bậu cửa, hai tay níu chặt thành cửa như chực ngã. Ông không nói nên lời. Tôi cứ nhìn quanh không thấy vợ tôi đâu. Bố tôi bảo:
       - Vợ con đang ở quê ngoại. Để bố đi đón nó về.

       Nói rồi bố tôi lấy xe đạp đi Thái Bình đón con dâu.

       - Thằng Giống đâu? Thằng Giống đâu? Ôi, thằng Giống đã về rồi đâu…
       U tôi đang đi chợ, nghe tin tôi về, bà bỏ tất cả hàng lại, chạy vội về nhà. Đôi chân u tôi khẳng khiu như díu lại, bước xiêu bước vẹo, người gầy da bọc xương. Tóc u tôi bạc trắng, lưa thưa. Ngày trước, tóc u tôi dài qua gót chân. Mỗi bận chải tóc, u tôi thường phải đứng lên ghế. Anh em tôi cứ quấn vào phủ tóc u lên mặt. Vậy mà mới hai năm tôi nhập ngũ và đi chiến trường, u tôi già đi nhanh quá. Chỉ có ánh mắt sâu thẳm của u chan chứa tình yêu con cái là vẫn thế. Tôi ôm lấy u tôi, sung sướng nghẹn ngào. Chợt u tôi chửi ầm lên:

       - Mẹ cha những đứa độc mồm, nó lại bảo thằng Giống nhà tôi hy sinh rồi. Trời có mắt. Nhà tôi ăn hiền ở lành nên thằng Giống được thần phật phù hộ. Tôi biết mà, con tôi không thể chết được mà...

       Tôi mặc cho u tôi chửi thoả thích. Tôi biết tính u tôi, có chuyện gì là không để trong bụng được, cứ phải nói ra mới thoả lòng. Hồi trẻ, do đẻ mấy anh tôi toàn chết yểu, u tôi hoá điên hơn ba năm mới khỏi. Từ đấy, cứ động không vừa ý điều gì là U tôi chửi rủa, chửi có bài có bản, chửi văn hoa, chửi có vần như vè như thơ, lại kèm động tác vũ điệu hẳn hoi. Có thế U tôi mới bình tĩnh lại được. U tôi sinh ra đồng bóng. Thỉnh thoảng bị kích động thần kinh, u tôi lại nhập đồng. U tôi thuộc làu làu Truyện Kiều, Nhị Độ Mai. U tôi hay làm thơ, phần nhiều là thơ đả kích thói tham nhũng của các vị chức sắc trong làng. Thế mà nhiều người thuộc thơ của u tôi mới lạ chứ. U tôi rất tốt bụng. Chẳng giàu có gì, nhưng u tôi thường nhịn miệng để giúp người nghèo. Dân làng rất quý mến u tôi.

       Thời kháng chiến, u tôi nuôi dấu cán bộ và nhiều con nuôi, lớn lên cho đi du kích. Sau năm 1975, tình cờ một anh cán bộ đi công tác qua làng, đánh rơi ba lô, u tôi nhặt được đem trả lại nguyên vẹn. Anh cán bộ cảm động ở lại chơi một ngày. Biết chuyện u tôi có người con nuôi đi du kích bên Thái Bình rồi không có tin tức gì, anh cán bộ hứa sẽ tìm giúp. Tưởng anh nói chơi, nhưng sau đấy vài tháng anh báo cho u tôi là đã tìm thấy mộ liệt sĩ Đức, con nuôi u tôi. Ông Đức là em con chú con bác với ông nội tôi. Bố tôi phải gọi ông bằng chú xưng cháu. Vì cha mẹ ông mất sớm, khi ông mới 5 tuổi nên bố u tôi đón ông về nuôi, khi lớn cho đi du kích. Năm 1952 ông hy sinh ở Kiến Xương, Thái Bình. Nhận được tin, bố tôi lai u tôi bằng cái xe trâu Liên Xô sang Thái Bình thăm mộ ông Đức. Sau này cũng nhờ có người em nuôi là cán bộ ở huyện làm giúp, bố mẹ tôi được hưởng chế độ thân nhân liệt sĩ.

       Tôi trở về làm u tôi như trẻ lại. U tôi tất bật lo cơm nước. U tôi thể hiện tình yêu con và bạn của con bằng những bữa ăn nhiều món ngon do chính tay u nấu nướng. Mấy đứa em tôi đi học về reo mừng.

       Châu đi Vĩnh Phú nhập trường xong thì xin nghỉ ba ngày về nhà tôi ngay. Đến chiều thì Châu cũng hỏi thăm được tới nơi. Chú Giang, em thứ ba của tôi dẫn hai anh Châu và Sánh đi thăm quan nhà thờ Phú Nhai, chùa Trung, đi xem chợ Trung... Châu và Sánh cứ nắc nỏm "nhà thờ Phú Nhai to", "chùa Trung đẹp thật"...

       Bố tôi sang Thái Bình đón vợ tôi về luôn trong ngày. Vợ tôi vẫn gầy, rỏng rớt y hồi sinh viên. Chúng tôi ôm chặt nhau, không nói nên lời. Khi chưa gặp vợ, tôi có biết bao điều muốn nói, nhưng gặp rồi thì chẳng nói được gì. Lần này hy vọng chúng tôi sẽ có con. U tôi thắp hương rì rầm khấn vái cho vợ chồng tôi. Hẳn lời cầu khẩn của u tôi làm cho thần phật cảm động, vợ tôi nghén con Thanh, đứa con gái đầu lòng của chúng tôi mà tôi yêu quý hơn tất cả trên đời.

       Khế thi tốt nghiệp xong, chưa được bố trí công tác, ở nhà chồng chăn bò, làm ruộng, sống trong lo âu phấp phỏng. Một cậu cùng đơn vị, quê ở Thọ Nghiệp, bị thương nặng được ra Bắc, báo tin cho u tôi biết là tôi đã hy sinh. Cậu ta nói có nhặt được cái sáo khắc tên tôi ở trên chốt. Khế vừa về Thái Bình được hai ngày cho khuây khoả thì tôi trở về.

       Ba ngày ở nhà loáng cái qua đi. Chúng tôi từ biệt gia đình để lên trường. Đến Hà Nội, Châu đi Vĩnh Phú, còn tôi và Sánh đi Sơn Tây. Làm thủ tục nhập học xong, Sánh phải về ngay lớp đào tạo sĩ quan trẻ. Chia tay nhau, chúng tôi đều nghĩ sẽ còn được gặp nhau đều đều, ai ngờ từ đó đến nay chúng tôi chưa một lần gặp lại. Tôi có gửi thư mấy bận về quê Châu và Sánh, nhưng không có hồi âm. Đến nay tôi vẫn không rõ hai đứa có còn không, hay hy sinh trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, hay biên giới Tây Nam rồi. Đã hơn bốn mươi năm qua, hình ảnh hai đứa vẫn đậm nét trong ký ức của tôi.

                                                            *

       Tôi được ban quân lực trường trưng dụng viết danh sách trích ngang học viên vì chữ tôi đẹp. Tới đầu tháng 5 - 1973 tôi mới xong việc và nhận lệnh đi Lương Sơn (Hoà Bình) nhập lớp đào tạo sĩ quan ngắn hạn. Ban chỉ huy Tiểu đoàn xếp tôi vào Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội đào tạo sĩ quan lục quân khoá 35, thời gian một năm (Từ tháng 5 - 1973 đến tháng 5 - 1974). Trung đội trưởng - trung uý Nguyễn Tiến Tề đã ngoài ba mươi tuổi, dẫn chúng tôi lên một quả đồi tranh, chỉ vị trí đóng quân. Toàn đơn vị bắt đầu một tuần làm doanh trại. Chúng tôi chia nhau, người vào rừng chặt gỗ nứa, người cắt cỏ tranh bện thành tấm để lợp mái nhà, người san nền... Sau một tuần công việc cũng đã hoàn thành. Doanh trại của trung đội tôi là một ngôi nhà tranh rộng, dài như nhà kho, hai bên là các dãy giường nứa, chân giường là các cột gỗ chôn xuống đất, ván giường là nứa đan thành liếp. Từng tổ ba người, từng tiểu đội được bố trí vào vị trí nhất định. Súng đạn, bát đũa, bàn chải đánh răng, mũ, áo... tất cả đều có giá để theo quy định. Hiệu lệnh ăn cơm, báo thức, báo động, báo họp, báo luyện tập... đều dùng cái kẻng là vỏ một quả bom Mỹ. Một ngày bình thường của chúng tôi như sau:

       5 giờ báo thức, tập thể dục tập thể; 5 giờ 30 vệ sinh cá nhân; 5 giờ 45 ăn sáng; 6 giờ 30 nghe đọc báo; 7 giờ bắt đầu học tập hoặc tập luyện; 11 giờ 30 nghỉ ăn trưa đến 12 giờ; 12 giờ 15 ngủ trưa; 13 giờ 15 báo thức, vệ sinh cá nhân; 13 giờ 30 học tập; 17 giờ 30 chơi thể thao đến 18 giờ thì ăn tối; 19 giờ sinh hoạt tối; 21 giờ nghe đọc truyện hoặc bản tin trên loa của đại đội; 21 giờ 30 đi ngủ; 22 giờ trực ban đi kiểm tra.

       Chúng tôi học nhiều môn quân sự như công tác tham mưu, chỉ huy hiệp đồng tác chiến, chiến thuật quân sự, tính năng tác dụng và sử dụng các loại vũ khí, công tác chính trị, công tác Đảng... Thời gian và công việc luyện tập của chúng tôi rất căng thẳng và nặng. Người ta gọi trường chúng tôi là trường “luộc quân” mà. Tôi gầy yếu nhất đại đội, nhưng cố theo kịp mọi người. Khả năng văn nghệ và làm báo của tôi được sử dụng triệt để. Những đêm liên hoan giao lưu với nhân dân địa phương, tiết mục độc tấu sáo trúc (bài Anh vẫn hành quân, Lý hoài nam, Trên đường chiến thắng) và đơn ca (hai bài "tủ" là Anh quân bưu vui tính, Tôi là Lê anh nuôi) của tôi là một trong những tiết mục được hoan nghênh nhất, thường phải biểu diễn lại hai ba lần.

       Cuối tháng 5 - 1973, u tôi dẫn con dâu lên thăm con trai. Nhà khách đơn vị bên ngoài doanh trại, là nhà tranh vách đất, được ngăn ra từng buồng nhỏ. Người nhà của lính được đón tiếp chu đáo, được mượn chăn màn và các dụng cụ sinh hoạt, được cấp suất ăn hàng ngày theo chế độ. U tôi mừng rỡ cho tôi biết là bà sắp có cháu nội rồi. Khế báo tin đã có giấy gọi đi nhận công tác ở tỉnh Ninh Bình. Hàng ngày tôi vẫn phải đi học tập, chỉ buổi tối mới được ra khỏi doanh trại sau sinh hoạt tối. Tôi thức tới khuya để chuyện trò với u. Đêm, tôi sờ bụng Khế cảm thấy con tôi đang lớn. Tôi sung sướng không tả nổi. Thầm trong lòng, tôi mong có con trai. Đời người lính chiến, biết thế nào…

 

       Ngày 22 - 6 - 1973 âm lịch, tôi có điện báo bố vợ mất. Đơn vị không giải quyết cho tôi đi phép. Tôi buồn bã và suy nghĩ mung lung đến đãng trí. Khi tổ chức chi đoàn đại hội, tôi quên cả hô chào cờ, chính trị viên phải luôn nhắc nhở. Chính trị viên, đại đội trưởng, trung đội trưởng thay nhau làm công tác tư tưởng, động viên nhưng tôi không sao nguôi ngoai được. Bố vợ tôi bề ngoài trông rất nghiêm, nhưng ông rất yêu con cái. Ngày tôi về lần đầu, ông bà giữ con gái, không cho tôi ra ruộng hái dâu cùng Khế. Nghỉ hè năm thứ nhất, tôi sang nhà chơi định cùng Khế đi xe đạp lên trường. Đáng lẽ ngủ luôn ở nhà Khế, tôi lại bỏ sang thành phố Nam Định. Sáng sau chờ đến 9 giờ không thấy Khế, tôi sốt ruột đạp xe sang nhà. Tới Quán Chuột, gặp ông cũng đang đạp xe về. Ông bảo:

- Cái Khế vừa đi rồi, anh đuổi theo cùng nó lên trường đi.

       Tôi chỉ kịp đáp một tiếng “Vâng ạ” rồi phóng theo hướng Hà Nội. Qua thành phố ba cây số thì gặp Khế. Bữa ấy chúng tôi đạp xe đến tối. Kỳ nghỉ ấy, nước sông Hồng lên to ngập lụt lớn, ông cụ phải thân hành đưa cô con gái rượu qua phà Tân Đệ.

       Khế kể, khi ông sắp mất, Khế đang có mang con Thanh. Lúc Khế ngồi bên ông, ông cứ hỏi:

- Đứa bé gái nào nó ngồi bên mày thế?

       Khế ngạc nhiên và bảo:

- Chẳng có ai ngoài con.

       Nhưng ông nhất quyết là có đứa trẻ con ngồi bên cạnh Khế. Sau này Khế đẻ con Thanh, mọi người mới giật mình: Thì ra ông đã nhìn thấy cháu ngoại ngay khi nó còn trong bụng mẹ.

 

       Tháng 10 - 1973, đại đội tôi xảy ra chuyện. Số là một cậu lính để cái đài National ở doanh trại, cùng toàn đơn vị ra thao trường tập bắn đêm, khi về thì không thấy cái đài. Ban chỉ huy đại đội lập danh sách những người xin phép ra ngoài trong buổi tập, yêu cầu tự giác nhận và trả lại đài cho đồng đội, vì chỉ có người trong đơn vị mới biết và mới ra vào được doanh trại. Trường hợp người dân vào ăn trộm bị loại trừ. Cả 7 người trong nghi án đều không nhận. Bắt viết tường trình tới ba lần không kết quả, ban chỉ huy tuyên bố sẽ kỷ luật cả 7 người. Tháng sau, có quyết định trả 7 người về đơn vị cũ với lý do “không đủ tiêu chuẩn học sĩ quan”. Tôi thương những đồng chí bị kỷ luật nhưng không biết làm thế nào. Quả thật, kỷ luật ở đây vô cùng khắc nghiệt. Không ngờ đến lúc chính tôi cũng rơi vào số phận tương tự. Sau này tình cờ tôi gặp hai trong số bị kỷ luật: Một người trở về làm nông dân quê ở Vĩnh Phú, một người tên là Thắng về sản xuất bánh nướng ở phố Hoàng Văn Thụ thành phố Nam Định. Gặp tôi, các bạn mừng rỡ như gặp người ruột thịt, cùng ôn lại những kỷ niệm về trường sĩ quan lục quân. Dường như chuyện xử lý bất công của ban chỉ huy ngày ấy không làm họ tức giận, họ chỉ nhớ những kỷ niệm đẹp mà thôi.

       Khoảng cuối năm 1973, chi bộ đại đội đề nghị trên xét kết nạp tôi vào đảng, nhưng việc không thành vì sau đó không lâu tôi bị kỷ luật. Chúng tôi vào đợt dã ngoại dài ngày. Một lần đeo 35 kg gạch, mang theo khẩu CKC và 3 quả lựu đạn gang, hành quân vượt núi, tôi bỗng nôn thốc nôn tháo, máu ướt đẫm ngực và ngất xỉu. Trung đội trưởng Tề và Đại đội phó Náo trực tiếp đưa tôi xuống núi, ra đường số 6, bắt xe tải về Sơn Tây, giao cho một cậu lính đưa tôi đi Bệnh xá của trường. Được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, tôi khoẻ lại. Tôi được xác định là bị viêm loét dạ dày và hành tá tràng. Thể trạng tôi lúc này có 36 kg nên phải an dưỡng sau một thời gian mới có thể mổ. Nhưng khi tôi hồi phục sức khoẻ, khám lại, các vết loét đã ổn định, không cần thiết phải mổ nữa. Tôi xin ra viện.

       Đi xe khách về tới Hà Nội, đáng lẽ đi Hoà Bình thì tôi lại nhảy tàu về Nam Định. Linh tính cho tôi biết có sự kiện lớn đã diễn ra đối với tôi. Tới Nam Định, không còn xe về Giao Thuỷ, tôi đi bộ liền 3 tiếng sang nhà bố mẹ vợ. Tới nhà, thấy giữa nhà có đống lửa củi xương đay, tôi ngờ ngợ có chuyện bất bình thường. Trông thấy tôi, bà ngoại vui vẻ báo tin luôn:

       - Vợ anh đã đẻ con gái rồi.

       Bà đưa cháu qua đống lửa cho tôi. Con bé đỏ hỏn, luôn kéo tay lên mút. Ôi! Mình vẫn cứ tâm niệm có con trai. Như đọc được suy nghĩ của tôi, bà ngoại bảo:

- Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng.

       Tôi ôm xiết con bé vào lòng, ôm luôn cả vợ. Vợ tôi bảo :

- Khai sinh cho con tên là Thanh.

       Từ đây, Trần Thị Thanh là cái tên thương mến và đẹp nhất đối với tôi. Khế xanh xao, yếu ớt, vẫn gầy như trước. Tôi không sao nói được ra lời rằng tôi yêu Khế vô cùng. Gần đến ngày sinh, Khế xin nghỉ phép về nhà, đến Nam Định thấy đau bụng liền về nhà mẹ đẻ cho gần. Về nhà rồi đi trạm xá xã đẻ. Đó là ngày 12 - 1 - 1974. Hai ngày sau tôi có mặt ở nhà và quyết định bỏ đơn vị 7 ngày để gần vợ con.

       Tưởng đơn vị không biết ngày tôi ra viện, tôi chữa ngày xuất viện cho hợp lý. Nhưng hoá ra khi tôi ra viện, bệnh xá đã điện về báo cho đơn vị biết. Đó là quy định chung để quản lý chiến sĩ. Lên đơn vị sau một tuần yên ổn, tôi bị chính trị viên gọi lên và gợi ý nhận khuyết điểm, làm kiểm điểm. Tôi hoảng lên, phen này bị đuổi về đơn vị thì còn mặt mũi nào. Tôi kiểm điểm tới ba lần, thành khẩn nói đúng sự thật. Tiểu đội, trung đội, rồi chi đoàn lần lượt tổ chức sinh hoạt kiểm điểm tôi để giáo dục chung. Mọi người phê phán nghiêm khắc, phân tích sai phạm của tôi, nhưng hầu hết đều yêu quý tôi và đều thừa nhận tôi là chiến sĩ tốt, có nhiều đóng góp cho đơn vị nhất là kết quả học tập và văn nghệ. Cuối cùng tôi bị cảnh cáo trước tiểu đoàn. Cuối khoá tôi bị xếp vào loại yếu của Đại đội, chỉ phong hàm Chuẩn uý cùng 10 người khác, trong khi tất cả là Thiếu uý và có một số Trung uý. Phạm Văn Đỡ cùng tiểu đoàn với tôi, là anh hùng nên được trao hàm Thượng uý. Anh em tỏ ra ái ngại cho tôi thiệt thòi, nhưng tôi lại lấy làm mừng vì mức kỷ luật như thế còn là nhẹ hơn nhiều những trường hợp khác.

 

       Tháng 5 - 1974. Tổng kết khoá học xong chúng tôi được nghỉ 7 ngày thăm nhà trước khi nhận nhiệm vụ mới. Tôi về thăm bố u một ngày, hôm sau đi Thái Bình thắp hương bố vợ rồi vào ngay Ninh Bình thăm vợ con. Thư viện Ninh Bình sơ tán ở động Thiên Tôn cách thị xã 8 km. Xuống xe ở thị xã Ninh Bình, tôi đi bộ một mạch tới động Thiên Tôn. Ông Hồng đang bế con Thanh liền giơ con bé cho tôi. Con bé cười toét miệng. Tôi ôm xiết con bé, hôn hít khắp người làm nó cười như nắc nẻ. Hồi chưa hết sài, con Thanh quấy khóc suốt đêm tới ba tháng mới thôi. Các chú bộ đội thuộc tỉnh đội Ninh Bình đóng bên cạnh thư viện thường sang “xem con chàn chạt nó thế nào mà khóc ghê thế?”. Khế thường cho con Thanh nằm úp trên ngực mà dỗ nó, thành ra nó quen, hễ đặt nó xuống là nó khóc. Có lần con bé đái dầm ướt đẫm ngực bố. Tôi nằm thật im, cảm nhận dòng nước đái nóng hổi của con chảy xuống bụng, sợ làm con bé giật mình đái không hết.

       Hai mẹ con Khế ở trong gian nhà lá 6 mét vuông. Bà ngoại thuê một người đi giúp việc cho Khế. Tất cả trông vào đồng lương tập sự nên mẹ con Khế gặp rất nhiều khó khăn. Ngày ấy người ta quản lý lương thực rất chặt. Ra đường khó kiếm được bánh trái vì có lệnh cấm. Khế đưa bố con tôi đi chụp hình. Hết phép, tôi tạm biệt vợ con đi Lương Sơn Hoà Bình để nhận nhiệm vụ với tấm ảnh vợ con trong túi áo ngực. Không biết nhiệm vụ tới của tôi là vào Nam hay ở Bắc?

 

 

                 BẢO VỆ BIÊN GIỚI

 

       Khi tôi trở lại đơn vị ở Lương Sơn thì phần lớn số học viên đã được đơn vị cũ đón về. Tôi trong số hơn một chục học viên “yếu kém” về trình độ hoặc ý thức tổ chức kỷ luật của đại đội, hàm chuẩn uý, được điều về đơn vị huấn luyện - Sư đoàn 338 đóng tại Thậm Thình - Vĩnh Phú. Cuối tháng 6 - 1974 chúng tôi tới sư đoàn bộ. Tôi được điều về làm trung đội trưởng B1, C10, D9, E102 đang làm nhiệm vụ xây dựng đường tàu bắc công trình cầu Thăng Long. Trung đội phó B1 đang phụ trách đơn vị, người Hưng Yên, đã 38 tuổi, thượng sĩ Đông Dương. Chúng tôi gọi những người lính giữ hàm Thượng sĩ lâu năm, không phát triển là thượng sĩ Đông Dương. Khi tôi về nhận chức B trưởng thì anh lại trở lại vị trí phó cho tôi. Anh trút nỗi bực dọc vì không được phát triển lên tôi bằng cách thờ ơ với công việc, mặc tôi xoay xở. Có khi anh còn nhè lúc tôi khuyết điểm mà hết lời phê phán tôi trước tập thể. Tôi nể và thương anh vì đi bộ đội đã nhiều năm, chiến đấu trong Nam, sang Lào mãi mà vẫn kẹt ở Thượng sĩ. Dần dà rồi anh cũng nhận ra sai lầm của mình và nhiệt tình giúp tôi trong quản lý đơn vị.

       Tháng 10 - 1974 chúng tôi đóng quân ở xã Kim Lỗ, huyện Đông Anh và tham gia xây dựng cầu Thăng Long, công việc chủ yếu là đắp đường tàu. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Thanh Biền người Thanh Hoá, chính trị viên trưởng là anh Bùi Đình Cử người ở cầu Khuốt (Ninh Bình). Trung đội tôi luôn dẫn đầu về năng suất và kỷ luật. Lúc đầu giao mức 0,6 m3 người / ngày, sau tăng dần lên 2 m3 người / ngày mà chúng tôi vẫn luôn vượt định mức. Cuối năm tôi được cấp giấy khen.

       Ngày 2 - 10 - 1975 tôi được kết nạp vào Đảng, thời gian dự bị 9 tháng. Chuyển Đảng chính thức vào ngày 2 - 7 - 1976. Là người chỉ huy đơn vị trong quân đội nhân dân Việt Nam, vào Đảng là tất yếu. Nhiều khi tôi tự ái: Mình là cấp trưởng lại bị cấp phó truyền đạt nghị quyết chi bộ thì nó thế nào ấy. Điều đó cũng là động lực giúp tôi phấn đấu…

          Cuối năm Khế gửi con Thanh về ông bà nội để lên thăm tôi. Đơn vị bố trí cho vợ chồng tôi ở nhờ nhà trẻ xã Kim Lỗ, huyện Đông Anh (Hà Nội). Mấy ngày hạnh phúc trôi đi nhanh chóng, tôi lại bị cuốn vào lao động. Mấy chuyện không quên xảy ra trong đơn vị tôi ngày ở xã Kim Lỗ. Chính trị viên Bùi đình Cử lấy vợ nơi đóng quân, cưới ở quê. Nhân về phép thăm vợ con ở động Thiên Tôn, Ninh Bình đúng dịp Cử cưới vợ, tôi thay mặt đơn vị tới mừng. Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Biền cưới vợ người cùng quê công tác ở Công ty cầu Thăng Long. Cháu bà chủ nhà tôi trọ ngã xuống ao. Hôm ấy tôi sốt nằm ở nhà đã kịp vớt cháu bé hai tuổi đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện huyện Đông Anh.

       Tháng 8 - 1976 Khế sinh thằng Hưng ở quê nội. Tôi không được về thăm đứa con thứ hai khi nó mới ra đời vì phải nhận nhiệm vụ về sư đoàn bộ làm trợ lý câu lạc bộ thay anh Phan Đức Luận chuyển ngành về quê. Sau anh Luận làm Giám đốc Sở văn hoá thông tin kiêm Chủ tịch hội văn học nghệ thuật Kon Tum. Năm 2000 anh qua Sở Văn hoá Thông tin Nam Định, tôi có gặp lại anh, rất mừng. Trưởng ban tuyên huấn là chú Thiêm, ở xã Xuân Bắc cách nhà tôi 1 km. Sau chú về hưu và mất ở quê.

       Bộ phận nhà văn hoá tôi phụ trách gồm 2 đội chiếu phim (một 35 ly và một 16 ly), hai đội văn nghệ (một chuyên nghiệp và một bán chuyên nghiệp), thư viện, kho hàng hoá câu lạc bộ. Tôi về làm bộ mặt nhà văn hoá sư đoàn khởi sắc. Hoạt động chiếu phim sôi nổi hẳn, văn nghệ đoạt nhiều giải cao, hệ thống thư viện từ sư đoàn tới cơ sở vào nề nếp. Tôi mở nhiều lớp nghiệp vụ thư viện, thanh nhạc, sân khấu, nhiếp ảnh. Thư viện sư đoàn 338 được nhiều đơn vị bạn về học tập. Những chiến sĩ mà tôi không thể quên: chiến sĩ gái Nguyễn Thị Kiểu ở Kinh Môn Hải Dương giữ thư viện, được vào Đảng và sau xây dựng gia đình với cậu Dũng phụ trách máy nổ cùng trong câu lạc bộ của chúng tôi, quê Chí Linh. Dũng lái xe phim đội 16 ly quê ở Phủ Lý. Trần Phú Lộc cùng quê tôi lái xe phim đội 35 ly. Nguyễn Hoà thuyết minh phim người Hà Nội, còn gọi là Hoà Voi (vì Hoà hay hát bài Con Voi). Hiện nay Hòa là nhà phê bình văn học, công tác ở Nhà văn hoá quân đội, rồi Tạp chí Văn nghệ quân đôi, sau chuyển ngành làm ở báo Nhân dân. Nông Văn Tài lính thợ chữa đài, sau là Đại tá Tư lệnh phó Đoàn 338. Những cán bộ cùng Ban tuyên huấn với tôi có Nguyễn Quý Chiến quê Hồng Quang (Nam Trực) sau này là đại tá công tác ở Cục địch vận Tổng cục chính trị, Đào Trọng Mừng trợ lý giáo dục sau là đại tá Phó Cục trưởng Cục chính trị, Lê Văn Bôn trợ lý tuyên huấn, sau là Đại tá Tiến sĩ triết học, Phạm Trá trợ lý tuyên truyền, anh Nguyễn Thanh Cầm thay chú Thiêm làm trưởng ban Tuyên huấn F338 cũng đã nghỉ hưu... Nhìn lại chiến sĩ dưới quyền và bạn bè cùng ban ngày ấy nay đều đã trưởng thành cả, riêng mình chậm tiến nhất.

       Từ khi làm trợ lý ban tuyên huấn sư đoàn 338, tôi có nhiều dịp về thăm vợ con. Hàng năm hai, ba lần tôi về Nam Định kết hợp mua văn hoá phẩm, dụng cụ câu lạc bộ về cấp cho các đơn vị cơ sở. Cuối năm 1976 sát nhập Nam Hà với Ninh Bình, vợ tôi được chuyển về Nam Định. Ba mẹ con ở trong gian nhà 8m2 lợp giấy dầu, mùa đông lạnh, mùa hè nóng, chật chội không thể tả. Tôi thương vợ con nhưng không biết làm thế nào. Các con tôi cứ vô tư lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn của bố mẹ. Con Thanh đẹp như công chúa nhỏ. Lần chú Giang đưa nó lên đơn vị tôi ở Thậm Thình, nó ở với bố 1 tháng, cả đơn vị yêu quý chăm sóc nó. Tôi đi công tác một tuần, gửi nó sang các cô thông tin. Khi về, đón nó, tôi hôn nó, nó bảo :

- Ra ngõ đã rồi bố hẵng hôn con kẻo các cô trông thấy.

       Còn thằng Hưng béo, ngây thơ đến lạ.

       Năm 1978, mãi không thấy được phong quân hàm trong khi những bạn cùng lứa đã hai lần lên sao, có người vượt cấp, tôi thắc mắc với ban cán bộ thì hoá ra người ta cứ yên tâm tôi là quân nhân chuyên nghiệp. Lúc này họ mới vội vàng đề nghị phong tôi lên thiếu uý.

       Giữa năm 1978, tôi đang nghỉ phép ở Nam Định thì nhận điện báo về thẳng Tổng cục Kinh tế học lớp bảo tàng - truyền thống, thời gian ba tháng. Cuối năm 1978 chúng tôi chuyển quân lên Đình Lập (thuộc Hà Bắc, sau cắt về Lạng Sơn) chuẩn bị chống Tàu. Cần nói là trong năm 1978 tôi bị chuyển đi chuyển lại giữa Ban Tuyên huấn với Ban Cán bộ. Từ Ban Tuyến huấn sang Ban Cán bộ chưa nóng chỗ, người ta lại chuyển tôi về Ban Tuyên huấn vì người thay tôi phụ trách câu lạc bộ đã không biết làm thế nào điều hành công việc, và lính tráng cũng coi thường không chấp hành. Trong thời gian công tác ở Ban Tuyên huấn, tôi đã sưu tầm được một số tư liệu, sự kiện làm cơ sở cho việc biên soạn lịch sử F338. Khi tôi chuyển ngành đã bàn giao lại toàn bộ tài liệu cho người thay thế tôi.

 

       Tháng 2 - 1979, đơn vị tôi tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt trên toàn khu vực sư đoàn đảm nhiệm. Một số trợ lý sư đoàn đã phải xuống đơn vị trực tiếp chỉ huy chiến đấu, thay những đồng chí hy sinh. Cách nơi đang diễn ra cuộc chiến đấu không xa, mọi sinh hoạt vẫn sôi động. Dân công hoả tuyến, bộ đội phục vụ chiến đấu nườm nượp xuôi ngược, tiếng cười vẫn vang lên đây đó.

       Mọi hoạt động của nhà văn hoá được duy trì như thời bình. Hai đội văn nghệ, hai đội chiếu phim thay phiên lần lượt tiếp cận chốt phục vụ chiến sĩ. Tôi đã chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng xuống đơn vị chiến đấu khi có lệnh điều động, nhưng chưa có dịp xuống đơn vị thì cuộc chiến đột ngột kết thúc.

 

 

                        CHUYỂN NGÀNH

 

       Sau cuộc chiến tranh biên giới, sư đoàn củng cố tổ chức. Những cán bộ giữ chức vụ nào hoàn thành tốt nhiệm vụ sau hai năm sẽ được đề bạt quân hàm tương đương với chức vụ đó. Tôi tin là mình sẽ được phong hàm phù hợp với chức trợ lý cấp sư đoàn, nhưng chờ mãi đến tháng 10 - 1980 vẫn không thấy gì, trong lúc đó hầu hết các trợ lý khác đã nhận quân hàm mới. Tôi cảm thấy lòng buồn khôn tả.

       Ban chi uỷ tăng cường một uỷ viên mới. Anh Cầm, trưởng ban tuyên huấn động viên tôi vào ban chi uỷ, nhưng tôi không bụng dạ nào nữa. Anh Cầm, anh Mừng chỉ còn biết lắc đầu và để tôi tự quyết định đời mình.

       Tôi trực tiếp hỏi Phó tư lệnh phụ trách chính trị Nhất Trí về việc tôi không được phong hàm theo chức. Ông thực thà cho tôi biết lý do tôi bị ban lãnh đạo sư đoàn gạch tên trong danh sách đề nghị phong hàm theo chức là “sức khoẻ yếu, chưa qua trường đào tạo sĩ quan, chưa trực tiếp chiến đấu, tác phong còn gia đình chủ nghĩa”. Nghe ông nói vậy, tôi bèn đem tất cả giấy tờ liên quan trình ông:

      - Không trực tiếp chiến đấu thì sao nhà nước lại cấp cho tôi Huân chương chiến công giải phóng, dũng sĩ quyết thắng? Không qua trường lớp thì bằng tốt nghiệp sĩ quan lục quân này là thế nào? Tác phong gia đình chủ nghĩa thì đã sao khi mà đơn vị liên tục được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, và tại sao lại cấp giấy khen hàng năm cho tôi do chính Phó tư lệnh Nguyễn Đức Đệ ký? Sức khoẻ tôi yếu ư, đúng thế. Vì sức khoẻ mà không phát triển được thì cho tôi được hưởng chính sách...

       Kiên nhẫn nghe tôi nói một thôi một hồi, xem kỹ các giấy tờ của tôi xong, ông Trí bảo:

       - Tôi cũng người Hà Nam Ninh, cùng quê với đồng chí. Tôi rất tiếc là do mới về nhận chức nên không nắm được tình hình, mọi việc ban lãnh đạo quyết định thực ra đều do Chính uỷ Nguyễn Đức Đệ đề xuất. Thay mặt ban lãnh đạo sư đoàn, tôi xin lỗi đồng chí vì sự sơ xuất này. Tôi hứa sẽ đề bạt đồng chí vào năm sau.

       Nhưng tôi không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi. Ngay sau lần gặp Phó Tư lệnh Nhất Trí, tôi báo cáo trưởng ban tuyến huấn sư đoàn xin ra quân. Một cậu bạn trong Ban cán bộ rỉ tai cho biết vài câu chuyện.

       Biết uẩn khúc của sự việc, tôi càng quyết tâm xin ra quân. Nghĩ kỹ, tôi không giận ai cả, mà lại thấy vui vì nhờ chuyện va vấp của tôi mà tôi được trở lại trường đại học.

       Tháng 12 - 1980  Sư đoàn đã quyết định cho tôi ra quân.

 

*

 

       Sau khi liên hoan chia tay với ban tuyên huấn và bộ phận văn nghệ, câu lạc bộ, tôi ra bắt xe tải về Hà Nội. Bất ngờ, một trợ lý nhà văn hoá quân khu xuống sư đoàn xin tôi về làm trợ lý. Anh lấy làm tiếc vì tôi đã có quyết định ra quân. Anh vớt vát:

       - Được biết năng lực của đồng chí từ lâu, lãnh đạo nhà văn hoá quân khu muốn lấy đồng chí về làm trợ lý. Nếu đồng chí đồng ý, chúng tôi sẽ can thiệp với Bộ tư lệnh xin đổi quyết định. Trước mắt sẽ đề nghị quân khu phong thượng uý cho đồng chí vì đó là quyền hạn cao nhất của quân khu, còn có gì sang năm sẽ giải quyết tiếp.

       Tôi cám ơn anh cán bộ quân khu và dứt khoát ra quân. Chúng tôi đi nhờ xe tải của đơn vị về Thái Nguyên. Từ Thái Nguyên tôi đi xe khách về Hà Nội và vào luôn Trường Cao đẳng văn hoá. Gặp Tình, Du, Chương, Liễu là các bạn cùng lớp K6 ngày nào, nay họ đều là cán bộ giáo viên của trường. Tất cả đều nhiệt tình đón tiếp tôi.

 

       Hăm hở ra quân, nhưng hoá ra từ trong sâu thẳm đáy lòng, tôi gắn bó với môi trường quân đội biết nhường nào. Nhiều năm sau này tôi vẫn luôn hoài niệm về những ngày tháng gian khổ đáng nhớ trong quân ngũ.

 Tôi trằn trọc cả đêm và suy nghĩ miên man. Những khốn khó trong đời sống thời bao cấp thì tôi có thể mường tượng được. Nhưng khi ấy tôi không hề nghĩ rằng hai chục năm sau tôi trở thành một nhà nghiên cứu trung thực với nhiều bài viết in trên báo chí và là tác giả và đồng tác giả vài chục đầu sách nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không hề dám nghĩ mình sẽ là hội viên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Tôi từ bỏ cơ hội làm Giám đốc Thư viện tỉnh mới chia tách với suất đất vài chục cây vàng để có thời gian cho công tác nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không nghĩ rằng mình sẽ là thư viện viên chính và giáo viên thỉnh giảng lâu năm của trường văn hóa nghệ thuật, góp phần đào tạo nhiều cán bộ thư viện tương lai. Sau này khi đã nghỉ hưu, tôi càng hiểu giá trị của những năm tháng sống trong quân ngũ. Những thành quả mà tôi có được chính là nhờ tính kỷ luật, quyết tâm vượt mọi gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ đã hình thành trong thời kỳ mặc áo lính. Nếu như thời đi học là thời gian tôi sống vô tư trong sáng nhất cuộc đời, thì những năm tháng trong quân đội là thời gian sống đẹp nhất, đáng tự hào nhất và cũng nhiều trăn trở nhất của tôi.

 

       Một bước ngoặt mới trong cuộc đời, một thời kỳ mới đầy khó khăn, đau khổ và hạnh phúc, những thử thách cam go trong cuộc sống đời thường khác xa với cuộc sống trong quân đội, sự đấu tranh trong tư tưởng để rũ bỏ tất cả ham muốn phù phiếm mà vượt lên thanh thản đang chờ đón tôi... Hạnh phúc và đau khổ dường như là chị em sinh đôi luôn song hành với mỗi con người.

 

 

              TRỞ VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC

 

       Về với vợ con hai ngày, tôi lại ngược Hà Nội lo nhập học. Việc nhập học của tôi cũng gặp khó khăn. Số là từ sau khoá Đại học Thư viện 9, Trường Cao đẳng Văn hoá bàn giao Khoa thư viện cho Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp đảm nhiệm. Đến năm 1980 bên Tổng hợp lại trả Khoa Thư viện về Trường Văn hoá. Khi tôi chuyển ngành thì trường Tổng hợp chỉ còn một khoá cuối cùng đang chuẩn bị thi tốt nghiệp. Lúc này Trường Văn hoá hiện có hai lớp (một chính quy và một chuyên tu) đều là năm thứ nhất. Do tôi nguyên là sinh viên chính quy nên Phòng Tổ chức Trường Văn hoá xếp tôi vào lớp chính quy năm thứ nhất vì không có lớp năm thứ tư. Tôi xin chuyển sang trường Tổng hợp dự thi luôn với khoá năm thứ tư, nhưng bên Tổng hợp không chấp nhận với lý do tôi không phải sinh viên của họ đi bộ đội, mà là của Trường Văn hoá. Tôi cầu cứu Phạm Hữu Du, bạn cùng lớp K6 hiện là giảng viên của trường. Du nhiệt tình tham mưu và trực tiếp dẫn tôi đến nhà nguyên Đại tá Rưu hiện là Hiệu trưởng của trường Văn hoá, xin cho tôi học lớp chuyên tu để tiết kiệm thời gian. Nếu học lớp chuyên tu, tôi chỉ mất 2 năm rưỡi. Ông hiệu trưởng đồng ý và viết giấy yêu cầu phòng tổ chức làm thủ tục cho tôi được học lớp chuyên tu. Tôi nhập học lớp Đại học chuyên tu thư viện khi lớp đã học được hai tháng.

       Hai cán bộ thư viện Nam Định là Đoàn Kim Dung và Trần Thị Thái cũng học lớp chuyên tu. Mẹ Thái là chị mẹ cả tôi, nên theo thứ bậc tôi phải gọi Thái bằng chị. Hồi nhỏ chị Thái cùng học với tôi, hết lớp 7 chị đi thanh niên xung phong. Năm tôi vào đại học thì chị chuyển ngành và thi đỗ vào lớp trung cấp thư viện cùng trường với tôi. Dung người Cổ Lễ, cũng học cùng lớp trung cấp với chị Thái. Khi tôi đi bộ đội thì hai người về công tác ở Thư viện Nam Định. Và bây giờ cả hai người cùng học lớp đại học chuyên tu thư viện với tôi.

       Chị Thái rủ thêm chị Hợp và tôi góp gạo thổi cơm chung.

       Tôi học rất nhàn vì toàn là học lại. Tuy nhiên tôi rất chăm học, không bỏ buổi lên lớp nào. Tình, Du, Chương là giáo viên. Tôi thường bảo các bạn:

       - Các ông cứ chấm bài mình thực chất như với người khác để tránh tiếng ưu ái bạn bè, đạt điểm nào thì cho điểm ấy.

       Anh Chương dạy Mỹ học bảo:

       - Mình chấm bài của Giống là thực chất theo va-rem, chứ không ưu ái đâu.

       Quả thật không chỉ các môn của Du, Tình, Chương mà tất cả các môn khác tôi đều được điểm khá giỏi. Cả khoá, tôi không có điểm trung bình. Một số học viên cao tuổi thường nhờ tôi làm hộ đáp án các môn học. Từ năm thứ hai, tôi làm lớp phó phụ trách học tập. Tôi say mê soạn đáp án, chuẩn bị các tình huống hỏi thêm và câu trả lời của các môn học, rồi hướng dẫn cho bạn cao tuổi tham khảo.

       Tính bộc trực, thẳng thắn, thương yêu và nhiệt tình với mọi người được rèn luyện trong quân ngũ của tôi làm cho nhiều người yêu quý, nhưng cũng bị nhiều người đố kỵ, gây cho tôi không ít phiền hà. Sau này tôi mới rút ra bài học, lòng tốt thái quá nhiều khi cũng không có lợi. Tôi tỏ ra thân với chị Hợp hơn mọi người. Đơn giản là chị ăn chung với tôi. Lần chị mời tôi và Tưởng, người Ninh Bình, là lớp trưởng, về nhà chị chơi, ông thân sinh ra chị tâm sự chuyện đời riêng chị thật đáng thương. Chị cưới được ba ngày thì chồng đi B và hy sinh. Chị nhận một đứa trẻ bị bỏ rơi làm con nuôi. Ông cụ tha thiết nhờ chúng tôi giúp chị học thành đạt để chị đỡ khổ sau này. Sau bữa ấy ba tháng, ông cụ mất. Tôi và Tưởng thay mặt ban cán sự lớp về viếng ông cụ. Thấy tôi thân với chị Hợp, có người trong lớp nghi tôi ngoại tình… về Nam Định nói với vợ tôi. Vợ tôi nổi máu ghen, lên trường làm cho ra nhẽ. Khi Khế lên trường, tôi phải mời anh Công là Bí thư chi bộ giải thích là chuyện không có gì, tôi vẫn là Đảng viên loại một và được nhận giấy khen học sinh tiên tiến.

       Khi thi vấn đáp môn lý luận văn học, đến lượt tôi, giáo sư Nguyễn Văn Vĩnh chẳng hỏi tôi câu nào, cho tôi luôn 9 điểm. Năm 1971 tôi học lớp đại học K6, cũng môn này, ông đã từng cho tôi 9 điểm. Ông thường rủ chúng tôi đánh cờ tướng. Chả biết có thật hay là để trêu thầy Vĩnh, cánh giáo viên và học sinh mê cờ hay kể giai thoại về ông như sau:

Vợ giáo sư Vĩnh làm ca bận nên giao cho hai bố con ông thay nhau nấu cơm. Có hôm mải mê cờ, đến giờ phải làm bữa, ông thí thỏn con trai:

       - Con nấu hộ bố bữa nay, mai bố làm trả cho bài văn.

       Thằng con ông đồng ý. Mấy hôm sau nó vừa khóc vừa đưa bài văn bố làm hộ cho ông xem. Bài văn được cô giáo cho điểm 2 với lời phê “Lạc đề”. Ông cáu, hỏi con:

- Cô giáo con là cô nào mà lại giám cho bài của giáo sư Vĩnh 2 điểm, lại còn phê lạc đề mới láo chứ!

         Ông vốn là giáo sư giỏi, bạn cùng học với nhà văn Hà Minh Đức cơ mà. Khi biết ông chính là thày dạy của mình hồi học đại học, cô giáo của con ông vội vã đến xin lỗi ông. 

       Lê Thanh Tình đồng môn K6 với tôi, giờ đã là Trường phòng hành chính tổng hợp Trường Cao đẳng Văn hóa. Vợ chồng Lê Thanh Tình thường mời tôi xuống nhà ăn cơm. Một lần anh Đào Trọng Mừng cùng đơn vị cũ về Hà Nội công tác nhờ tôi mượn cho cái xe đạp để đi lại cho tiện trong vài ngày. Tôi mượn Tình cái xe đạp Liên Xô cho anh Mừng. Anh Mừng dùng chục ngày mới trả. Hồi ấy có cái xe đạp là quý lắm rồi. Khi trả xe, tôi đùa hỏi vợ chồng Tình, Mười:

       - Cả nhà có cái xe đạp, tôi mượn cả chục ngày, hẳn ông bà không thể yêu quý tôi được như trước, đúng không?

       Mười thật thà:

       - Kể không có xe đi lại cũng vất thật, nhưng em chả bực bõ gì đâu. Vẫn yêu quý anh thế mà.

       Hai thằng con Tình, Mười trạc tuổi anh em thằng Hưng, Minh nhà tôi. Chiều chiều tôi thường chơi chọi cỏ gà với đứa lớn.

       Hai mươi năm sau, tôi có dịp dự cưới con nhà Tình Mười. Thay vào cái gian nhà lúp xúp ngày nào vợ chồng Tình sinh sống, là ngôi nhà 3 tầng khang trang đầy đủ tiện nghi. Tình đã là Hiệu phó trường Đại học Văn hoá. Tình béo ra, tóc bạc nhiều, nhưng tính nết thì vẫn thế. Sau này, Tình chuyển sang làm Vụ phó Vụ thư viện. Tình đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Năm 2013 tình mất đột ngột.

       Du ở nhà tập thể với Cần. Cần người Hải Hậu. Khi tôi học đại học K6 thì Cần học Trung cấp thư viện. Sau Cần đi Liên Xô học tiếp đại học rồi về làm giáo viên lại dạy chúng tôi môn Địa chí. Tôi thường rủ mấy bạn lớn tuổi như Công, Kỳ, Khảng (Hải Phòng), Tới, Hoà (Quảng Ninh) xuống chơi với Cần, Du. Trong quan hệ với chúng tôi, không bao giờ Du, Cần tỏ ra mình là thày, mà rất thân tình bè bạn. Sau này Cần lên Hiệu phó, đỗ Tiến sĩ, có dịp qua Nam Định vẫn vào thăm tôi thân mật như xưa. Tôi rất trân trọng những người bạn như Tình, Du, Cần.

       Tôi không thể quên những người bạn cùng lớp chuyên tu ngày ấy. Chẳng hạn anh Kỳ có biệt danh bạn bè đặt cho là “ông Khu Bốn” vì quê anh ở Khu Tư, tính lại đa nghi. Mỗi khi đi vắng, anh lấy phấn ngầm đánh dấu lọ mỡ để biết ngay nếu có ai ăn trộm. Cậu Hoà trêu, lấy mỡ dùng xong đánh lại dấu phấn. Anh Kỳ biết mất mỡ mà không giám kêu ca. Tối tối, anh dùng xích sắt khoá cái xô tôn của mình vào chân giường. Nhưng đối với tôi, anh lại rất hào phóng. Anh học yếu, mỗi khi kiểm tra, bằng mọi cách anh xin được ngồi bên tôi. Bài thi môn anh văn, anh chép y như bài tôi, nhưng cô giáo cho tôi 9 điểm, anh 6 điểm. Anh thắc mắc, cô giáo bảo cô cho điểm theo thực lực. Lần cuối cùng tôi gặp anh trong hội nghị Thư viện toàn quốc ở Đà Nẵng. Anh cùng tôi, Tới, Trương Đình Anh, Đào Tam Tĩnh tới nhậu ở nhà Hà Xuân Đào là bạn cùng lớp chuyên tu xưa. Đào khi ấy là Hiệu trưởng trường Văn hoá nghệ thuật Đà Nẵng, sau về làm giám đốc thư viện Đà Nẵng. Trương Đình Anh là Phó Giám đốc Sở Văn hoá thông tin Quảng Trị, anh Tới làm Giám đốc Thư viện Quảng Ninh. Anh Kỳ vẫn còn ôn lại những kỷ niệm lớp chuyên tu và gọi tôi là thần tượng của lớp. Vài năm sau anh mất do ung thư.

       Anh Tới như nông dân, hiền lành, chất phác. Nhớ một lần tôi và anh đang ôn bài, thày dạy môn tâm lý học vào kiểm tra, anh Tới nhanh nhảu chào to:

       - Chào thày giáo ạ!    

       Không hiểu sao thầy nổi cáu, quát anh Tới:

       - Tôi là ông thày chứ không phải thày giáo. Anh là học sinh vô giáo dục, từ mai tất cả giờ của tôi không cho anh vào lớp.

       Anh Tới khóc tức tưởi vì bị xỉ nhục. Trông cảnh ấy, tôi thương anh mà không biết an ủi anh thế nào. Tôi đem chuyện này kể lại cho một số thày cô giáo nghe. Tất cả đều bất bình với thày tâm lý. Anh Tới có cậu bạn cùng quê Quảng Ninh, học lớp chuyên tu văn hoá quần chúng, biết chuyện này đã thề quyết “trả thù” cho bạn. Một thời gian sau cậu bạn kể: Một bận, thấy thày tâm lý dò dẫm xuống kiểm tra học tập, cậu đứng trước đám đông, khoanh tay kính cẩn cúi rạp người:

       - Chào thày giáo ạ!

       Hai tiếng thày giáo bị cậu cố ý kêu to và kéo dài giọng làm thày càng điên tiết. Thế là cái bài lên lớp cho anh Tới được diễn lại y như kịch bản. Chỉ chờ có thế, cậu bạn anh Tới chờ cho thày nói hết mới trả đũa:

       - Thày có nhiều loại thày: thày giáo, thày đồ, thày mo, thày phù thuỷ, thày địa lý, thày bói, thày thuốc... Thày bảo gọi thày là thày giáo là vô lễ. Vậy chứ thày không là thày giáo thì thày là thày bói chăng?

       Thầy tiến sĩ tâm lý tím mặt không thốt được ra lời.  Nhưng mà anh Tới vẫn bị thi lại môn tâm lý học. Lại nhớ năm thứ ba đại học thư viện K6 trước đây, thi hết môn tâm lý tôi là người duy nhất trong số sinh viên của nhiều trường do thày Ngôn giảng dạy được điểm 10. Bây giờ học lại, tôi chẳng khó khăn gì. Tôi làm đáp án ba câu dự đoán sẽ trúng đề thi và phổ biến cho các bạn già tham khảo. Dung không nghe các buổi tôi hướng dẫn, vì nó yên trí đã được thày Tiến sĩ tâm lý học cho đáp án các câu hỏi rồi. Kết quả lần thi ấy, cả lớp được điểm tốt, riêng Dung và anh Tới bị điểm kém, phải thi lại.

 

       Khi thằng Hưng được năm tuổi, Khế  cho nó  lên với tôi một tháng. Tôi thường nhốt nó trong nhà mỗi khi lên lớp. Bọn trẻ con trong trường đứng bên ngoài cửa sổ chơi với nó. Lần tôi vừa mua được tiêu chuẩn tem phiếu 5 kg khoai tây, nó chuyển hết qua cửa sổ cho lũ bạn, để bạn chơi với mình. Tôi nấu ăn riêng để hai bố con ăn tuỳ thích cho tiện. Thằng Hưng béo phục phịch, ngây thơ và thật thà như đếm. Ban đầu bữa tôi nấu hai lạng gạo, Hưng thấy ít cơm không cho bố ăn. Ngày ấy lương thực theo tiêu chuẩn rất khó khăn. Mấy đứa con tôi thật khổ.

 

Vợ tôi có chửa ngoài ý muốn. Bàn đi tính lại mãi, vợ chồng tôi quyết định nạo thai vì khó khăn kinh tế. Giáp Tết, Khế vào Bệnh viện tỉnh xin nạo thai. Bác sĩ khám rồi nêu ý kiến :

- Giáp Tết rồi, để ăn tết cho vui vẻ, ra giêng vào sẽ nạo cũng được.

Đến Tết, vợ chồng tôi về quê. U tôi biết chuyện chúng tôi định nạo thai, bà làm ầm lên:

- Thai đã thành hình, là mạng người đấy. Nạo đi là thất đức, U không cho phép các con làm thế.

Sợ U, vợ chồng tôi không vào viện nữa. Sáng 3 - 9 - 1981 tôi đang nghỉ phép ở nhà lo đám cưới cô Hà - chú Rư thì cậu Hoà lên báo tin vợ tôi đã sinh đêm 2 - 9 - 1981 một thằng con trai. Nếu không có ý kiến của bà nội thì thằng bé có thể đã bị nạo rồi. Thằng Minh ra đời trong hoàn cảnh ấy nên sau này tôi chăm chút nó hơn cả như là bù lại chuyện bố mẹ suýt bỏ nó. Sự kiện thằng Minh ra đời đã làm thay đổi lớn cuộc sống gia đình tôi. Khó khăn gian khổ hơn nhiều trong cuộc sống vốn đã thiếu thốn của gia đình công nhân viên chức văn hoá quèn của vợ chồng tôi, nhưng niềm vui và hạnh phúc cũng nhân lên gấp bội.

        

 

 

                     VỀ VỚI ĐỜI THƯỜNG

 

       Năm 1983 tôi ra trường với danh hiệu học sinh tiên tiến và được nhận giấy khen. Tháng 6 - 1983 tôi về nhận công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh. Cả nhà tôi 5 người chui rúc trong nửa gian nhà lợp giấy dầu rộng 8 mét vuông. Vợ tôi gầy xơ xác. Tôi quen nếp sống đã có người khác lo cái ăn cái mặc cho mình nên rất lúng túng trong cuộc sống đời thường. Mọi việc đều do vợ tôi quán xuyến. Bố U tôi hỗ trợ cho vợ chồng tôi làm nhà. Được cơ quan cho mượn đất, vợ chồng tôi dồn hết sức xây được căn nhà 14 mét vuông mái ngói. Chú Giang công tác trong đội chiếu phim của Công an tỉnh, đi công tác ở Ninh Bình đã mua hộ tôi mấy trăm gạch bi. Có gian nhà mới, tuy không rộng rãi gì nhưng đối với chúng tôi cũng là quý lắm rồi. Trong gian nhà 14 mét vuông này, cả nhà tôi đã sống gần chục năm. Chú Hải và vợ chồng cô Hà đều ở đây khi chưa có chỗ ở.

       Những ngày đầu nhận công tác ở thư viện Hà Nam Ninh, tôi chẳng biết làm gì ngoài chăm chỉ công tác. Ban ngày, nếu không đi học, ba đứa con tôi đều bị nhốt trong nhà. Con Thanh còn ít tuổi đã phải lo giúp bố mẹ trông các em, coi nhà và nấu cơm. Được cái con bé ngoan ngoãn. Khó khăn kinh tế làm cho vợ tôi sinh ra lắm lời. Tôi thì cáu bẳn và hay đánh con vô cớ. Biết đánh con là sai, nhưng sao tôi không kiềm chế được mình. Có lần vừa đuổi đánh con Thanh, tôi vừa kêu to: “Mày không chạy nhanh thì bố đánh chết”. Tác phong quân đội không phù hợp với cuộc sống đời thường làm tôi rất khó chịu và cũng gặp nhiều phiền toái trong quan hệ công tác. Càng bức bối ở cơ quan, tôi lại càng cáu bẳn với vợ con. Tôi tự tìm ra cách giải toả bức bối của mình bằng cách đập vỡ cốc chén mỗi khi bức xúc. Cách này không thể tồn tại lâu vì tôi không có tiền mua đồ mới.

Nhưng mà tôi yêu vợ con tôi vô cùng. Tối tối, tôi kiệu thằng Minh trên vai, dắt thằng Hưng đi dạo phố. Mỗi lần qua Cửa Đông, thằng Hưng đứng nhìn mãi quầy bán đồ chơi. Nó biết bố mẹ không có tiền nên nó không đòi mua, mà chỉ đòi nhìn thôi. Khi tôi kéo nó về, nó cứ níu chặt quầy hàng, không chịu về. Hồi nhỏ, thằng Hưng rất ngoan và hiền, còn cái Thanh và thằng Minh rất quấy. Cái Thanh lười ăn, mỗi khi mẹ cho ăn bột, chú Hải phải vừa múa vừa gõ mâm nhôm nó mới ăn. Còn thằng Minh khi gắt ngủ, tôi vừa bế nó, vừa nhảy, vừa hát cả tiếng đồng hồ nó mới chịu ngủ.

          Năm thằng Hưng học lớp 1, một tối nó theo trẻ con trong xóm đi xem ở nhà hát nhân dân thành phố. Đang nửa chừng buổi diễn thì trời mưa rào, vỡ rạp, nó bị cổng sắt đổ đè phải và bị người ta dẫm đạp chấn thương ở đầu. Có tới 6 trẻ con bị tai nạn trong vụ vỡ rạp hôm ấy được các chú bộ đội đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi vừa ở nhà ông Thắng 177 Hoàng Văn Thụ về thì được tin dữ. Tôi hoảng hốt chạy vào viện. Vợ tôi thất thần mếu máo: “Không chắc thằng Hưng có qua được không”. Cô Thục hàng xóm về nhà lấy quần áo của thằng Hưng mang vào, không nhận ra đứa nào với đứa nào, đã mặc nhầm cho đứa trẻ khác. Thằng Hưng phải khâu 7 mũi trên đầu, người thâm tím vì bị giẫm đạp. May sao thằng Hưng qua khỏi. Kỳ thi năm ấy, nó làm bài đúng hết, nhưng không ai đọc được. Cô giáo truy hỏi, nó bảo: “Bố em dạy viết như thế.” Cô giáo mời gia đình lên gặp. Giơ ngược bài thi của nó lên soi qua ánh sáng thì chữ hoàn toàn bình thường và đúng hết. Tôi linh tính rằng đó là ảnh hưởng của vết thương sọ não làm con tôi tri giác ngược.  

       Hè, tôi cho Hưng về quê với ông bà nội. Khi về đón thằng Hưng đi Nam Định, tôi được bà nội kể:

       - Thằng Hưng nó biết xem bói đấy, bói đúng mới lạ chứ. Nó bói cho thày Hoan trụ trì chùa Tùng Lâm là “bà không có chồng” và “bà phải cẩn thận kẻo tai nạn xe đạp”, mà nó 6 tuổi thì đã biết gì. Thế là nhiều người đến nhờ nó bói làm vui.

       Sau này quả nhiên thày Hoan bị tai nạn xe đạp gẫy xương hông, không còn đi lại được rồi mất.

       Do ảnh hưởng của vết thương năm ấy, thằng Hưng giảm hẳn kỹ năng nói. Nó không diễn đạt được ý nghĩ của mình cho mạch lạc. Nó học khá các môn tự nhiên, kém các môn xã hội.

 

       Bữa ăn, Khế chia cho mỗi đứa con từng con tôm rang muối mặn. Cảnh ấy làm tôi trăn trở rất lâu. Tôi tâm sự với bạn bè. Anh Trinh cùng quê bảo tôi đi buôn lậu với anh. Tôi sợ. Anh bảo có gan mới làm giàu được chứ.  Cuối cùng tôi quyết định đi bơm chữa xe đạp buổi tối. Lúc đầu cũng ngượng, sau quen dần. Kiếm mỗi tối bơ gạo cũng vất vả lắm. Tôi bị quỵt tiền bơm là thường. Có lần, bọn thanh niên càn quấy vờ đánh nhau cướp bơm xe của tôi chạy mất.

       Từ năm 1988 - 1990 (và cho đến năm 2012) tôi được chú Viển giới thiệu tham gia giảng dạy các lớp trung cấp thư viện ở Hà Nam. Sáng đạp xe từ 5 giờ lên Hà Nam dạy học, chiều đạp xe về Nam Định kịp ra phố chữa xe buổi tối.

       Ngày nhà giáo Việt Nam năm 1990 là một ngày đặc biệt đối với tôi. Đã gần 30 năm qua rồi mà mỗi khi nhớ lại ngày ấy, nước mắt tôi cứ trào ra. Tối hôm ấy, gần chục em học sinh lai nhau từ Phủ Lý về Nam Định chúc mừng thày. Con lớn tôi dẫn các anh chị ra phố gặp tôi. Các em mang hoa chúc mừng và tặng tôi 4 mét vải pô pơ lin trắng may áo. Tôi dở khóc dở cười, không biết ứng xử thế nào. Các em nhìn tôi lặng người đi, rồi tất cả bỗng sôi nổi hoạt bát tranh nhau bơm xe cho khách. Các em vừa giúp tôi bơm vá xe, vừa chuyện trò vui vẻ đến 22 giờ mới đèo nhau về Phủ Lý.

       Ngày Nhà giáo Việt Nam năm ấy khắc sâu trong tâm khảm tôi với bao cảm xúc vui buồn không thể nào quên được. Mảnh pô pơ lin may áo đã không còn dùng được, nhưng tấm tình thày trò thì còn mãi trong tôi.

       Học sinh lớp thư viện khoá 3 và 4 ngày ấy rất yêu quý và kính phục tôi vì tôi nhiệt tình và có kiến thức sâu về nghiệp vụ. Mười lăm năm sau gặp lại, có em còn gọi tôi là thày và xưng con, cùng nhắc lại những kỉ niệm cũ. 

       Trong số hàng nghìn học trò học tôi, nhiều em có năng khiếu văn, thơ. Em Đoàn Văn Mật, học Thư viện khóa 3 (2000 – 2002), hiện công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã thành nhà thơ. Năm 2008 tôi nhận được tập thơ đầu tay em gửi tặng. Đó là tập thơ “Giữa hai chiều thời gian”, trong đó có những câu rất ấn tượng như “Cạnh chiếc bình không hoa / Thấy có ngàn hương tỏa”.

       Em Trần Minh Tiến khóa Thư viện 6 tặng tôi một bài thơ rất hay, lấy tên là “Bài thơ không vần kính tặng thầy Trần Mỹ Giống”, cùng tập bản thảo thơ gần trăm bài… Tôi cứ tự trách mình không cẩn thận và rất tiếc tập bản thảo bị thất lạc trong lúc người thu dọn thuê vận chuyền về nhà khi tôi nghỉ hưu.

       Trong số thơ văn học trò tặng tôi, có bài thơ của một em học trò rất đặc biệt. Lúc bấy giờ là khoảng chín giờ tối 30 Tết năm 2004, trời lạnh và mưa lâm thâm. Đột nhiên xuất hiện trước cửa nhà tôi một cô bé gầy gầy, hai tay ôm bức tranh sơn mài. Cô gái không nói, chỉ cúi đầu chào tôi. Tôi dắt em vào nhà, thăm hỏi thân mặt. Em chỉ vào bức tranh và tờ giấy đánh máy dán bên phải phía dưới, miệng nói không rõ lời, dáng vẻ rất xúc động. Nhìn tờ giấy dán trên bức tranh tôi thấy đó là một bài thơ đề tặng tôi. Tôi vừa đọc bài thơ, vừa cố nén cảm xúc dâng trào trong ngực, lên mắt.

       Cô gái ấy là em Phạm Thị Diệu Thúy, học sinh Thư viện khóa 4 năm 2002 – 2004 Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Nam Định. Những ngày đầu lên lớp, tôi chú ý đến cô bé cứ nhìn tôi không chớp mắt suốt buổi. Khi đối thoại với học trò, tôi chỉ định cô bé trả lời. Cô bé đứng dậy, mặt tái đi, miệng ú ớ như sắp khóc. Linh tính cho tôi biết em này có gì đặc biệt đây. Tôi vội vẫy tay ra hiệu cho em ngồi xuống, rồi làm như không có chuyện gì, tôi tiếp tục giảng bài. Giờ nghỉ, tôi hỏi lớp trưởng thì được biết: Em Thúy bị tật câm điếc bẩm sinh, nhưng rất ham học. Tôi đề nghị lớp bố trí em ngồi bàn đầu. Khi giảng bài, những phần quan trọng, tôi nói chậm, rành rọt, cố thể hiện khẩu hình thật rõ ràng, mắt thường xuyên giao lưu với Thúy, trong lòng luôn cảm nghĩ mình đang nói với đứa con gái nhỏ yêu thương…   Thường khi nghỉ giữa giờ, tôi chuyện trò với Thúy. Thúy nhìn miệng tôi để đoán hiểu tôi nói gì và dùng động tác giao lưu là chính. Bài học có chỗ nào chưa rõ, Thúy viết ra giấy hỏi tôi. Tôi trả lời tỉ mỉ, còn viết ra giấy cho em đọc. Cuối khóa, Thúy đỗ tốt nghiệp loại khá. Sau đó em còn thi đỗ và theo học khóa Đại học Thư viện tại chức do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội mở tại Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Nam Định.

       Bài thơ cùng bức tranh sơn mài em Thúy tặng là kỷ vật quý giá đối với tôi. Bài thơ đó như sau:

 

       VIẾT TRƯỚC NGÀY XA TRƯỜNG

                    

Kính tặng thầy Trần Mỹ Giống

 

Thầy chẳng đòi hỏi những gì được mất

Những gì cho và nhận ở lớp trò

Cần mẫn chở chuyến đò tới đích

Sang sông rồi con gửi lại vần thơ.

 

Con viết vần thơ trong ngày xa cách

Nước mắt con rơi trên trang giấy chữ nhòa

Tìm chẳng thấy lời hay tứ đẹp

Chỉ tấm lòng trò nhỏ trước khi xa.

 

                           Phạm Thị Diệu Thúy

                     Lớp Thư viện 4 khóa 2002 – 2004

 

       Tái bút:

       Mãi mãi con không bao giờ quên thầy – một người thầy đã hết lòng quan tâm giúp đỡ và để lại cho con ấn tượng sâu sắc. Năm học vừa qua nếu con có điều gì để thầy buồn thì xin thầy bỏ qua cho con…

                                  (Tối 30 Tết Giáp Thân 2004)

       Bài thơ giản dị, không cầu kì, thuộc loại thơ thoại. Nhưng tôi rất trân trọng bởi nó là tấm tình chân thực của cô học trò nhỏ, lại là một học trò đặc biệt. Tôi muốn nói với em: “Diệu Thúy ơi! Thầy cũng không bao giờ quên hình ảnh của em. Cảm ơn em đã đem lại cho thầy niềm hạnh phúc và tự hào về lớp trò của mình. Chúc em hạnh phúc và may mắn trong cuộc sống”.

 

                                  ***

       Con Thanh thương bố mẹ, tối tối, khi bố ra phố chữa xe, nó lại mang mẹt bưởi ra ngồi bán ở đầu ngõ. Thằng Hưng và thằng Minh quẩn quanh chị, thòm thèm nhìn mẹt bưởi. Vợ chồng tôi thương con, không để nó ra phố nữa. Được cái các con tôi học chăm chỉ. Con Thanh năm nào cũng được giấy khen học sinh tiên tiến. Tôi yêu con Thanh nhiều lắm. Có lẽ vì nó là đứa con gái duy nhất, là con đầu của tôi. Đi làm về, không thấy bọn trẻ là tôi như thiếu thốn cái gì. Tối tối, tôi mở màn nhìn các con, thơm lên má con Thanh rồi mới yên tâm đi ngủ.

       Dần dần tôi thích nghi phần nào với cuộc sống đời thường. Những cơn bực vô cớ của tôi giảm dần. Tôi đặt hết mơ ước vào các con. Niềm mơ ước kỳ vọng vào các con đem lại cho tôi nghị lực sống. Năm con Thanh học cấp ba Lê Hồng Phong, nó bắt đầu tiêu tốn thời gian với bạn bè. Tôi canh nó hàng ngày, cấm bạn bè nó đến chơi, bắt nó tập trung học tập. Nhưng nó thi đại học không đỗ. Thật đúng là học tài thi phận. Cậu Lê Thanh Tình – bạn cùng học đại học với vợ chồng tôi, là hiệu phó Đại học Văn hoá biết chuyện con tôi và con nhà Hải Bút thi trượt đại học, đã đặc cách tuyển hai đứa vào đại học thư viện. Con nhà Hải Bút đi học, ra trường về Thư viện quốc gia. Con Thanh nhà tôi bỏ đi trung cấp sư phạm Hà Nam vì thương bố mẹ. Nó tính toán, nếu học đại học mất bốn, năm năm. Hai năm nữa thằng Hưng vào đại học thì bố mẹ không nuôi nổi hai đứa học đại học cùng một lúc. Nó đi trung cấp hai năm ra trường thì cũng là lúc Hưng vào đại học. Sau này nó phải vất vả đi cao đẳng rồi đại học hàm thụ.

       Cả ba đứa con tôi đều học ở Trường cấp III chuyên Lê Hồng Phong. Thằng Hưng tốt nghiệp Bách khoa, về công tác ở Công ty báo thoại Nam Định. Thằng Minh cũng tốt nghiệp bách khoa, học tiếp bằng hai công nghệ thông tin, lại đỗ  thạc sĩ điện tử viễn thông. Con Thanh dạy cấp một ở Nam Xá (Nam Trực). Chục năm sau con Thanh tốt nghiệp đại học tại chức, chuyển về dạy ở Tiểu học Lê Quý Đôn trong trung tâm thành phố. Các con tôi đều học hành đến nơi đến chốn là niềm tự hào, là hạnh phúc lớn của vợ chồng tôi.

 

 

                     CÔNG TÁC THƯ VIỆN

 

       Tôi được phân công vào tổ phong trào cùng anh Thanh Hồng, do anh Lộc phụ trách. Sau này anh Lộc chuyển đi, tôi được tỉnh bổ nhiệm làm trưởng phòng địa chí thư mục và phong trào thư viện cơ sở. Tôi hăng say công tác. Khi cần, bất cứ hoàn cảnh nào tôi cũng sẵn sàng lên đường đi cơ sở. Có lần tôi đi cơ sở ba tháng liền. Các thư viện cơ sở một thời nổi tiếng như Khánh Phú (Tam Điệp), Trác Bút (Duy Tiên), Hải Phú (Hải Hậu), Trực Thái (Nam Trực)... đều có công sức của tôi và anh Thanh Hồng. Anh Thanh Hồng hơn tôi gần hai chục tuổi, đẹp trai và hào hoa. Vốn là thuyết minh phim chuyển sang thư viện, anh quen biết rất nhiều người. Anh thích việc xã giao, ăn mặc chải chuốt và tính rất sĩ diện. Mỗi khi hai anh em đi cơ sở, anh thường nhận việc giao tiếp với lãnh đạo địa phương, nhường tôi phần làm chuyên môn nghiệp vụ. Tôi cho rằng như thế là hợp lý vì tôi giỏi chuyên môn nhưng kém giao tiếp, anh thì giỏi giao tiếp mà lại kém chuyên môn. Quả thật hai anh em tôi đi cơ sở thường được địa phương quý mến và khâm phục. Nhiều cán bộ địa phương cứ ngỡ anh Hồng là lãnh đạo thư viện tỉnh. Có lần anh Điểm là giám đốc thư viện tỉnh cùng đi với chúng tôi, lãnh đạo địa phương cứ báo cáo anh Hồng mà không đả động gì đến anh Điểm. Anh Hồng rất tự hào vì điều đó. Có lúc bốc lên, anh tự nhận mình là Chủ nhiệm thư viện. Tính anh đa tình. Khi ở đội chiếu bóng, anh bị kỷ luật vì chuyện “yêu ngoài luồng”. Chuyển sang thư viện, anh vẫn giữ tính cũ, ở đâu cũng có người yêu. Song chẳng vì thế mà tôi coi thường anh. Thực tình anh rất quý và nể tôi. Anh từng công khai nói rằng ở tỉnh Hà Nam Ninh, anh chỉ phục trình độ nghiệp vụ thư viện của tôi. Khi đi công tác, anh đạp xe dẫn tôi la cà các hàng nước suốt dọc đường. Cứ đi mươi cây số là anh lại nghỉ, ăn cái bánh đa, uống cốc trà xanh, thành thử thời gian đi đường kéo dài cả buổi. Anh có tài xin bách hoá các mặt hàng cung cấp như xăm lốp xe đạp, thuốc lá, giày dép. Mỗi khi xin được hàng, anh không quên chia cho tôi. Có lần anh bán lại cho người ta, chia lời cho tôi. Tôi ngại thì anh bảo: “No béo chi chú, ấy là cái lòng của anh đối với chú, chú không nhận thì anh buồn”. Thỉnh thoảng anh mời tôi lên nhà tập thể chơi với anh. Có hoa quả, cà phê hay rượu là anh bỏ ra chiêu đãi tôi. Anh cẩn thận lau rửa chén thìa sạch bóng rồi mới pha trà hay cà phê, cũng cầu kỳ như khi anh chau chuốt quần áo trước khi đi công tác. Hình ảnh của anh xung khắc với bề ngoài của tôi. Tôi thường ăn mặc giản dị, có khi còn luộm thuộm. Thế nhưng tôi và anh lại gắn bó với nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau rất nhịp nhàng trong công tác. Anh nghỉ hưu được mười ba năm thì mất đột ngột.

       Những năm tháng công tác phong trào với anh Thanh Hồng để lại trong tôi nhiều kỉ niệm vui buồn thật khó quên.

          Cán bộ thư viện chúng tôi đi cơ sở là việc rất gian nan. Chuyện đạp xe năm ba chục cây số, nhiều khi phải nhịn uống, nhịn ăn thì chúng tôi chẳng coi ra gì. Cái khổ nhất của chúng tôi là không được cơ sở đón nhận. Có một vài cơ sở hờ hững với thư viện, họ coi chúng tôi như là người đến xin xỏ, làm phiền họ. Lần tôi và anh Thanh Hồng xuống Ý Yên công tác, đạp xe từ 7 giờ tới 9 giờ mới tới nơi. Phải chờ đến gần 11 giờ mới được gặp ông trưởng phòng Văn hoá tên là V. Làm việc xong thì gần 12 giờ. Ông trưởng phòng hỏi:

          - Còn việc gì không?

          Anh Thanh Hồng cười:

          - Công việc nhà nước đã xong. Giờ chỉ còn việc ra quán.

          Ông V. thản nhiên:

          - Vậy các ông đi nhá!

          Nhưng không phải nơi nào cũng hờ hững với Thư viện. Có nhiều nơi rất quan tâm và quý trọng chúng tôi. Tôi còn nhớ lần tôi và anh Thanh Hồng đi xây dựng thư viện xã Khánh Phú (Tam Điệp). Ngày ấy, thư viện xã do hợp tác xã nông nghiệp quản lí. Hai anh em tôi ăn ở ngay tại nơi làm việc. Chúng tôi làm cả trưa và tối, đến bữa tới bếp hợp tác xã ăn tiêu chuẩn quy định. Ba ngày đầu không có ai thăm hỏi.  Ngày thứ tư, anh Điền phụ trách thư viện xã thông báo rằng cụ Phúc chủ nhiệm hợp tác xã mời chúng tôi đến ăn cơm tối tại nhà. Nhìn mâm cỗ thịnh soạn, tôi không dám tin là mình lại được đón tiếp như thượng khách thế này. Cụ Phúc vừa rót rượu vừa nói :

          - Tôi chứng kiến rất nhiều cán bộ đi giúp cơ sở thường “chỉ tay năm ngón” mà chẳng thiết thực gì cho cơ sở. Theo dõi ba ngày qua, thấy hai ông thực sự  tích cực giúp cơ sở, tôi mời hai ông dự bữa để cám ơn.

          Hai tuần làm việc còn lại, cứ hai ngày một lần cụ Phúc tiếp chúng tôi tại nhà. Mỗi khi tiếp khách tỉnh hay khách trung ương, cụ Phúc lại mời chúng tôi cùng dự liên hoan. Anh Thanh Hồng to cao có tướng đẹp, nói năng ra dáng lãnh đạo, giao tiếp rất có hiệu quả.  Khi chúng tôi hoàn thành công việc một cách mỹ mãn, cụ Phúc mời chúng tôi đi tham quan vườn cây của hội người cao tuổi, lò mật mía, trại lợn, trại trâu Mu - ra… của hợp tác xã. Trước khi chúng tôi về tỉnh, cụ Phúc sai người biếu chúng tôi quà (nào táo, nào mật, gạo, thịt lợn…) và hẹn mời chúng tôi về dự khánh thành nhà văn hoá xã. Tưởng cụ hẹn xã giao, ai ngờ cụ gửi giấy mời đích danh chúng tôi cùng giấy mời đại biểu Ban giám đốc thư viện tỉnh. Tôi và anh Thanh Hồng cùng anh Điểm về dự lễ. Trong giao tiếp, cụ Phúc và lãnh đạo xã cứ một điều “báo cáo bác Thanh Hồng”, hai điều “báo cáo bác Thanh Hồng”, cứ như anh Thanh Hồng mới là Giám đốc Thư viện tỉnh chứ không phải là anh Điểm.

       Cơ quan có mấy người già là anh Hồng, bác Môn, anh Luân, anh Tuấn đều đã nghỉ hưu. Bốn vị này thường đi lại với nhau. Tôi cũng bị hút vào các cuộc vui của các anh già. Khi thì chúng tôi gặp nhau ở nhà anh Tuấn, khi ở nhà bác Môn, khi ở nhà tập thể anh Hồng, lúc ở cơ quan. Chúng tôi thường uống rượu với lạc luộc và nói đủ chuyện trên trời dưới đất.

Anh Tuấn thẳng tính, vui nhộn. Năm 73 tuổi anh còn đi xe máy từ Hà Nội về thăm chúng tôi. Anh cười nói thoải mái và tự hào là “già rồi mà còn khoẻ chán”. Ai ngờ lần anh về thăm chúng tôi ấy lại là lần cuối. Anh mất ngay trong năm đó.

Anh Lê Luân nghỉ hưu ở trong tập thể thư viện tỉnh. Nhà tôi ở bên ngoài nhà anh. Sau này chuyển ra Ô 19 phường Hạ Long, tôi vẫn đi lại thăm anh. Những lúc rỗi rãi, tôi xuống nhà bù khú với anh. Anh hay kể cho tôi nghe về một thời trong quân ngũ chống Pháp oanh liệt của anh. Anh tỉ mẩn bầy ra và vuốt ve các giấy tờ chứng nhận thành tích của anh như Huân chương, giấy khen. Những giây phút như vậy, anh như mê trong hoài niệm đẹp. Tính anh ham số đề, xổ số. Say xổ số đến nỗi anh mụ mẫm cả người. Mỗi lần mua được tập vé số là anh tràn đầy hy vọng trúng giải độc đắc để đổi đời. Khi có thông báo kết quả, anh háo hức so vé và... thất vọng, hoặc xuýt xoa vì suýt trúng. Anh kiên trì đánh xổ số hơn ba chục năm liền. Thiếu tiền, anh vay bạn bè đánh gỡ. Dần dà anh đâm ra tha hoá. Anh lừa bạn đọc để lấy tiền đánh xổ số. Nhiều phen chủ nợ đến tận nhà làm ầm ĩ. Anh rất nhiệt tình với hàng xóm. Ai có việc cần là anh giúp đỡ không nề hà. Hàng xóm lại rất ngại anh vì anh thường giật nóng tiền hay vay gạo, vay dầu nhưng không bao giờ nhớ trả. Thực ra anh không có để trả thôi. Còn nhớ lần tôi trả phép khi còn trong quân đội, 3 giờ sáng anh đã ra xếp hàng mua vé xe ô tô giúp tôi vì anh có thẻ thương binh. Tôi quý anh từ ấy. Khi tôi về công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh thì anh nghỉ hưu, nhưng là hàng xóm, tôi với anh vẫn thường đi lại với nhau. Tôi hay bắt gặp anh lẩm bẩm một mình về những con số anh suýt trúng độc đắc. Anh mê con 238, 328 và không ngày nào là anh không mua hai con đó. Mấy lần anh vào viện, tôi đến thăm. Anh bảo:

       - Anh không ăn sữa đường, nếu chú cho, anh cũng bán đi thôi. Tốt nhất là chú cho anh vài chục để anh tiếp tục “chiến đấu”.

Thương anh, tôi biếu anh vài chục để anh tiếp tục đánh xổ số. Một chiều đầu năm 2003, anh rủ tôi đánh chung với anh con 238 kỷ niệm. Tối hôm sau ra tìm anh cùng đọ kết quả xổ số thì được tin anh đã mất. Buổi sáng anh uống vài chén rượu như thường ngày, rồi nằm ngủ và không dậy nữa.  

 

Anh Lộc học đại học thư viện khóa 2, trước tôi 4 khóa. Anh có khiếu thơ văn. Sau này anh trở thành nhà văn, có bốn năm tiểu thuyết và tập truyện. Do lý lịch có vết nên anh không được kết nạp Đảng và cũng không được phát triển. Bí quá, anh phải nhờ bạn cùng lớp làm Giám đốc Thư viện Hà Nội nhận anh về làm công tác phong trào. Ở thư viện Hà Nội mấy năm, vẫn khốn khổ nghèo túng, anh lại chuyển sang phụ trách Câu lạc bộ Văn Miếu Quốc Tử giám. Đúng lúc Văn Miếu được nhà nước chú trọng quan tâm đầu tư, anh Lộc được đổi đời.

 

           Ngày Thư viện huyện Xuân Thuỷ đóng ở Giao Thuỷ bị bão tan nát cả, chúng tôi được ông Phó Giám đốc An Viết Đàm thay mặt lãnh đạo Sở Văn hoá Thông tin và ông Trần Văn Điểm giám đốc Thư viện tỉnh trực tiếp truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Bí thư tỉnh uỷ: “Bằng mọi giá phải xây dựng lại thư viện huyện Xuân Thuỷ”. Nhân có đoàn thực tập sinh Trường Cao đẳng Văn hoá Hà Nội về thực tế ba tháng (do thày Phạm Hữu Du, đồng môn lớp đại học thư viện khóa 6 với tôi, dẫn đầu), tôi đưa đoàn đi thực tế ở Xuân Thuỷ. Chúng tôi hăm hở xuống huyện. Nhưng thật bất ngờ là ông trưởng phòng văn hoá huyện tên là M. nêu ra nhiều lí do không thể đón tiếp chúng tôi. Về thì không thực hiện được nhiệm vụ, ở thì không ai đón tiếp. Tối ấy chúng tôi đành ăn cơm quán rồi tìm cách tháo gỡ. Chầu chực tới 21 giờ chúng tôi cũng được gặp ông Bí thư huyện uỷ tên là Nhi. Nghe chúng tôi trình bày đầu đuôi sự việc, ông Nhi rất bất bình trước thái độ ứng xử của trưởng phòng M. Ông chỉ thị cho phòng Văn hoá phải bố trí cho chúng tôi thực hiện nhiệm vụ. Anh Du bàn giao học sinh cho tôi rồi về Hà Nội. Suốt hơn một tháng trời chúng tôi làm việc ngày 10 tiếng để nhanh chóng tổ chức lại thư viện huyện, ông M. không mấy khi tới xem chúng tôi làm ra sao. Ông còn yêu cầu chúng tôi phải tự túc tiền ăn. Nhờ anh Thích phó phòng đề nghị, chúng tôi mới được ông M. duyệt cho học sinh thực tập tiền ăn hàng ngày theo chế độ nhà bếp uỷ ban. Còn tôi là cán bộ phải nộp tiền ăn theo giá thị trường suốt hơn một tháng làm việc tại huyện. Hoàn thành việc củng cố thư viện huyện, chúng tôi lặng lẽ đi giúp thư viện các xã Giao Hải, Xuân Phương, Giao An… Cả đoàn 6 người chỉ có tôi có xe đạp. Từ huyện xuống xã lại chẳng có ô tô khách. Phó phòng Thích và cán bộ thư viện huyện thương tình, đem xe đạp chở “tăng bo” đoàn xuống xã. Chuyến đi phong trào liền ba tháng kết thúc, chúng tôi thở phào như vừa vượt qua một thử thách. Riêng tôi còn không thể quên chuyện lương nộp tiền ăn không đủ, khi về được thanh toán công tác phí đủ chi tiền… chè nước. Gian khổ thế mà những cán bộ  phong trào chúng tôi vẫn hăng say công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chuyện như thế lớp trẻ ngày nay nghe cứ như nghe cổ tích.

 

          Kỷ niệm 60 năm thành lập Thư viện tỉnh Nam Định (1956 – 2016), anh Trần Thanh Hồng, anh Lê Luân, anh Tuấn, Chủ nhiệm Thư viện tỉnh Trần Hữu Viển, bác Đặng Đình Môn, cô Trần Thị Khang, chị Vũ Kim Dung, chú Ninh Đình Khoa đã đi xa, nhưng những kỉ niệm về những ngày đi cơ sở và công tác với các anh, các chị, các bác như mới diễn ra hôm qua. Hình ảnh và những cống hiến của các bậc tiền bối đồng nghiệp Thư viện tỉnh nhà sống mãi trong lòng tôi.

 

                                      ***

 

       Năm 1990 chia tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Thư viện tỉnh cũng chia hai. Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Trịnh Quang Khanh gọi tôi lên gặp và động viên tôi nhận nhiệm vụ làm giám đốc thư viện Ninh Bình. Anh nói:

       - Anh thấy chú là người thực tài, giỏi chuyên môn nên anh muốn đưa chú vào lãnh đạo. Hiềm vì ở Nam Hà không còn chỗ nên anh điều chú đi làm Giám đốc thư viện Ninh Bình, Giám đốc luôn chứ không phó pháy gì.

       Tôi từ chối:

- Em cảm ơn anh. Em tự biết mình làm chuyên môn vững, làm quản lý thì kém, nên em xin phép anh cho em làm chuyên môn ạ.

Nét mặt anh Khanh tỏ ra ngạc nhiên. Lát sau anh bảo:

- Thôi anh cho chú suy nghĩ 7 ngày rồi hãy trả lời có đi hay không.

Bảy ngày sau tôi trả lời dứt khoát:

- Báo cáo anh, em nghĩ kỹ rồi ạ. Em đang dở mấy đề tài nghiên cứu. Vậy anh cho em được làm điều mình thích ạ.

 Anh Khanh lắc đầu, nhưng không thể bắt tôi đi Ninh Bình vì tôi quê Nam Định.

Sau này anh Thanh giám đốc sở văn hoá Ninh Bình cũng đề nghị anh Chương động viên tôi vào giúp anh nhưng tôi quyết không đi. Tôi giới thiệu bạn học là Tưởng cho anh Thanh. Tưởng đang ở Tổ chức thị uỷ Ninh Bình phải về nhận chức Giám đốc thư viện tỉnh.

          Chuyện tôi từ chối chức Giám đốc thư viện làm một số người hiểu ra từ trước tới nay tôi nói thật lòng rằng tôi không ham hố gì chức tước cả mà chỉ muốn yên thân làm nghiệp vụ chuyên môn, nhưng có người thì bảo tôi là dại. Tỉ như chuyện tự nhiên được làm giám đốc, nắm chắc được một suất đất nơi công tác mới giá mấy chục cây vàng mà lại từ chối. Những người gầm ghè sợ tôi tranh giành chức tước đã an tâm nên quan hệ của họ với tôi bớt dần căng thẳng. Tôi sống thanh thản, vui vẻ và béo lên nhanh chóng. Từ 39 cân, tôi tăng vọt lên trên 50 cân, rồi 55 cân. Quần cũ của tôi đều phải loại bỏ vì không còn nới được cạp. Tôi thoát ra khỏi những ham muốn phù phiếm của cuộc đời, tính tình thay đổi, cách nhìn thay đổi. Tôi yêu quý tất cả mọi người, luôn mong muốn điều tốt cho mọi người, ủng hộ hết mình cho lớp trẻ. Đối với cơ quan, tôi chỉ còn say mê với công tác chuyên môn. Mấy anh bạn văn chương đùa nhận xét tôi: “Thiền quá!”.

                                  ***

       Với cương vị trưởng phòng phụ trách ba mảng công tác lớn: Xây dựng phong trào đọc và thư viện cơ sở, Tuyên truyền giới thiệu sách, Địa chí và thư mục, tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết quả thực tế chứng minh trong thời kỳ tôi phụ trách:

       - Số thư viện cơ sở phát triển mạnh nhất trong lịch sử thư viện tỉnh. Thư viện xã Khánh Phú, Trác Bút, Giao An, Hải Phú… nhiều năm được công nhận là các điển hình thư viện cấp cơ sở.

- Công tác tuyên truyền giới thiệu sách hình thành và đạt kết quả cao. Hai năm 1987-1988 Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh được bình chọn là “Con chim đầu đàn của miền Bắc”. Trong các cuộc thi cấp toàn quốc, chúng tôi thường xuyên được giải Bài thi Nói chuyện giới thiệu sách hay nhất.

- Công tác địa chí tỉnh Hà Nam Ninh là một trong 10 tỉnh điển hình. Đặc biệt chúng tôi có nhiều sáng kiến, kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ thiết thực bạn đọc. Nhiều thư viện bạn trong đó có Hà Nội về tham quan trao đổi về đề tài: “Trong điều kiện không được cấp kinh phí riêng mà Nam Định vẫn hoàn thành xuất sắc công tác địa chí - thư mục”.

Bằng kết quả công tác, tôi chứng tỏ rằng mình giữ vững và phát huy phẩm chất người lính trong công tác và đời sống. Tôi tự hào về điều đó. 

 

              U QUA ĐỜI, CHỊ KÝ MẤT

 

       Mải mê công tác, tôi ít về thăm bố u tôi. Vào các dịp lễ tết chúng tôi phải trực cơ quan nên tôi thường về quê sau khi lễ tết đã qua. Tết 1994, tôi trực cơ quan. Khế về tết bố mẹ chồng. Khế lên bảo rằng u tôi nhắn tôi về. Tôi chưa kịp về thì được tin u tôi ngã bệnh trọng. Tôi hốt hoảng đạp xe về thăm bố u tôi vào ngày 10 tháng giêng. Mấy hôm trước U tôi tự nhiên ngã rồi không nhúc nhắc tay chân được nữa. Tôi bàn đưa u đi bệnh viện tỉnh nhưng u tôi không nghe. Mời bác sĩ đến nhà chạy chữa, nhưng bệnh u tôi ngày càng nặng hơn dù U tôi vẫn tỉnh táo và minh mẫn. Tôi ở luôn nhà chăm sóc U tôi. U tôi thường nhìn tôi bằng ánh mắt chan chứa yêu thương. Mỗi khi thấy u tôi nhìn tôi như thế, tôi linh tính có việc hệ trọng sắp xảy ra. Tôi biết U tôi đau khắp người, nhưng để con cháu bớt lo lắng, U tôi thường cố chịu đựng và tỏ ra chẳng đau đớn gì. Khi có hai U con, U tôi bảo:

       - U thương con nhiều lắm. Là trưởng nam nhưng con nghèo khó, khi U mất thì lễ tang đơn giản cho đỡ tốn kém. Đừng để các em mất đoàn kết khi u nằm xuống...

       Tôi không tin là u tôi sẽ ra đi. U tôi đòi gọi các con trai, con gái tôi về. Ngày con Thanh còn bé, u tôi đón nó về nuôi. Ông nội thường cho cháu ngồi trong cái thúng rồi kéo quanh sân. Con Thanh cười như nắc nẻ. Ông bà nội thường gom góp gạo, trứng hoặc bất cứ thứ gì ăn được là đem cho cháu. Thằng Hưng ra đời ở nhà ông bà nội và ở với ông bà suốt thời gian bé. Khi nhớ các cháu, u tôi lên Nam Định, có khi vào tận Ninh Bình nom cháu.

       8 giờ sáng ngày 26 tháng giêng (âm lịch) 1994, sau khi cố ăn mấy thìa cháo cho tôi vui, u tôi thanh thản ra đi. U tôi đi rồi mà mắt U vẫn như nhìn tôi chăm chắm. Tôi vuốt mắt cho U và khóc không thành tiếng.

       Đám tang u tôi diễn ra long trọng và lớn vào loại nhất từ trước đến nay ở quê tôi. Trong lễ viếng u tôi, chú Sử đọc bài văn vần do u tôi gửi lại dặn dò mọi người tổ chức ma chay tiết kiệm và từ biệt con cháu, làng xóm, thông gia... Chú Sử xúc động nói:

       - Bài văn này, chị tôi đưa cho tôi hồi trong năm và dặn tôi “Khi chị nằm xuống thì chú đọc trong tang lễ và lo việc giúp các cháu”.

       Bà con hàng xóm thì nói:

       - Không hiểu sao tết năm nay, bà Thuỵ đi chúc tết và thăm hỏi khắp các nhà.

       Những ngày u tôi ốm, dường như cả làng đến thăm hỏi. U tôi nằm xuống, ai cũng thương tiếc. Nhiều người còn nhắc lại mãi chuyện u tôi hay cho quà, cho thuốc men bà con hàng xóm. Quà và thuốc bổ con cái gửi cho u, u thường chia xẻ cho bà con lối xóm. Những người gặp khó khăn, hoạn nạn thường tìm đến u tôi và thể nào cũng được u tôi giúp đỡ. 

Trưa 28 tháng Giêng, cả làng xúm vào lo cho u tôi mồ yên mả đẹp vừa xong thì tôi nhận điện chị Ký hấp hối. Mọi người đều bảo:

- Anh chị Giống cứ yên tâm đi Thái Bình đi, mọi việc ở nhà đã có các dì, các chú.

           Chú Hải dùng xe máy chở hai vợ chồng tôi đi Thái Bình ngay trưa đó. Nhưng chị Ký không chờ được các em. Chúng tôi sang đến nơi thì chị đã đi rồi. Chị Ký là chị cả trong số 6 chị em gái của vợ tôi. Chị là người ít được học nhất, nghèo khổ nhất so với các em. Chị đẻ sáu con, sinh ra bệnh tật. Lần nào về thăm chị, tôi cũng được chị nhặt nhạnh khoai lang, khoai tây, ngô và tất cả những thứ gì ăn được mà nhà chị có rồi gói ghém buộc vào xe đạp cho tôi. Chị thương vợ chồng tôi nghèo. Mổ cắt một bên thận được 8 năm thì chị mất. Lần chị ra viện, vợ chồng tôi cho thằng Minh đi theo sang thị xã Thái Bình đón chị về. Lai chị về đến nửa đường thì xe đạp của tôi bị gẫy vành. Thế là tôi dùng xe đạp của vợ tôi tăng bo từng đoạn đưa chị và hai mẹ con thằng Minh về nhà chị. Chị cứ nhắc đi nhắc lại rằng “chị thương vợ chồng dì chú lắm”. Ai ngờ, đó là những lời cuối cùng chị nói với tôi. Chị mất khi mới 53 tuổi.

       Hai cái tang lớn trong gia đình làm vợ chồng tôi hẫng hụt một thời gian dài.       

 

  

                     NGHIÊN CỨU

 

       Từ sau khi U tôi và chị Ký mất, tôi thay đổi hẳn. Tâm trạng buồn bã, thiếu hụt thường trực trong tôi. Tôi không thiết làm gì cả. Càng không làm gì, tôi càng buồn. Vợ chồng tôi đều tránh nhắc đến chuyện U tôi và chuyện chị Ký, vì không muốn khơi thêm nỗi buồn, thành thử trong nhà ít hẳn tiếng cười nói.      

       Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền khuyên tôi nên đi vào nghiên cứu danh nhân và văn hoá Nam Định, vì “các ông có điều kiện, có kho tư liệu trong tay mà bỏ qua thì phí đi”. Nghe lời bác Huyền, tôi bắt đầu quan tâm nghiên cứu chuyên sâu về đề tài Các nhà khoa bảng Nam Định, Tác giả Hán Nôm Nam Định. Đây là hai đề tài tôi đã nghiên cứu từ nhiều năm nay, nhưng còn chưa hoàn chỉnh. Tôi cứ lặng lẽ nghiên cứu để quên nỗi buồn. Hoàn thành cuốn Các nhà khoa bảng Nam Định, tôi đề nghị cơ quan đưa vào kế hoạch in nhưng kế hoạch không được thực hiện. Ban đầu cuốn này lấy tên là Các nhà khoa bảng Hà Nam Ninh. Sau chia tỉnh thành Nam Hà và Ninh Bình thì tôi cắt phẩn Các nhà khoa bảng Ninh Bình chuyển giao cho Thư viện Ninh Bình. Rồi sau lại chia Nam Hà thành Nam Định và Hà Nam, tôi lại cắt phần Các nhà khoa bảng Hà Nam giao cho Thư viện Hà Nam. Phần còn lại chính là Các nhà khoa bảng Nam Định.

Tôi thức đêm từ 22 giờ đến 1 giờ sáng liền ba tháng trời để hoàn thành cuốn Tác giả Hán - Nôm Nam Định từ thế kỷ XI đến thế kỷ XX. Sau ba tháng thức đêm, tóc tôi bạc quá nửa. Anh Chương thấy công trình của tôi có giá trị, liền bàn với tôi hoàn chỉnh thêm và tìm cách công bố. Tôi kết hợp chặt chẽ với anh Chương trong công tác nghiên cứu. Anh Chương là Giám đốc thư viện nên có điều kiện trong việc in ấn các bài nghiên cứu của tôi. Các bài viết của chúng tôi, khi thì anh Chương chấp bút, khi là do tôi viết đều được công bố dưới tên anh và tên tôi. Trên báo chí bắt đầu xuất hiện nhiều bài viết của Hoàng Chương - Trần Giống. Năm 1998 anh Chương trở thành Hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh. Năm 2000 tôi cũng được kết nạp vào hội này. Một số bài nghiên cứu của chúng tôi được tuyển in trong sách. Công trình Lược khảo Tác gia văn học Nam Định được nhà xuất bản Văn học in năm 1997 do tôi và nữ nhà văn Phương Thuỷ biên soạn, anh Hoàng Dương Chương là giám đốc thư viện tỉnh và anh Trần Bá Giao là thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo bổ sung cùng đứng tên đồng tác giả, chịu trách nhiệm lo kinh phí in ấn và phát hành.

Năm 2002, Thư viện đề nghị làm đề tài Đặc điểm hệ thống đội ngũ các tác gia Hán Nôm Nam Định được Sở Khoa học Công nghệ chấp nhận, thời gian hoàn thành trong năm 2002 - 2003.

 Tháng 8 năm 2003 Hội đồng nghiệm thu đề tài cấp tỉnh đánh giá công trình nghiên cứu của chúng tôi đạt loại xuất sắc. Sau khi công trình được bảo vệ, anh Chương cũng nghỉ hưu. Tiền nhuận bút công trình khoa học, tôi để anh Chương giữ lại lo in thành sách. Năm 2008, vẫn không thấy anh Chương đả động đến việc in sách, tôi hỏi thì anh nói rằng anh không in vì thấy không có điều kiện phát hành. Anh Chương yêu cầu bài viết trước đây ký chung tên anh và tên tôi sẽ trả về cho người viết, để anh làm tuyển tập cho thuận lợi, tránh chuyện kiện tụng sau này…

Cuối năm 2008 tôi quyết định tự lo kinh phí in cuốn “Các tác giả Hán Nôm Nam Định”, năm 2009 in tiếp cuốn “Các nhà khoa bảng Nam Định” (cuốn này được tặng Giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh), năm 2010 in cuốn “Thư mục nhân vật Nam Định”, sau đó cùng cháu Hạnh (cán bộ thư viện) biên soạn và in cuốn “Nói chuyện giới thiệu sách”… Năm 2017 nhờ đồng nghiệp Trịnh Thị Nga giới thiệu, cuốn Các nhà khoa bảng Nam Định được nhà xuất bản Quân đội nhân dân in bao cấp. Sách in chung cũng khoảng gần hai chục cuốn.

 

       Trong công tác nghiên cứu khoa học, tôi nhiều lần được Sở khoa học công nghệ mời tham gia phản biện, hoặc làm thành viên hội đồng nghiệm thu công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực văn hóa, lịch sử. Cũng như các bài phản biện của mình đăng báo tạp chí, tôi luôn luôn lấy sự thật làm tiêu chuẩn cao nhất trong bài phát biểu nghiệm thu. Có người bảo các bài phát biểu của tôi gai góc nhưng không thể không thừa nhận có cơ sở chắc chắn.

Làm nghiên cứu phê bình, chỉ khen thì được tác giả khoái và đối đãi hậu hĩnh, chê thì nhiều khi mất bạn. Tôi luôn tự nhủ: Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm đúng lòng mình, đừng để phẩm chất người lính bị sỉ nhục. Những bài phản biện của tôi thường bị sức ép nhiều phía, bị ngăn cản không cho công bố. Nhiều khi tôi bị cô lập, bị phản bội, bị bôi nhọ… nhưng tôi quyết dù dao kề cổ cũng không nói phải thành trái. Một số bài phản biện của tôi, chịu nhiều cản trở, rồi cũng được bạn đọc đón nhận như các bài:

- “Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ có phải là hành cung?” Bài này tôi cùng nhà nghiên cứu Hán Nôm Dương Văn Vượng chứng minh quan điểm của cơ quan chức năng là sai lầm, đó không phải là hành cung.

- “Có hay không lệ khai ấn Đền Trần?” Bài này chúng tôi phản biện các quan điểm xổ toẹt lệ khai ấn hoặc nâng tầm quốc gia lệ khai ấn không đúng thực tế lịch sử vì mục đích kinh tế. Tôi chứng minh lệ khai ấn là có thật nhưng nó chỉ ở phạm vi tộc Trần, tuyệt nhiên không phải lệ quốc gia.

- “Không Lộ - Minh Không là hai hay một người”. Bài này tôi phản biện quan điểm cho rằng Không Lộ - Minh Không chỉ là một người. Chúng tôi chứng minh là hai người.

Gần đây nhất, tôi viết bài phản biện quan điểm bài viết của một tác giả  trên Văn Nhân kết luận “Nguyễn Hữu Tiến là tác giả cờ đỏ sao vàng” cũng gặp rất nhiều cản trở.

Thời công tác địa chí, tôi từng ngây thơ cả tin vào tài liệu, báo chí nên đã soạn một thư mục lấy tên là “Nguyễn Hữu Tiến - Tác giả quốc kỳ Việt Nam” giới thiệu khoảng 200 tài liệu. Khi chia tỉnh, tôi bàn giao thư mục này cho Thư viện tỉnh Hà Nam. Từ khi được đọc tài liệu Kỷ yếu Hội thảo khoa học về khởi nghĩa Nam Kỳ của Viện nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương và công văn của Bộ Văn hóa trả lời công văn của tỉnh Hà Nam (đề nghị làm thủ tục công nhận đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ) khẳng định đồng chí Nguyễn Hữu Tiến không phải là tác giả Quốc kỳ, tôi ngộ ra rằng sự ngây thơ của mình góp phần tuyên truyền sai sự thật.

Năm 1981, nhà văn Sơn Tùng xuất bản cuốn Nguyễn Hữu Tiến truyện, mô tả chi tiết chuyện đồng chí Nguyễn Hữu Tiến vẽ cờ đỏ sao vàng. Các tài liệu về sau đều căn cứ truyện Nguyễn Hữu Tiến của Sơn Tùng để viết bài khẳng định đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ cờ đỏ sao vàng. Khi nhà văn Sơn Tùng thú nhận rằng ông hư cấu chuyện Nguyễn Hữu Tiến vẽ cờ đỏ sao vàng, tôi lại càng quyết tâm phải nghĩ cách sửa chữa sai lầm của mình trước đây.

Bài viết của tác giả Đỗ Phú Nhuận đã từng đăng trên tạp chí Hồn Việt, bị bạn đọc phản biện đích đáng. Nhưng 10 năm sau, Đỗ Phú Nhuận lại đăng bài đó trên tạp chí Văn Nhân của Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định. Tôi quyết định viết bài phản biện nhằm góp phần cho bạn đọc tiếp cận sự thật, Văn Nhân tránh lỗi đăng bài lạc hậu dẫn dắt người đọc hiểu sai sự thật. 

Tôi chỉ ra tài liệu gốc mà tác giả viện dẫn đã bị chính tác giả tài liệu gốc thú nhận là hư cấu, đồng thời các tài liệu khác được viện dẫn cũng không có cơ sở xác thực. Tôi chứng minh bằng kết luận công khai của Viện nghiên cứu lịch sử Đảng và Bộ Văn hóa chỉ rõ: Không có bất kỳ tài liệu nào, cơ sở nào xác nhận đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ. Bài phản biện của tôi được nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, bạn đọc nhận xét là khoa học, trung thực, thẳng thắn. Nhưng tôi lại bị một số vị nhân danh là cán bộ tuyên giáo địa phương, là lãnh đạo cơ sở có chức có quyền và một số người từng có những tác phẩm xây dựng hình tượng Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ… phản ứng quyết liệt. Họ sợ rằng bài phản biện của tôi không chỉ bẻ gẫy quan điểm của tác giả Đỗ Phú Nhuận mà còn ảnh hưởng đến những cuốn lịch sử địa phương mà họ viết theo quan điểm Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ, làm mất uy tín những sáng tác của họ đã xây dựng hình tượng Nguyễn Hữu Tiến là tác giả quốc kỳ… nên bằng mọi cách họ cản trở, trì hoãn không để bài của tôi được đăng tạp chí.

Có đồng nghiệp khuyên tôi không nên viết phản biện, cũng không nên phanh phui tiêu cực như các hiện tượng khai man lý lịch, đạo văn, chia chác giải thưởng… trên blog cá nhân để sống yên thân. Nhưng như vậy tôi đâu còn là tôi - người lính - đảng viên đã 43 năm tuổi Đảng nữa? 

 

 

                      TỔ ẤM GIA ĐÌNH

 

       Tháng 5 - 1990 tôi chuyển nhà ra Ô19 thuộc phường Hạ Long. Nhà tôi đơn sơ, nhỏ bé giữa cánh đồng. Rắn vào cả bếp. Đêm côn trùng kêu nhức óc. Ngày mới ra, thằng Hưng, thằng Minh buồn khóc ti tỉ. Để có gian nhà mái bằng 24 mét vuông, vợ chồng tôi phải gồng hết sức mình. 90% tiền làm nhà tôi phải đi vay. Cô Hà lặng lẽ giúp anh chị. Chú Thá đưa tốp thợ ở quê sang xây nhà. Bố con chú Thá, bố con bác Ký lăn lộn mấy tháng liền giúp tôi. Tuy là anh em rể nhưng chúng tôi coi nhau như ruột thịt. Chú Thá, bác Ký thực sự là chỗ dựa tinh thần của tôi ngày ấy.

 

       Tập trung cho công tác nghiên cứu, tôi quên đi những nỗi buồn, không còn vướng vào những cuộc đấu đá tranh giành quyền chức, phớt lờ những thanh trọc, đắc thất trong đời. Tôi tìm thấy sự thanh thản của tâm hồn. Nỗi lo lắng lớn nhất của tôi dồn về bố tôi và con cái. Bố tôi đã cao tuổi, như ngọn đèn trước gió. Sau khi U tôi qua đời, bố tôi lên Nam Định ở với cô Hà. Tôi có điều kiện chăm sóc bố. Khi cảm thấy mình đã gần đất xa trời, bố tôi quyết về quê sống để “được chết ở quê”. Ở quê chỉ còn thím Vân và bà Mạo - em gái bố tôi. Cô tôi cũng đã ngoài 80 tuổi. Chú tôi mất, cô tôi ở vậy, không con. Hàng tháng hai lần, khi thì cả hai vợ chồng tôi, khi mình tôi đều đặn về thăm và lo tiền nuôi dưỡng bố và phụ giúp cô. Trong số 5 anh em tôi, khá nhất và tốt tính nhất là cô Hà. Cô không nề hà chuyện tiền nong lo các việc chung, sẵn sàng cho tiền anh chị nuôi các cháu ăn học. Cô chú Rư Hà đã xin việc cho cháu Thanh và cháu Hưng. Thằng Hưng làm việc trong công ty báo thoại tỉnh, nơi cô Hà làm kế toán trưởng.

       Thằng Minh đã tốt nghiệp đại học bách khoa. Nó học tiếp bằng hai công nghệ thông tin. Vợ chồng tôi dồn tất cả cho nó ăn học. Nó là nỗi lo lắng nhất của vợ chồng tôi. Năm vào học cấp 3, Minh bị tường đổ đè chồn ba đốt sống lưng. Sau khi cấp cứu một tuần trong Viện I, Minh phải nằm bất động 40 ngày. Tôi lấy cái bảng gỗ cho Minh nằm. Vợ tôi buộc giây vải giữ cho Minh nằm yên. Suốt bốn chục ngày Minh phải nằm bất động như thế, mọi sinh hoạt của Minh được mẹ phục vụ. Khi được giải phóng, Minh phải tập mãi mới đi vững. Năm thứ ba đại học, Minh lại bị lao, phải chữa chạy cả năm trời. Là con út, lại ốm yếu nên Minh được vợ chồng tôi thương nhiều. Thằng Minh yêu sớm. Tôi thường đùa: Nó giống bố trong chuyện yêu đương. Người yêu nó - cái Thu người Mỹ Lộc, học cao đẳng công nghệ thông tin cùng trường nó. Con bé gầy và cao, yếu ớt. Tôi có liên tưởng nó giống Khế hồi sinh viên. Khi Minh tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội, tôi nhờ Đỗ Văn Tý, khi đó là Phó Tổng giám đốc Tổng công ty cơ khí Hà Nội bố trí việc làm cho Minh ở Hà Nội. Minh đi làm thấy công việc không phù hợp liền bỏ dở, đòi học tiếp. Sau khi Minh tốt nghiệp đại học thứ hai, vợ chồng tôi lo cho Minh về dạy tại Trường Cao đẳng Naximex Nam Định. Về Nam Định được hai năm, Minh đi học và đỗ Thạc sĩ. Nhưng số thằng Minh lận đận. Trường Naximex không có người học nên họ giảm biên. Thằng Minh 36 tuổi chẳng xin được việc, nơi nào cũng vướng quy định độ tuổi tuyển dụng. Minh phải gồng mình xin làm hợp đồng cho một công ty thuốc ở Hà Nội để lo trang trải cuộc sống, nuôi hai con ăn học. Công việc buộc Minh phải thường xuyên đi dài ngày bằng xe máy các tỉnh từ Quảng Ninh tới Hà Tĩnh. Dịp Rằm tháng Bảy, con cháu quây quần, chỉ riêng Minh vẫn lang thang trên đường. Lòng tôi trào dâng cảm xúc và viết bài thơ trải lòng mình:

 

       CÀNG THƯƠNG THẰNG ÚT

 

Nhân Rằm tháng Bảy

Con cháu quây quần

Chỉ riêng thằng út

Đường xa phong trần

 

Cha sinh thời loạn

Long đong học hành

Chiến trường bỏ lại

Một thời tuổi xanh

 

Ước mơ đỗ đạt

Gửi hết vào con

Dạy con tử tế

Trung hiếu vẹn tròn

 

Hai mươi năm học

Phấn đấu không ngừng

Con là bảo bối

Cả nhà trông mong

 

Ngỡ bằng Thạc sĩ

Biển trời mênh mông

Gặp thời thổ tả

Cá chậu chim lồng...

 

Con cháu quây quần

Càng thương thằng út.

 

                     14-8-2016

 

       Con Thanh là đứa con gái duy nhất của tôi, lại là con đầu nên tôi rất yêu nó.  Nó yêu thằng Vinh. Gia đình Vinh không chấp nhận con Thanh. Biết hai đứa  quyết tâm lấy nhau, tôi bằng lòng cho đăng ký kết hôn và chủ động tổ chức đám cưới. Sau khi con Thanh có con, gia đình nhà chồng mới nhận con và cháu. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì con gái tôi hiện có gia đình tốt. Vinh tốt nghiệp Đại học Bách khoa và công tác cùng bộ phận với Hưng.

Cảm xúc về con Thanh lấy chồng trong hoàn cảnh nhà chồng không chấp thuận, mà tôi thì chẳng có tiền của gì cho con, tôi bật ra mấy câu thơ nấc nghẹn trong cổ:

 

                   CỦA HỒI MÔN

       Tặng con gái yêu Trần Thị Thanh

 

                     Con đi lấy chồng

                     không kiệu xe

                     đón rước.

                     Cha chẳng có gì

                     cho con

                     làm của hồi môn.

                     Gia tài lính cựu –

                     Chiếc ba lô

                     sờn tua kỷ niệm

                     Cha
                     Chỉ có

                     tình yêu

                     trời biển

                     cho con!

 

       Thằng Phương - cháu ngoại tôi, được ông bà ngoại cưng chiều. Mỗi khi trái gió trở giời, thằng Phương ốm là tôi lại lo thắt ruột. Thằng bé bụ bẫm, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Tính nó bẳn gắt chẳng khác con Thanh ngày bé. Nó là con đầu, cháu đầu nên được ông bà bố mẹ cưng chiều. Một ngày không thấy nó là tôi lại nhớ, lại nhắc nhỏm. Có lần tôi ốm, nó nói thầm vào tai tôi:

       - Cháu yêu ông. Ông ăn nhiều cho chóng khoẻ ông ạ.

Thời gian đi nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Mới đấy mà giờ thằng Phương đã thành một thanh niên tuấn tú, sắp tốt nghiệp đại học rồi…

 

                                ***   

      

Cháu ngoại Trần Minh Hằng của tôi chào đời lúc 11 giờ 10 phút trưa ngày 16 tháng 7 năm 2004 (tức ngày 29 tháng 5 năm Giáp Thân 2004). Những thiệt thòi, trắc trở trong công tác và cuộc sống ở cơ quan của tôi đều trở thành bé nhỏ và vô nghĩa trước sự kiện cháu Hằng ra đời. Khi ôm cháu ngoại trong lòng, tôi tìm lại cảm xúc của mình thời khắc ôm con Thanh bé nhỏ vừa chào đời, lúc mà bà ngoại đưa con bé cho tôi qua đống lửa củi đay cách đây hơn bốn chục năm. Ừ nhỉ, con Thanh đã hai con rồi, sao tôi vẫn cứ nghĩ nó luôn là đứa con gái bé nhỏ như ngày nào... Đôi má phinh phính, cái miệng mút chùn chụt, đôi mắt đen ngạc nhiên nhìn mọi vật của con Hằng sao mà đáng yêu đến thế. Trong niềm hạnh phúc dạt dào, tôi như say rượu, lâng lâng ngắm nhìn cháu Hằng. Trước mắt tôi, hình ảnh con Thanh đỏ hỏn, miệng mút chùn chụt, mắt sáng đen lạ lẫm nhìn mọi vật như hoà vào hình ảnh cháu Hằng. Tôi thầm nghĩ như gọi cháu, như nói với chình mình: “Cháu yêu của ông, cháu yêu của ông”...

 

       NGÀY ĐẦU ĐI HỌC CỦA BÉ HẰNG

 

       Bố làm công nhân bưu điện. Mẹ dạy ở trường tiểu học. Ban ngày bố mẹ đi làm, bé Minh Hằng ở với ông bà ngoại. Tối mẹ đón về. Năm Hằng lên ba, bà ngoại chuẩn bị tâm lý cho Hằng đi học mẫu giáo. Ngày ngày hai bà cháu đóng vai cô giáo và học sinh. Bà ngoại thường rót vào tai cháu:

       - Nào, ăn nhiều chóng lớn để đi học. Đi học có nhiều bạn, có nhiều đồ chơi, có cô giáo yêu như mẹ hiền, được học hát múa, học chữ vui lắm. Nào ngoan, đi học biết chữ để đọc báo, đọc sách, rồi làm cô giáo nào…

       Thỉnh thoảng cháu lại hỏi bà:

       - Bà ơi! Cháu đã lớn chưa? Bao giờ cháu được đi học hả bà?

       Bà bảo:

       - Ừ, cháu sắp được đi học rồi. Cháu ăn nhiều cho cao lên để chóng được đi học nhé!

       Cháu ăn ngon lành, không cần phải ép như trước. Mỗi lần ăn xong, cháu đứng dựa vào tường, chân kiễng lên, hỏi bà:

       - Bà xem cháu đã cao chưa?

       - Ừ! Cháu bà cao sắp bằng anh Phương rồi... Mai bà cháu mình đi mua cặp sách cho Hằng đi học nhé!

*

       Mẹ Hằng nói với ông bà ngoại:

       - Bố mẹ ạ, con đã xin cho cháu vào lớp 4 tuổi Trường Mầm non tốt nhất thành phố rồi, mai con cho cháu đến lớp ạ.

       Chín giờ tối, mẹ lại lai Hằng ra ông bà ngoại:

       - Con Hằng nhõng nhẽo đòi ra ông bà bằng được, để ông bà cho cháu đi mua cặp sách đây này.

       Ông săng sái lấy xe máy đèo hai bà cháu ra phố. Bà chọn cái cặp da đắt tiền. Hằng không chịu. Hằng thích cái cặp nhựa có gắn những hình con gấu, con thỏ, siêu nhân màu đỏ, vàng, xanh...

       Bố mẹ cho vào cặp bộ quần áo, bút chì, vở tập tô màu... Hằng đi ngủ, ôm cặp không rời.


       Ngày đầu tiên đi học, Hằng hào hứng phấn khởi, hát luôn miệng. Chiều mẹ đón về, Hằng ỉu sìu, mắt đỏ còn hoen nước.

       Sáng ngày thứ hai, Hằng nhất định không chịu đi học. Mẹ hỏi:

       - Sao hôm qua con thích đi học, hôm nay lại không chịu đi?

       Hằng một mực nói: “Con không đi học đâu!” và đòi mẹ lai đến nhà ông bà ngoại.
       Vừa tới cửa, mẹ Hằng đã tru chéo:

       - Đây, ông bà lai đi học mà con không đi thì mẹ đánh nhừ đòn! Ông bà xem này, nó đi học được một ngày, hôm nay giở quẻ không chịu đi. Nói mấy nó cũng không chịu. Nó gào khóc đòi ra ông bà đây này.

       Ông đón cháu vào nhà. Hằng ôm chặt cổ ông, hai chân quặp chặt bụng ông, miệng vừa khóc vừa cầu cứu:

       - Ông ôm chặt cháu vào! Cháu ứ đi học đâu! Ông ôm chặt cháu vào!

       Mẹ quát:

       - Ông ôm chặt thì mẹ cũng giật con ra được. Con không đi học thì mẹ đánh đòn. Hư quá!

       Hằng gào lên:

       - Ứ đâu! Con không đi học đâu, con học cô giáo bà cơ, con học cô giáo bà cơ...

       Bà bảo:

       - Thôi mẹ nó cứ đi làm đi, để rồi ông bà thí nó đi học sau...

       Mẹ đi rồi, bà bảo:

       - Nào cháu ngoan kể cho bà hôm qua cháu đi học có vui không nào? Cô giáo dạy hát bài gì nào? Có những bạn gì nào?

       Hằng nói trong tiếng nấc:

       - Bà ơi cháu sợ cô giáo lắm! Cháu không dám đi học đâu!

       - Cô giáo như mẹ hiền, sao cháu lại sợ?

       - Không đâu! Cô ác lắm! Cô ác lắm! Cô lấy cái dao to dài như thế này này – Hằng lấy hai tay mô tả con dao – Cô dứ dứ dao vào cổ cháu. Cô quát: “Mày có nín đi không? Tao chém cho một phát đứt cổ bây giờ!”...

       - Sao cháu lại khóc để cô mắng?

       - Cháu xúc cơm bị vãi ra ngoài, cô cốc vào đầu, nên cháu khóc.

       Ông hỏi:

       - Cháu nói có đúng không? Ông hỏi các cô mà cháu nói sai là bị phạt đấy!
       Hằng mở to đôi mắt đen láy ngây thơ nhìn ông:

       - Cháu nói đúng ông ạ! Cháu sợ cô giáo lắm!

       Bà thở dài:

       - Cô yêu cháu, cô mắng yêu đấy cháu ạ... Bà cháu mình cứ đi học, cô giáo mà mắng cháu như thế nữa thì bà cháu mình báo cáo Hiệu trưởng phạt cô. Hễ cô dọa thì cháu nói cho bà biết ngay nhé! Nào, bây giờ bà cháu mình đi học nào... Bà cháu mình hát “Cô và mẹ ấy hai mẹ hiền” nào...


       Chuyện ngày đầu đi học của cháu tôi rồi cũng qua đi. Cháu Hằng vẫn đi học ở Nhà mẫu giáo đó, nhưng nó không còn cái hồ hởi háo hức như trước khi đi học. Năm vào lớp 1, cháu nằng nặc đòi học “cô giáo Mẹ”, nhất quyết không học ai khác. Mẹ Hằng đành xin cho Hằng học trái tuyến về trường mẹ dạy.

       Năm nay bé Hằng lên lớp ba. Sáng sáng mẹ lai Hằng đến lớp, bán trú, tối mới về nhà. Nhà lại chuyển ra đô thị Hòa Vượng, cách nhà ông bà ba bốn cây số nên ít khi Hằng được về thăm ông bà. Ngày chủ nhật, Hằng đòi bố lai vào với ông bà. Ông bà lại rót vào tai Hằng viễn cảnh tươi đẹp của nhà trường, của các mẹ hiền và tương lai của học sinh. Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, gương mặt thơ ngây, đôi mắt đen trong như nước hồ thu lặng gió nhìn xa xăm bất định…

              Nhân ngày khai trường 2012

                               TMG                                

 

                           ***

 

 25 – 2 – 2008  Hường sinh cháu Trần Mỹ Hạnh, mổ đẻ. Cháu Hạnh nặng 3,8 kg. Nó là cháu nội đầu của vợ chồng tôi. Hồi nhỏ, con bé bụ bẫm như cục bột. Mấy bà hàng xóm cứ bảo nó giống ông nội. Nhớ lần bà cho cháu tập uống sữa ngoài, con bé nôn ra mật xanh mật vàng, phải vào viện cấp cứu. Lại một lần nó tập đi trên ghế băng, ngã sái tay phải đi thầy lang… Con bé sớm có tinh thần mình vì bạn. Nhớ hôm trời rét dưới mười độ, tôi đón cháu khi nó tan học, không thấy nó mặc áo rét, hỏi:

- Áo khoác cháu đâu không mặc mà rét tím thế này?

Cháu bảo:

- Bạn cháu không hiểu sao mất áo khoác. Nhà bạn ở xa, cháu gần trường nên cho bạn mượn áo đỡ rét ông ạ.

Nhà có quà bánh, nó đem cho ông. Ông bảo không ăn. Nó cứ bắt ông phải ăn bằng được. Năm nay Sóc Hạnh 11 tuổi học lớp 5, nặng 45 kg, cao 1,52 mét. Nhanh thế, cháu sắp thành người lớn rồi… 

 

Tháng 7 – 2008 con Hường thi đỗ công chức vào ngành giáo dục, chuyển từ Thư viện tỉnh về Trường THCS Tô Hiệu làm văn thư và Tốt nghiệp Đại học tại chức. Nhớ kỳ ấy, nghe nói người ta bán chỗ hết rồi, thi cũng chỉ là tập dượt, chứ chả hy vọng, con Hường định không thi. Tôi khuyên nó: “Thi tập dượt để sang năm thi chắc ăn”… Hường thi buổi sáng về tỏ ra chán nản. Buổi chiều, gần 14 giờ vẫn thấy nó nằm ôm con Hạnh, tôi nhắc:

- Đến giờ thi rồi, sao còn chưa đi?

Con Hường bảo:

- Thôi con chả thi nữa bố ạ. Những người chạy trước được họ cho thi chung một phòng, được mở tài liệu thoải mái. Bọn con thì họ theo dõi chặt lắm… Có giám thị bảo bọn con thi cũng chả đỗ…

Tôi nghiêm mặt:

- Dậy! Bố chở đi cho kịp. Cứ coi như thi tập dượt, cũng phải thi cho nghiêm…

Khi hai bố con đến địa điểm thi thì trống thi cũng vừa điểm.

Không hiểu sao, kỳ thi ấy phải lùi ngày chấm hơn một tháng. Chú Tuấn, giám đốc thư viện bảo:

- Chẳng hiểu sao em chấm bài thấy gần chục bài giống hệt nhau từ câu đến chấm xuống dòng cách một dòng… y như bài của cháu Hường. Chữ cháu Hường em nhận ra ngay mà. Bài của cháu rất tốt… Chỉ sợ cháu không có điểm ưu tiên, người ta có điểm ưu tiên 30% thì cũng không biết thế nào…

Tôi lo lắng, ngày nào cũng qua tỉnh chờ xem kết quả. Khi công bố kết quả, con Hường đứng thứ 7 trong số 9 chỉ tiêu được tuyển. Tôi thở phào nhẹ nhõm.

Sau đó, tôi và Uyên phó giám đốc thư viện tỉnh có giấy triệu tập chấm phúc khảo trường hợp thí sinh con gia đình chính sách có đơn đề nghị. Con bé là học sinh tôi, con gái một cán bộ trường văn hóa nghệ thuật nơi tôi thỉnh giảng. Con bé đứng thứ 10 nên trượt.

Ông giám đốc sở nội vụ phổ biến tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu chấm phúc khảo chung xong, nói với tôi:

- Bác Giống ạ, chấm phúc khảo cho nên xin bác lấy chữ phúc làm đầu ạ…

Tuấn nhắn tin: “Ông giám đốc sở văn hóa thông tin bảo em chỉ đạo anh cho con bé 100 điểm cho chắc ăn”. Tôi nhắn lại: “Nếu vậy số điểm chênh lệnh giữa lần chấm đầu của chú và lần chấm phúc khảo của anh quá lớn, chú và anh sẽ phải đối chất thì làm thế nào đây? Mất uy tín lắm!”. Tuấn nhắn: “Thôi thì tùy anh quyết chứ em cũng không ưa cái kiểu ép buộc”…

Kết quả chấm theo va-rem của tôi và Uyên hoàn toàn trùng khớp với kết quả chấm của Tuấn. Tôi bàn với Uyên:

- Mình không thể theo chỉ đạo của các bố ấy được. Cho điểm cao vọt để con bé này đỗ thì lại phải gạt một đứa đỗ ra… Nhưng nếu chấm đúng va-rem thì số điểm vẫn như cũ cũng tội nó. Chúng nó đều là học sinh của anh, cô xem nhất chí thì anh tăng cho nó một điểm đúng bằng con bé đứng thứ 9, để tỉnh quyết định.

Uyên đồng ý, cùng ký vào bài thi và văn bản báo cáo. Uyên nhắn tin cho Tuấn kết quả chấm. Sau này Tuấn cho biết có báo cáo lại Giám đốc sở Văn hóa Thông tin…

Chấm 30 phút xong bài, báo cáo kết quả, nhưng chúng tôi vẫn phải ngồi trong phòng chấm chờ mãi tới 11 giờ 30 mới được giải phóng. Sau mới biết, các vị đề nghị chủ tịch tỉnh thêm một chỉ tiêu. Mãi nghỉ trưa mới được chủ tịch tỉnh ký nháy đồng ý. Tôi nhẹ người và vui vì một học trò nữa đỗ công chức.

Cò mồi đến nhà gợi ý nộp 40 triệu sẽ xin cho con Hường công tác ở trường điểm. Lần trước họ cũng cò mồi 80 triệu thì sẽ lo cho Hường đỗ công chức. Tôi gạt đi, không nghe. Con Hường bảo:

- Thôi bố ạ. Con làm ở đâu cũng được…

Vậy là con Hường được phân bổ về Trường THCS Tô Hiệu làm văn thư thư viện. Trường này nhỏ ít học sinh…

 

21 – 8 – 2008  Thu sinh cháu Trần Minh Thành tại Bệnh viện phụ sản Hà Nội, mổ đẻ. Thu bệnh tim, phải mổ đẻ sớm. Cháu Thành ra đời thiếu tháng nên không được khỏe như chị Hạnh. Nhân năm 2018 học lớp 4, cò Thành đoạt giải nhất Olympie cấp trường, tôi viết bài “CÒ THÀNH”:

Mẹ cò Thành bệnh phải mổ tim… Cò Thành trong bụng mẹ được 7 tháng thì mẹ không chịu được, các bác sĩ phải mổ cho cò Thành ra đời sớm. Có lẽ do thai non tháng nên cò Thành hay ốm đau, tính tình rất thất thường. Ba tuổi tròn, có Thành phải đi trường mẫu giáo. Ba bốn nhà mẫu giáo đều chỉ nhận cò Thành được hai ba tuần là trả cò Thành về cho gia đình. Từ khi đến Trường Mầm non số 2 phường Vị Xuyên, cò Thành mới được các cô chấp nhận.

           Thời gian dài, cò Thành đến trường, cứ ôm khư khư ba lô, ngồi ngoài cửa chờ bố đón.

Mẹ cò Thành cho Thành đi bác sĩ ở Hà Nội. Bác sĩ bảo cò Thành bị tự kỷ, cần phải cho vào cơ sở chạy chữa dài ngày. Bố mẹ cò Thành đưa con đến chữa bệnh ở một cơ sở trên Hà Nội. Nhưng tiền chữa bệnh, tiền trọ, tiền ăn hàng tháng tốn gấp ba lần lương của bố mẹ nên cò Thành lại phải về Nam Định. Bố mẹ cò Thành thuê một bác sĩ tâm lý mỗi tuần ba buổi chữa cho cò Thành…

Thế rồi đến lúc cò Thành vào lớp 1. Cô chủ nhiệm không chịu được cái tính tự do, thích chơi là chơi, thích học mới học của cò Thành. Mỗi khi cô chủ nhiệm phạt thì cò Thành lại lăn ra đất giãy đành đạch… làm cô chán không chịu được. Bố mẹ cò Thành lại phải chạy cho cò Thành về trường tiểu học Lê Quý Đôn, giao cho bác Thanh là giáo viên dạy lớp 1 chăm sóc cháu. Được bác ruột dạy dỗ, kèm cặp, dần dần cò Thành cũng tiến bộ…

Năm học lớp 3, bác Thanh xin cho cò Thành tham gia cuộc thi Olympie cấp trường để cò Thành tập dượt làm quen... Cô chủ nhiệm rất lo cò Thành không làm được bài sẽ làm mất uy tín của cô. Nể đồng nghiệp, cô đành phải đồng ý cho cò Thành dự thi. Nhưng thật bất ngờ là kỳ thi ấy cò Thành đoạt giải Nhì.

Ông nội khen:

- Cò giỏi lắm! Ông tự hào về cháu.

Cò tiếc rẻ:

- Cháu phải nhất mới đúng ông ạ.

Ông hỏi:

- Sao cháu lại nói thế?

Cò:

- Tại vì cháu tự làm bài. Còn thằng giải nhất nó mở trộm tài liệu ông ạ.

- Thế à? Cháu tự làm bài là đúng thực lực của cháu. Vậy năm sau cháu cố gắng học tốt, làm bài thật tốt để lấy giải nhất nhé!

- Vâng ạ!

 

Năm lớp 4, cò Thành đoạt giải Nhất cuộc thi Olympie cấp trường. Cò Thành khệ nệ ôm chồng vở phần thưởng cùng giấy khen, giấy chứng nhận giải nhất khoe ông nội. Ông nội ôm cò Thành, khen:

- Cháu ông giỏi lắm. Ông tự hào về cháu.

Cò Thành bảo:

- Cháu cũng thường thôi ông ạ. Nhiều bạn còn giỏi hơn cháu nhiều cơ ông ạ.

Ông nội thoáng ngạc nhiên, rồi cười thật sung sướng:

- Cháu ông ngoan lắm! Đúng là còn nhiều bạn giỏi hơn cháu, so với người khác thì cháu cũng thường thôi. Nhưng cháu khi sinh ra thiếu tháng, thể lực gầy yếu, nhiều bệnh tật hơn những trẻ bình thường. Bố mẹ cháu lại quá khó khăn về kinh tế và sức khỏe nên không lo cho cháu bằng con nhà giàu… Cả nhà ai cũng lo cháu không thể học được. Vậy mà cháu phấn đấu được như vậy đã là rất đáng khen rồi. Điều quan trọng nhất là cháu cố gắng học tập hết sức mình là ông tự hào lắm rồi cháu ạ. Nào, ông thưởng cho cháu một trăm nghìn để cháu thích mua gì thì mua nhé!

Cò Thành bảo:

- Ông ơi! Không cần thưởng nhiều tiền đâu ông ạ. Ông thưởng cho cháu mười nghìn là được rồi…

Ông lại ngạc nhiên, cảm động:

- Ừ! Cháu xứng đáng được thưởng…

 

6 – 11 – 2008 (tức 9 – 10) bố tôi qua đời ở quê, thọ 90 tuổi. Trước khi bố mất, tôi nghỉ phép về hai tháng liền cùng chú Đằng chăm sóc bố. Cháo não cho bố và bữa ăn cho anh em tôi đều một tay thím Vân đảm nhiệm. Tôi và chú Đằng cùng túc trực ngày đêm phục vụ bố. Đêm đêm, dù mệt, nhưng nghe tiếng bố ho là hai anh em tôi bật dậy. Chú Đằng lấy giấy vệ sinh hứng để bố khạc đờm hoặc cho bố vệ sinh tại chỗ…

Chú Hải nhờ xe cơ quan công an đưa bố đi bệnh viện 1 rồi bệnh viện lao chạy chữa gần tháng trời, nhưng bệnh bố không thuyên giảm. Chụp chiếu thấy phổi bố tôi đã mất một bên… Bác sĩ khuyên: “Cụ đã chín mươi rồi nên cho cụ về…”

Những ngày gần mất, bố tôi tự nhiên không nhìn thấy gì nữa. Bố tôi hỏi tôi:

- Đã tối chưa con?

- Dạ, tối lâu rồi bố ạ.

- Con bật điện lên cho sáng, đừng tiết kiệm quá.

- Điện vẫn sáng mà bố.

- Sao bố chẳng nhìn thấy ánh sáng?

Tôi im lặng. Lúc sau, tôi hỏi:

- Bố ơi, sau này… chúng con làm thế nào hả bố?

Bố tôi bảo:

- Nguyện vọng của bố là các con không được bán đất hương hỏa cha ông để lại. Năm trước các con đã nhất trí làm thủ tục cho vợ chồng anh Đằng kế thừa một nửa đất của bố mẹ. Phần còn lại, bố muốn làm nơi thờ cúng của dòng họ, giao cho anh Hữu là trưởng tộc chủ trì. Nếu anh Hữu làm nhà thờ tổ ở Giao Lạc thì các con cứ cúng giỗ ở đây. Hàng năm các con nên về đây cúng giỗ cha mẹ…

- Vâng… Thế… nếu bố… chúng con phải làm…

Bố tôi bảo:

- Đám tang bố, các con mời một đội kèn trống, một đội kèn đồng bên công giáo là được rồi. Nếu hội trống làng họ Trần có đặt vấn đề thì các con từ chối. Ngày thành lập hội trống làng, bố là người đầu tiên nộp tiền chân quỹ. Nhưng khi mẹ các con mất, báo cho hội trống trả hiếu thì họ lại bắt trả tiền thuê như đối với người ngoài. Bố thắc mắc thì họ cãi bay là bố chưa đóng góp. Bố rất giận hội trống. Từ đó bố thề không thèm cái hội đó nữa.

- Dạ, con nhớ rồi ạ. Con sẽ làm đúng lời bố dặn.

Tôi nhớ bố tôi thường khuyên răn nhắc nhở chú Hải, chú Giang là công an phải làm việc có lợi cho dân, chớ sách nhiễu, ăn hối lộ dân… Một lần có người đến nhà tôi gửi biếu chú Hải (khi đó ở với tôi, làm cán bộ hình sự) một bọc tiền. Nhớ lời bố dạy, chú Hải quyết không nhận, và đã giúp người đó tận tình.

Sáng mồng 6 tháng 11, thấy bố bỗng khỏe lên nhiều, giọng nói to và hoàn toàn tỉnh táo, tôi nói:

- Tiền chi tiêu hàng ngày… Hay con về Nam Định lĩnh lương…

Bố tôi vui vẻ:

- Ừ, con tranh thủ lĩnh lương rồi về ngay nhé! Vân Đằng túng lắm, không có tiền đâu…

Tôi đi Nam Định, vừa đến nhà thì chú Đằng điện:

- Anh ơi! Bố đi rồi…

Bữa ấy trời nắng gắt, nóng rất bức bối. Tôi lai Khế về quê ngay. Bên nhà chú Đằng, vợ chồng chú Hải, vợ chồng chú Giang đang bàn kế hoạch lo đám tang bố. Tôi bổ vào giường bố nằm, gọi lạc giọng: “Bố ơi! Bố ơi!”… Mắt bố tôi vẫn mở. Tôi hỏi chú Đằng: “Sao không vuốt mắt cho bố?”. Chú Đằng bảo: “Em vuốt mãi mà không được”. Tôi khấn thành lời: “Bố ơi! Con vuốt mắt cho bố. Bố thương con bố nhắm mắt lại đi…”  Tôi vừa khấn, vừa vuốt mắt bố. Vài lần như thế, mắt bố tôi đã khép kín lại. Hôm sau, trời bỗng mưa như trút nước cả đêm. Tôi rất lo sáng sau vẫn mưa thế này không biết đưa bố ra nghĩa trang làm sao… Sáng hôm sau, mưa đột ngột tạnh, trời quang, mát mẻ. Đám rước đưa bố tôi ra đồng đông người kéo dài cả cây số. Đội kèn trống và đội kèn đồng luân phiên cử những điệu nhạc đưa tiễn trang nghiêm. Đội kèn đồng gồm 50 tay kèn, vừa thiếu niên, thanh niên, vừa người già, xếp thành hàng trẻ trước già sau rất quy củ. Đám hiếu bố tôi, cũng như đám mẹ tôi ngày trước, thật nhiều cơ quan phúng viếng, nhiều người đưa tiễn…

Sau khi bố mất, tâm trạng hụt hẫng trong tôi kéo dài mấy năm trời.

 

27 – 11 – 2009 (tức 11-10) bà ngoại Thái Bình mất, thọ 95 tuổi. Hai vợ chồng tôi vừa về giỗ đầu ông nội lên, sang Thái Bình không kịp gặp bà.

Hai năm trước, bà ngã gẫy tay. Bác Hoa đưa bà đi viện Thái Bình bó bột rồi đón bà về nhà bác luôn để tiện chăm sóc. Năm sau bà đòi về quê. Sau khi ngã gẫy tay, sức khỏe bà giảm nhiều. Dần dần bà chỉ nằm trên giường, không dậy được. Cô Đèo chăm sóc, nâng giấc, phục vụ bà ngày đêm. Vợ chồng tôi chủ nhật nào cũng về thăm bà. Bà bắt đầu lẫn, khi nhớ khi quên, rồi không nhận ra được con cháu nữa. Nhưng rất lạ là bà vẫn nhớ tôi. Một lần trong phòng chỉ có tôi ngồi cạnh bà, bà lấy bó tiền cuộn đủ các loại mệnh giá từ túi áo ra đặt vào tay tôi… Tiền này là của con cháu họ hàng thăm biếu bà.

Tôi yêu quý và cư xử với bà như với mẹ đẻ. Bà hết lòng vì con vì cháu. Ngày con Thanh sinh thằng Phương, bà trông nom chắt suốt hai năm liền. Bà nuôi dạy 6 cô con gái và một cô con nuôi lên người. Chị Ký đã qua đời. Chị thứ hai là chị Hoa, nguyên Chánh án toà án Thái Bình. Chị Mơ cũng là cán bộ hưu trí. Gia đình, con cái các chị đều khá giả. Cô Đèo ở quê, đảm đương công việc của cả nhà vợ tôi, lo giỗ tết và là nơi hội tụ của gia đình. Cô Chanh đi miền Nam, các con cô đều học đại học. Khế là con thứ tư của bà.

Tôi biết ơn bà vì bà đã sinh ra và cho Khế làm vợ tôi. Đưa tiễn bà ra nghĩa trang, tôi nói thầm với bà: Mẹ ơi! Mẹ yên tâm về với ông và tổ tiên. Con ơn mẹ bằng trời biển vì mẹ đã tặng cô con gái thứ tư cho con. Con yêu vợ con vô cùng. Nếu thật có kiếp luân hồi như nhà Phật nói, thì kiếp sau con vẫn mong được lấy Khế làm vợ. Hạnh phúc của con cái là hạnh phúc của cha mẹ. Vợ chồng con sẽ chung thủy, yêu thương nhau đến khi lìa đời. Mẹ cứ an lòng mẹ ơi…

 

29 - 8 – 2012  Thu sinh cháu Trần Minh Thùy. Mổ đẻ ở Bệnh viện Phụ sản Trung ương Hà Nội. Con Thu bệnh tim. Cả nhà tôi đều không muốn nó đẻ. Nhưng con Thu quyết sinh con thứ 2. Thật may nó mẹ tròn con vuông. Tôi mừng có thêm một cháu gái.

 

Mồng 8 Tết năm 2012 cô Mạo (Trần Thị Lan) em ruột bố tôi qua đời.

       14 h 30 ngày 17 – 2 - 2013 tức mồng 8 tháng Giêng năm Quý Tỵ, tôi đến thăm nhà thơ Chu Đình An, mở trang blog của tôi theo yêu cầu của nhà thơ. Trang blog của tôi bình thường như mọi ngày, các bài viết, ảnh minh họa rõ nét. Nhưng tự nhiên tôi thấy tâm trạng bất an, nóng ruột rất lạ. Nghĩ là mình lên cơn huyết áp vì căng thẳng nên tôi vẫn lướt các bài mới đăng cho bác An xem. Khi tôi mở tới bài “Chủ nhân blog tranmygiong vừa nhận giải thưởng văn học nghệ thuật Lương Thế Vinh” thì đột nhiên các tấm ảnh trong bài xô lệch chờm lên nhau, sau đó vài giây thì toàn màn hình bị che mờ không đọc được nữa. Hiện tượng này tôi chưa gặp lần nào. Tôi thoát ra vào lại mấy lần, hiện tượng trên lại diễn ra y như vậy. Tôi bảo bác An:

       - Lạ thật, em chưa gặp tình huống như thế này bao giờ. Cứ như điềm báo gở ấy bác ạ. Thường ngày máy tính của bác có xảy ra tình trạng như thế không?
       Bác An bảo:

       - Không. Máy dùng vẫn tốt cơ mà…

       Đột nhiên vang lên tiếng chuông điện thoại của tôi. Tôi bấm phím nghe. Tiếng vợ tôi gấp gáp:

       - Anh về ngay thu xếp về quê, chú Đằng vừa gọi điện bảo bà Mạo ngã xuống sông, đang cấp cứu nhưng không có hy vọng…

       Bà Mạo là cô ruột tôi. Tôi chỉ kịp nói với bác An: “Bác tắt hộ máy giúp em. Cô em gặp nạn. Em phải về quê ngay!” rồi chạy vội về nhà.

       Hai vợ chồng tôi vội vã về quê. Vừa mở khóa xe, chưa kịp nổ máy thì chuông điện thoại máy tôi lại reo. Cháu Văn là con chú em tôi báo tin:
       - Bác ơi, bà Mạo mất lúc 15 h 15 rồi. Bác về ngay đi...

 

       Khi lo xong việc cô tôi, tôi gọi điện hỏi bác An:

       - Bác mở máy xem lại bài em mở hôm ấy hiện tượng xô lệch che đen màn hình thế nào rồi.

       Bác An nói luôn:

       - Tôi mở máy vẫn bình thường, hình vẫn đẹp…

       Vậy là hồn cô tôi báo điềm gở cho tôi chăng?

 

                           ***

 

Tết 2015: Nhà 28A ô19 Hạ Long bị giải tỏa. Thành phố thu hồi đất làm đường Trần Thánh Tông. Số tiền được đền bù đủ mua cho Minh một suất đất nơi tái định cư. Chưa có điều kiện làm nhà. Bắt đầu chuyển nhà ra ở nhờ nhà chị Thanh thì Minh phải đi viện. Ghi lại sự kiện gian nan vất vả này, tôi viết bài:

 

           CUỘC ĐỜI DÂU BỂ

 

            “Trải qua một cuộc bể dâu”

            An vui chưa trọn, đã sầu vô cư…

 

 HOAN HÔ QUY HOẠCH… TREO!

            “Xóm văn hoá” là một xóm nghèo. Gọi là xóm văn hoá nghèo vì hầu hết các hộ dân ở đây là cán bộ ngành văn hoá đương chức hoặc đã nghỉ hưu. Mà lương cán bộ ngành văn hoá làm sao không nghèo được.

            Năm 1987 ngành văn hoá được tỉnh quan tâm cấp cho khu đầm lầy làm nhà tập thể cho cán bộ, công nhân viên trong ngành để không còn cảnh cán bộ ăn nghỉ tại phòng làm việc của cơ quan. Chủ trương của tỉnh làm nức lòng cán bộ ngành văn hoá. Nhưng cơ quan không có kinh phí xây dựng, thay vì phải làm nhà tập thể, đành chia đất cho từng hộ gia đình tự vượt lập và xây dựng. Khốn nỗi hộ nào cũng nghèo (Có nghèo mới phải bám lấy nhà làm việc mà tá túc chứ), thành ra hẹo hẵng mãi đến ba bốn năm sau mới hình thành xóm nhà cấp bốn.

            An cư chưa được bao lâu, năm 1996 nhà nước lại quy hoạch đô thị, hầu hết xóm văn hoá nằm trong diện đất quy hoạch. Cán bộ phòng nhà đất đo đạc, lập biên bản hiện trạng từng hộ để làm cơ sở đền bù khi thành phố thu hồi đất. Cán bộ phường thông báo cho các hộ thuộc diện quy hoạch không được cơi nới, xây dựng thêm để tránh phức tạp cho việc đền bù. Người xóm văn hoá lại háo hức chờ đón ngày thực hiện quy hoạch. Nhà nào cũng gương mẫu chấp hành quy định, không xây dựng gì thêm.

            Thế là ai nấy cố chịu đựng cái cảnh trời mưa thì ngập lụt, nhà dột nát, phân rác trôi vào tận phòng ở, trời nắng thì nóng bức, chật chội. Chất lượng sống của dân xóm văn hoá thật... chẳng văn hoá chút nào.

            Nhưng chờ đến mỏi mắt mà không thấy chính quyền thực hiện quy hoạch. Gần mười sáu năm sống cảnh chờ đợi nhà nước thực hiện quy hoạch đã quá sức chịu đựng, các hộ buộc phải làm đơn kiến nghị gửi Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, song chẳng có hồi âm. Chính quyền địa phương cũng không biết bao giờ trên mới thực hiện quy hoạch.

            Bán nhà không được, cải tạo cũng không được, người xóm văn hoá thật bức bối. Chú Lương là thủ trưởng một đơn vị quân đội, được đơn vị và đồng đội ủng hộ vật tư, kinh phí bèn mua đất đô thị mới, xây luôn nhà ba tầng. Hôm ăn mừng nhà mới, chú oang oang tâm sự :

            - Bà con hẳn còn nhớ gia đình em ở xóm văn hoá khốn khổ như thế nào. Nhờ cái quy hoạch treo, vợ chồng em mới được đơn vị, bạn bè giúp đỡ mà làm được ngôi nhà cao tầng, tiện nghi đầy đủ. Thật là sung sướng. Em phải hoan hô cái quy hoạch treo!

            Nếu được như nhà chú Lương thì tôi cũng phải hoan hô cái quy hoạch... treo. Nhưng còn bao nhiêu gia đình vẫn phải chịu đựng cái khổ do quy hoạch treo gây ra? Nghe nói nhà nước có quy định quy hoạch nào sau ba năm không thực hiện thì phải bỏ. Nhưng ai công bố xoá bỏ cái quy hoạch treo? Dân xóm văn hoá còn phải chịu đựng đến bao giờ tình trạng này?

                                                                           

                  VỠ TRẬN

 

            Năm 1996, chính quyền cắm mốc quy hoạch làm đường qua xóm văn hóa, cấm tiệt việc cơi nới, xây dựng mới. Các công dân gương mẫu xóm văn hóa kiên nhẫn chịu đựng cảnh mưa ngập cứt trôi vào nhà, hè nóng như lò nung hành hạ... quyết không xây dựng mới, không sửa chữa nâng cấp nhà ở, chấp hành nghiêm lệnh của chính quyền.

            Đầu năm 2015, chính quyền mời bà con ra phường, báo cáo dự án của thành phố, hứa đền bù công trình trên đất theo giá thị trường, bằng giá xây dựng mới, đất cũng được tính theo giá thị trường thời điểm đền bù. Bà con hoan hỉ, ai nấy háo hức mong mỏi dự án nhanh chóng được thực thi để đổi đời. Gặp ai cũng nghe câu cửa miệng cảm ơn..., cảm ơn...

             Ban dự án cùng đại diện các hộ bị thu hồi đất chia nhau đến từng nhà kiểm đếm thật chi tiết, từ cái cây cau tí tẹo đến cái giếng đã bị lấp bỏ cũng được kiểm đếm, không bỏ sót cái gì. Không cần đọc kỹ biên bản kiểm đếm, các chủ hộ ký cái rụp, tin tưởng vào tương lai tươi sáng...

            Nhưng tâm trạng phấn khởi mong mỏi đã nhanh chóng chuyển sang ngơ ngác, bất bình, thất vọng khi nhận được bản dự toán tiền đền bù. Hóa ra cái giá thị trường mà ban dự án nói chỉ bằng nửa giá thực tế. Chẳng hạn, nhà mái bằng một tầng được chi trả 2,5 triệu đồng một mét vuông, bằng một nửa giá xây dựng hiện tại. Mỗi mét vuông đất bị thu hồi được đền bù gần 6 triệu đồng, trong khi đó giá thị trường 10 đến 12 triệu đồng mét vuông... Toàn bộ số tiền được đền bù đất và công trình nhà ở trên đất không đủ mua một suất đất tái định cư tương đương với diện tích đất bị thu hồi mà ban dự án bán cho theo giá thị trường. Vậy là cơ nghiệp cả đời tích cóp của hai vợ chồng chủ hộ bỗng nhiên mất trắng. Ông bạn đồng hương nguyên là chiến sĩ đơn vị anh hùng, xuất ngũ làm nghề bán bánh mì dạo, ở nhà tập thể trước năm 1980, không có tiền chạy sổ đỏ, giờ chỉ được đền bù một nửa.

            Bà con bị thu hồi đất đồng lòng làm đơn kiến nghị lên UBND thành phố, không chấp nhận giá đền bù quá thấp, giá đất bán cho dân lại cao... Ban dự án lại tổ chức họp và hứa chuyển ý kiến bà con lên trên xem xét. Bà con lấy lại hy vọng, nôn nóng chờ phản hồi của chính quyền... Nhưng chưa có hồi âm, đã thấy quyết định đền bù đóng dấu UBND thành phố đỏ chót gửi xuống từng hộ gia đình bị thu hồi đất. Ban dự án mời đại diện từng hộ gia đình lên ký biên bản đền bù theo từng thời điểm khác nhau. Bà con xóm văn hóa lại tổ chức họp khẩn cấp, thề quyết không ký. Ông Lê Đạo Đức hùng hổ tuyên bố:

            - Tôi quyết không chấp nhận giá đền bù vô lý này. Cùng lắm, tôi làm Đoàn Văn Vươn thứ hai...       

            Trưa hôm sau, tôi về xóm với tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của hội nghị xóm, không chấp nhận đền bù của ban dự án, thì thấy xóm nháo nhác như ong vỡ tổ. Ông bạn hưu trí cùng ngành văn hóa nói trong nước mắt:

            - Vỡ trận rồi bác ơi!

            - Sự thể ra sao?

            - Nó tung cò đất đến từng nhà, gạ trả tiền tươi chênh lệch từ 100 triệu đến 130 triệu một suất đất dự án bán cho hộ dân. Ai ký đồng ý chấp nhận giá đền bù của Ban dự án sẽ được chọn mua lô đất đẹp để trao tay giấy tờ cho cò đất, nhận ngay tiền chênh lệch. Ai ký muộn sẽ chỉ còn đất xấu, cò không mua. Bà con bảo nhận tiền tươi chênh lệch bán đất được cả trăm triệu đồng, chả hơn là đấu tranh biết có kết quả không... Vậy là tranh nhau ký...

            - Ông Lê Đạo Đức thế nào?

            - Ông Đức nhận tiền tươi cò đất trao tay, ký nhận đền bù của Ban dự án rồi...

            Các hộ dân bị thu hồi đất lúc này vẫn nói câu cửa miệng: Cảm ơn... nhưng không phải là cảm ơn... cảm ơn... như mấy hôm trước, mà là cảm ơn cò đất.

             Đúng là cái khó bó cái khôn. Ban dự án kinh nghiệm đầy mình, cò đất lại cáo già, cánh dân nghèo thật như đếm không vỡ trận, thua đau mới là lạ!

            Một tháng sau, xóm văn hóa tan hoang những ngôi nhà bị phá dỡ. Gặp mấy bà hôm trước còn luôn mồm cảm ơn cảm huệ cũng đang ngơ ngẩn nhìn nơi ở cũ, tôi hỏi:

            - Sao bây giờ không thấy các bà cảm ơn cảm huệ vậy?

            - Ôi dào... Bây giờ chúng em chẳng cảm ơn cảm huệ thằng nào con nào sất cả!

 

NGẨN NGƠ NƠI CŨ, MỚI

 

       Thực hiện lệnh giải tỏa nhà đất, nơi diễn ra bao nhiêu kỷ niệm của gia đình suốt một phần tư thế kỷ, đã một tháng nay, tôi hàng ngày vẫn vô thức trở về nơi ở cũ ngắm nhìn cảnh tan hoang mà lòng như xát muối.

            Tất cả tiền người ta đền bù cho 72 mét vuông đất và toàn bộ cơ ngơi nhà, công trình phụ của tôi chỉ mua được 50 mét vuông đất nơi tái định cư họ bán cho... Hôm qua tôi đã nhận đất mua ở nơi tái định cư.

            Từ trên cầu Lộc Hạ bắc qua con mương thoát nước thải của thành phố mà dân chúng gọi là MƯƠNG THỐI (bới nó thối kinh khủng) tôi nhìn thửa đất mới mua trong màn mưa bụi ảm đạm mà lòng buồn khôn tả.

            Đi đến ngang khu đất tái định cư, từ bờ bên này mương thối nhìn sang thấy họ mới khai phá con đường lổ đổ xếp gạch vỉa hè mà chưa đổ nhựa lòng đường.

            Khi tới sát lô đất 50 mét vuông tôi mua, thấy nó bé tí tẹo... Lô đất của tôi  liền kề với lô đất cùng diện tích mà một nhà dãy trước mua và làm cái ga-ra để ô tô con của gia đình, trông  như cái chuồng chim chuồng chó...

            Lô đất bé tí tẹo thế mà tôi vẫn lo không biết xoay đâu ra đủ tiền để làm một căn nhà tương tự như cái chuồng chim chuồng chó của ông hàng xóm dùng để xe con...

            Trước mắt, vẫn phải để vợ và cả gia đình thằng con út ở nhờ con gái lớn, đến đâu hay đến đó.

            Một bà thấy tôi ngơ ngẩn trước mảnh đất mới mua, tò mò hỏi han. Khi rõ chuyện, bà thật thà:

            - Bác mua chỗ nào không mua, lại mua ở cạnh cái mương thối. Em ở đây tứ mùa ngửi cứt khổ lắm bác ơi...

            - Rồi người ta phải làm cống hộp chứ bác! Nhà nước ai lại để dân sống trong môi trường mất vệ sinh như thế!

            - Xin lỗi bác đi! Còn lâu nhé! Em ở đây ba chục năm rồi nhé!...

            Nói rồi bà xỉ mũi cái roẹt và quay ngoắt đi, bỏ mặc tôi ngơ ngác cạnh mảnh đất của mình...

                                                                              5-2016

 

                           ***

 

Năm 2017: Hoàn thành xây dựng nhà cho Minh Thu tại đường Nguyễn Đức Cảnh dọc mương Lộc Hạ. Ở nhờ mãi nhà anh chị cũng không tiện, Minh đòi làm nhà. Vậy là cả nhà huy động anh chị em họ hàng giúp đỡ. Tôi trông coi công trình nửa năm trời. Cuối cùng thì công trình nhà cho Minh cũng hoàn thành. Động viên vợ chồng Minh Thu: “Cháo húp vòng quanh, công nợ trả dần”…

Ngày cúng nhà mới cho Minh chuyển ra ở, trộm lấy mất xe đạp của vợ tôi. Trước đấy không lâu, vợ tôi đi chợ cũng bị cắp lấy xe đạp và túi tiền. Thấy vợ mặt tái đi vì buồn tiếc của, tôi bèn viết một bài thể hiện tình yêu vợ và làm cho vợ vui:

 

       MAY QUÁ! CẢM ƠN BÀ!

 

       Cuối năm Giáp Ngọ, ông thầy cúng cùng xóm bảo:

       - Sang năm là năm Ất Mùi, ông phải cẩn thận đấy. Vợ chồng ông, con gái lớn, cháu nội đều tuổi Sửu. Con trai lớn tuổi Thìn, con dâu lớn tuổi Tuất. Vậy là Thìn, Tuất, Sửu đi với Mùi là xung lắm…

       Tôi cười:

       - Ông chỉ được cái... Ông gợi ý cúng đầu năm chứ gì, nhưng cái này vợ tôi nó quyết ông ạ.

       Hai chín Tết, con gái lớn đi chợ hoa bị kẻ cắp móc túi lấy mất điện thoại xịn.
       Sáng mồng một Tết, tôi đánh vỡ cái cốc thủy tinh.

       Ngày 8 tháng 3 (18 tháng Giêng âm lịch), vợ tôi bị trộm lấy mất xe đạp, túi tiền...
       Bụng bảo dạ: Lời tay thầy cúng thiêng thật!

       Đầu óc lan man nghĩ ngợi...

       ...Tháng giáp Tết, vợ lĩnh trước hai tháng lương hưu liền của hai vợ chồng. Chi tiêu cho Tết, còn lại vợ đem cho con dâu nhỏ lo ăn cả tháng. Chưa kịp đưa cho con dâu, lớ xớ thế nào, vợ bị bọn trộm lấy cả tiền, cả xe đạp. Tiền thì một tháng nữa lại có lương. Tiếc cái xe đạp cà tàng, vật kỷ niệm gắn chặt với vợ. Sáng sớm vợ vội đi chợ mua rau cỏ, về nấu mì cho chồng; Lại vội vàng sang nhà con út lo cơm nước, trông cháu cho chúng đi làm; Khi con cháu hai tuổi rưỡi quấy khóc, bà lai cháu “Vòng quanh thế giới” - đi quanh xóm cho nó nín; Chín mười giờ tối vợ hớt hải về nhà canh chồng huyết áp cao, sợ nhỡ đêm hôm chồng có làm sao còn... Tất cả sinh hoạt tất bật ấy đều trông vào cái xe đạp cà tàng. Vậy mà... Thật là chó cắn áo rách. Bọn trộm nhằm trúng ngày mồng 8 tháng 3 – ngày phụ nữ được tôn vinh, nhẫn tâm lấy trộm xe và tiền của phụ nữ, thì thật là bất nhân quá...

       ...Mấy bà bạn thảnh thơi, ngày ngày đi bộ chăm lo cho sức khỏe và duy trì sắc đẹp, thấy vợ tôi vất vả héo hon thì bảo:

       - Bây giờ con cái đã trưởng thành, có gia đình riêng, có công ăn việc làm thì để chúng tự lo. Cần thì thuê ô sin. Ông bà già yếu rồi, phải lo cho mình chứ. Mà có ôm mãi được chúng nó không?

       Khổ! Thì cũng biết vậy, nhưng thấy con cháu khổ quá, không giúp chúng không đành lòng. Con dâu bé tốt nghiệp Bách khoa, dạy tin học trường tiểu học ở dưới huyện, lương tháng ba triệu, bệnh đau tim nên chả dạy thêm dạy nếm gì. Mà có dạy thêm thì ở nông thôn cũng không ai học. Con trai hai bằng đại học Bách khoa, thêm cái bằng thạc sĩ điện tử viễn thông, làm giáo viên Trường Cao đẳng của Tổng công ty Dệt mà lương chưa nổi ba triệu. Không có người học, trường còn nợ lương giáo viên tháng này trả tháng trước... Tiền lương chỉ đủ xăng xe, đóng tiền học trong học ngoài cho thằng lớn đang học lớp một, mua sữa cho con bé chưa đi nhà trẻ. Lại còn bao nhiêu thứ phải chi: ăn hàng ngày cho cả nhà, tiền điện, tiền nước, tiền vệ sinh, tiền ga, tiền thuê bao truyền hình cáp, tiền internet, tiền điện thoại, tiền khóc, tiền cười, tiền viện, tiền thuốc cho hai đứa trẻ ốm yếu luôn, tiền nghĩa vụ với nước, với xóm ngõ, tiền các hội... thì còn đâu nữa mà thuê ô sin. Thôi thì nước mắt chảy xuôi, đành để vợ đem lương theo làm ô sin cho con cháu.

       Vắng bàn tay chăm sóc của vợ, tôi tự lo cho bản thân thật là vất vả. Lại nghĩ: Mình vất vả một, vợ vất vả mười...

       Thấy vợ mặt nhợt nhạt, thảng thốt báo tin: “Ông ơi... tôi... mất hết rồi! Xe đạp và túi tiền...”, tôi hụt hẫng: “Đã bảo...”, nhưng lời tắc lại trong họng. Chợt nghĩ đến lời ông thầy cúng, thôi của đi thay người... Lát sau:

       - Thế cái... cái bà vẫn dí vào thơ tôi ấy, có còn không?

       Vợ trả lời bị động:

       - Còn…

       - Ôi, thế thì may quá! Cảm ơn bà!

       Thoáng thấy đôi mắt u ám của vợ tôi ánh lên tia sáng, những nếp nhăn hằn sâu trên mặt như giãn ra...

 

Mấy tháng sau khi khánh thành nhà Minh Thu, tôi bị tai nạn xe máy gẫy xương phải nhập viện… Thật là, mấy ông thầy cứ độc miệng, nói tôi thể nào cũng gặp nạn làm nhà, gạ phải cúng giải hạn… Tôi chả tin. Bây giờ bị nạn tôi cũng thấy sợ sợ… Tôi ghi lại sự kiện này như sau:

 

                  NẰM VIỆN

 

           HỌA VÔ ĐƠN CHÍ

       Tự nhiên tai trái lão bị đau ngứa đến ù như điếc cả tuần không đỡ. Lão đành đi khám bệnh. Bác sĩ bảo lão bị nấm sợi ống tai trái, phải nhập viện điều trị ít nhất là hai đợt, mỗi đợt 15 ngày.

       Nằm khoa da liễu bệnh viện đa khoa tỉnh được 8 ngày thì bà dì ruột lão mất ở quê. Lão buộc phải xin ra viện về chịu tang dì.

       Hai ngày phục tang dì xong, hai vợ chồng lão đi xe máy từ Giao Thiện (Giao Thủy) về tỉnh. Quá mệt mỏi, nên lão đi chậm. Qua ngã ba Cổ Lễ - đường 21 thì bất ngờ lão nghe đánh rầm, rắc rắc, rồi ngã lăn quay giữa đường. Định thần, nhờ người bên đường dìu đứng dậy, lão thấy vợ còn ngồi bệt giữa đường, đầu gối xước tua rướm máu, ánh mắt thất thần. Lão vội giơ tay bước đến để đỡ vợ thì bàn chân phải, ngực trái và bả vai nhói đau. Cánh tay trái lão phản xạ tự nhiên ép vào sườn, cẳng tay co lại ôm chặt bụng. Lão có cảm giác làm thế cái đau đỡ đi phần nào. Ai đó đỡ vợ lão dậy. Vợ lão bấm điện thoại gọi cho các con ở thành phố, nhưng tay run không sao thực hiện được. Một ai đó đã bấm gọi hộ. Lão phều phào hỏi vợ:

- Bà có bị thương chỗ nào nặng không? Đầu gối…?

Vợ lão lấy lại bình tĩnh, trấn an lão:

- Tôi không sao. Đầu gối xước da thôi… Ông thấy trong người thế nào?

- Tôi… đau…

Lão bắt đầu như ngất đi, như mơ ngủ.

       - Mở cửa xe đưa ông lên.

       - Đi luôn Bệnh viện đa khoa tỉnh chứ bà?

       - Ừ. Ông có bảo hiểm ở đó…

                                    *

       Khi lái xe gọi to: “Ông ơi, tới rồi ạ”, lão mở mắt, giơ tay phải mở cửa xe, mãi không mở được. Mu bàn tay lão đầy máu lẫn thuốc lào và lông Cu Li do dân nơi xảy ra tai nạn đắp cầm máu cho.

       - Để cháu mở cho ông.

       Lão đưa chân phải ra đứng lên thì cảm giác nhói đau, lại ngồi bệt xuống ghế. Vừa khi ấy, các con giai, con gái và vài người bạn của con lão, con dâu, con rể, mấy đứa cháu lão đã kịp đến bế lão đặt lên xe lăn…

       Từ phòng chụp hình, siêu âm đến phòng mổ là quãng đường dài như vô tận, là cực hình với lão. Mỗi cái vấp của bánh xe là một lần buốt đau tận óc. Lão nhắm mắt, gồng người chịu đau… Loáng thoáng ai đó nói bên tai lão:

       - Ông phải mổ nẹp đóng đinh xương đòn trái… Nhanh thôi ông ạ… Không sao đâu… 

       Lão nghĩ: Các cụ nói không sai, thật là họa vô đơn chí…

                     *

       Bác sĩ áo xanh luồn ống thở vào hai lỗ mũi lão, nói:

       - Ông hít thở sâu vào…

       Lão hít thật sâu, thật sâu… Rồi lão nghe tiếng khoan bắt vít vào tường… Rồi lão thấy bố mẹ lão dắt lão đi trên con đường quê đầy hoa lá… Rồi lão thấy bỗng nhiên mình rơi vùn vụt xuống một vực sâu đen nghòm, cây cối đá núi cứ vun vút chạy ngược lên trên… Lão nghĩ, phen này mình chết chắc rồi, nhưng mình chưa thể chết được, còn phải đưa đón cháu nội đi học, còn phải bế cháu đích tôn sắp ra đời, còn phải đợi dự cưới cháu ngoại, còn nợ bao nhiêu là bài của bạn văn chưa lên trang blog… Chợt lão nhớ chuyện vợ nhà báo Trần Anh Kim 7 lần mổ ung thư, một lần sơ ý bị rơi xuống hố ga sâu 2 mét. Trong lúc bất lực, chị chỉ còn biết liên tục niệm “Nam mô a di đà Phật”… Thế rồi chị cảm thấy như có lực hỗ trợ nâng chị lên miệng hố ga và chị thoát chết. Lão lập tức luôn mồm niệm “Nam mô A di đà Phật… Nam mô a di đà Phật…”. Chợt lão thấy một chú tiểu cầm cây chổi cán dài đang bay từ dưới lên. Khi lão rơi ngang chú tiểu, lão liền chộp lấy cán chổi của chú tiểu. Và lão lấy lại thăng bằng, như đứng trên mặt đất…

       Lão thấy ai đó đang lay vai lão, hỏi tiếng nhỏ rồi to dần:

       - Ông ơi, ông tên là gì ạ?

       Lão cố cất tiếng trả lời:

       - Trần Mỹ Giống.

       - Ông thấy trong người thế nào? Có đau ở đâu không?

       - Không thấy đau… nhưng không sao nhắc nhói người được…

       Tiếng người hỏi nói với người khác:

       - Ông tỉnh rồi, không sao đâu các chị ạ!

 

       TRONG CÁI RỦI CÓ CÁI MAY

       Vợ lão vừa xoa bóp nhẹ nhàng lên tay chân lão, vừa bảo:

       - Ông bị thế này còn là may đấy. Chứ nếu ông bị vào đầu thì không biết rồi sẽ ra sao…

       Lão định cãi vợ: “Đã thế này rồi còn may nỗi gì” nhưng vốn yêu nể vợ nên lão lại nằm im. Vợ lão lại bảo:

       - May mà ông đi chậm, chứ đi nhanh thì…

       Láy sau, vợ lão lại kể:

       - Thằng bé đâm phải ông là đứa trẻ ngoan ông ạ. Nó nhận lỗi ngay và lo thu xếp đưa ông đi viện. Từ hôm ông bị mổ đến nay nó vẫn túc trực thăm nom ông. Khổ thằng bé vừa ra trường chưa có việc làm, sáng nay còn bị công an bắt xe về đồn vì để xe lòng đường mua hoa quả thăm ông đấy…

       - Xe của tôi thế nào?

       - Thằng bé quay về Cổ Lễ sửa chữa và mang lên cho ông rồi. Nếu nó như đứa khác, nó đổ lỗi cho ông hay bỏ chạy thì mình cũng chịu ông ạ. Tôi bảo nó là ông có bảo hiểm rồi, cháu không phải lo tiền nong gì đâu, về đi mà lo lấy xe ra và lo công việc…

       - Sao bà không bảo chú Hải xin xe cho nó. (Chú Hải là em út lão, là trưởng phòng ở công an thành phố đang).

       - Nào tôi có hỏi tên tuổi thằng bé đâu mà biết mà nhờ chú Hải… với lại nó cũng về rồi…

                                  *

       Một người bạn của con lão là trưởng khoa trong viện đến thăm bảo lão:

       - Chúng cháu đã nhờ bác sỹ phẫu thuật giỏi nhất viện mổ cho ông rất kịp thời. Kiểm tra sau mổ, ổn rồi. Ông không phải lo lắng gì nhé!

       - Vâng, cảm ơn các chú…

       Ừ, đúng là trong cái rủi có cái may…

 

       HẠNH PHÚC TRONG BẤT HẠNH

       Bà vợ lão phàn nàn:

       - Tôi đã cấm con cháu đưa tin ông tai nạn lên mạng để đỡ phiền bạn bè ông phải đến thăm trong cảnh đầy người bệnh máu me mất vệ sinh và ồn ào như chợ vỡ trong buồng cấp cứu này… mà sao lắm người biết đến thăm ông thế cơ chứ!

       Ngay ngày đầu nằm viện, hầu hết bạn bè thân thiết trong thành phố của lão đã đến thăm, có người cách ngày lại đến thăm… Rồi bạn bè, cơ quan của các con lão. Rồi bà con hàng xóm của lão, của các con lão. Rồi họ hàng lão ở quê… rồi…

       Có người không thân gì với lão cũng đến thăm, dúi vào túi lão đồng tiền, chân thành, chất phác như nông dân làm lão cảm động muốn khóc. Hắn cảm thấy hạnh phúc…

       Các con dâu, con trai, con gái tranh nhau nấu món ăn ngon ép lão ăn. Các con trai và các cháu con chú em lão thay phiên đêm đêm phục vụ lão vệ sinh trên giường… Thằng cháu con thứ hai chú em lão chăm sóc lão từng ly từng tý. Nó biết lão muốn gì mà đón việc trước. Đêm dăm lần đi tiểu, lão đều trông vào nó. Mỗi khi lão rên vì đau, nó lập tức nắn bóp chân tay, xoa gãi lưng cho lão quên đau. Lão cảm nhận được tình cảm ruột rà, chân thực của thằng cháu qua từng nhát gãi, cái bóp, cú xoa của nó… Lão cảm động và cảm thấy cái nhức đau giảm đi rất nhiều.

       Lão cố ăn từng thìa cháo do con gái và vợ lão thay nhau đút tận mồm cho lão, để họ vừa lòng. Lão biết vợ lão với cái đầu gối tụ máu sưng tấy thì ắt là đau lắm. Nhưng vợ lão cứ làm như chẳng đau đớn gì nên lão cũng lặng im. Lão rưng rưng nghe vợ lão đọc thư cháu nội Sóc Hạnh học lớp 4 động viên lão bằng lời lẽ ngây thơ, giàu tình cảm… Lão muốn khỏe nhanh để về nhà!

       Ngày thứ 8 lão phải nằm buồng cấp cứu. Bác sĩ trưởng khoa khám và tuyên bố: “Mai ông được ra viện rồi đấy! Nhưng ông nhớ ít nhất hai tháng không được đi xe đạp nhé!” Nghe câu nói của bác sĩ, lão sướng như bắt được vàng. Vợ lão bảo: “Nhận thuốc hết ngày hôm nay là ông có thể về nhà trước, để các con làm giấy ra viện sau cũng được!”

       Được về nhà! Về nhà! Về nhà… Hai tiếng “Về nhà” cứ reo vang trong đầu lão…

        Bệnh viện tỉnh Nam Định, 28/8 - 13/9/2017

                           ***

29-11-2017 Hường sinh cháu Trần Mỹ Thịnh, cả nhà gọi là Tôm…

Sinh con Hạnh gần chục năm rồi mà Hường không mang thai, tôi thấy lo và buồn… Tôi mong mỏi có cháu đích tôn. Đích tôn là con trai cả của con trai trưởng. Thấy Hường càng béo ra, tôi càng lo. Người ta nói càng béo càng khó chửa… Đôi lần tôi bảo vợ chồng Hưng Hường đi khám chữa… nhưng chúng đều gạt đi. Thời gian càng trôi đi, tôi càng mất dần hy vọng mình có đích tôn. Khi con Hạnh 10 tuổi thì Hường bảo bố mẹ là con có thai rồi. “Con có thai rồi” nghe như reo vui. Cả nhà vui háo hức. Bao nhiêu bức bối trong nhiều năm bỗng được giải tỏa. Tôi như sắp chết khỏe lại. Sức khỏe con Hường là điều vợ chồng tôi quan tâm nhất. Con Hường chửa tháng thứ tám thì thấy trong người bất bình thường nên vào viện khám. Kết quả con Hường phải mổ đẻ ngay, cháu đích tôn của ông bà ra đời sớm một tháng. Cháu Thịnh ra đời nặng 2,4 kg. Bệnh viện nuôi cháu trong lồng kính 7 ngày.

Tôm Thịnh là trung tâm quan tâm của cả nhà…

Tôm Thịnh là báu vật mà trời Phật ban cho gia đình tôi. Có Tôm Thịnh, tôi không còn mong ước gì hơn nữa. Tôi yên tâm có thằng đích tôn, nối giõi và duy trì chi họ của tôi… Từ ngày có Tôm Thịnh, tôi thấy cuộc đời tươi đẹp biết nhường nào… Tôi cứ muốn nhìn mãi, nhìn mãi, và lẩm bẩm một mình: “Ôi! Cái mỏ trên thì nhọn, cái môi dưới thì tụt vào, cái mắt một mí, cái trán cao… lại má lúm đồng tiền nữa… Ôi, cháu tôi, cháu tôi”…

 

       Gia đình là tổ ấm quan trọng nhất đối với tôi bây giờ. Càng nhiều tuổi, tôi càng thấy yêu quý gia đình. Quỹ thời gian của đời người không còn nhiều, mới thấy những ngày được sống với người thân là quý giá vô ngần. Tôi luôn khao khát sự quây quần của con cháu. Các con, cháu là nguồn hạnh phúc lớn của tôi.

       Mong sao các con, cháu tôi sớm nhận thức được rằng cuộc sống là quý báu nhất, gia đình là gốc của cuộc sống, mà biết quý trọng từng giây từng phút cuộc đời, mà yêu thương người thân.

       Cùng với tuổi già, sức khoẻ vợ chồng tôi giảm sút, bệnh tật tăng lên. Cái thời của tôi đã qua, cái thời của các con tôi đã tới. Mong các con phấn đấu vượt lên những gì bố mẹ đã đạt được. Trong lòng mình, bố luôn tự hào về các con. Bố tin các con sẽ vững vàng tiến lên bằng chính đôi chân của mình, trở thành chỗ dựa cho bố mẹ sau này.

       Sinh mạng của con người là quý giá vô ngần. Được sinh ra làm người là một ân huệ lớn lao của tạo hoá ban cho. Hãy biết quý trọng từng phút từng giây sinh mạng của mình. Hãy cẩn thận giữ gìn, bảo vệ và chăm chút sức khoẻ của chính mình. Hãy luôn nhớ thường xuyên tự làm phong phú, tăng chất lượng sống và hoàn thiện cuộc sống của mình.     

Cuộc sống vô cùng gian khó nhưng tràn đầy hạnh phúc.

... Nối truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau, sự sống không ngừng tiếp diễn...

                             

      Thành Nam, 2018

            TRẦN MỸ GIỐNG

 

 

LÝ LỊCH NGHỆ THUẬT

       

       Họ và tên: TRẦN MỸ GIỐNG

     Bút danh ký trên các bài đăng báo tạp chí: Trần Mỹ Giống, Trần Giống, Mỹ Giống, Trần Ngọc Minh, Đinh Thị Khế, Trần Hoàng, Trần Thanh Minh, Trực Ngôn, Trần Tuấn Phương v.v...

       Năm Sinh: 1950.

       Quê quán: Xóm Đông Thành, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

       Nơi ở: thành phố Nam Định.

 

       Hội viên Hội VHNT Nam Định.

       Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

 

       Hồi nhỏ học trường cấp 1 và 2 xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và Trường cấp 3 huyện Xuân Trường.

       1968 – 1971 học Đại học Thư viện Trường Trung cấp Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội.

 

       6-9-1971 nhập ngũ c10 d19 e101 f325.  

       5-1972 đến 2-1973 thuộc b23 e101 f325 chiến đấu ở Quảng Trị.

       3-1973 đến 5-1974 học khóa 35 Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam.

       6-1974 đến 12-1980 làm B trưởng c10 e102 f338 rồi Trợ lý Ban tuyên huấn f338, phục vụ chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn chống giặc Trung Quốc.

       1-1981 đến 5-1983 chuyển ngành học Đại học Văn hóa Hà Nội.

       6-1983 đến 12-2009 công tác tại Thư viện tỉnh Nam Định.

       1-2010 nghỉ hưu.

 

       Khen thưởng:

- Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba.

- Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.

- Danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng cấp Hai.

- Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa.

- Kỷ niệm chương Văn học Nghệ Thuật.

- Kỷ niệm chương Cựu chiến binh.

 

Giải thưởng:

- Giải Ba giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh (2006-2010).

- Giải Ba giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh (2016 – 2020)

- Giải Khuyến khích cuộc thi Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ.

 

Tác phẩm đã xuất bản:

       - Tác giả Hán - Nôm Nam Định (Hội VHNT Nam Định, 2008)

       - Các nhà khoa bảng Nam Định (Nxb. Quân đội nhân dân, 2017)

       - Các nhà khoa bảng Nam Định (Hội VHNT Nam Định, 2009)

       - Thời áo lính: Hồi ký. – H.: Quân đội nhân dân, 2018.

       - Thời áo lính: Hồi ký. – H.: Quân đội nhân dân, 2019. – In lần thứ 2 theo “Đơn đặt hàng của nhà nước”.

- Thư mục nhân vật Nam Định (Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)

- Truyện nhặt. – H.: Nxb. Hội Nhà văn, 2021. – T.1.


Đồng tác giả:

       - Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương Nam Định (Nxb. Quân đội, 2000)

- Danh nhân văn hóa Nam Định - T1. (Sở VHTT Nam Định, 2000)

- Danh nhân Nam Định thế kỷ XX được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (Sở VHTT Nam Định, 2001).

- Danh tướng thời Trần. – H.: Thanh niên, 2020.

- Dấu ấn thời gian (Hội VHNT Nam Định, 2007)

- Lược khảo tác gia văn học Nam Định (Nxb. Văn học,1997)

- 1000 năm Thiên Trường Nam Định - Thăng Long Hà Nội: Thơ (Nxb. Hội Nhà văn, 2010)

- Những người giữ lửa tình yêu với sách: Ký (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2004 - 2005. - Tập 1 và tập 2)

- Nói chuyện giới thiệu sách. (Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)

       - Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt (Hội VHNT Nam Định, 2008)

- Thơ Nam Định 5 năm đầu thế kỷ: 2001 - 2005 (Nxb. Hội Nhà văn, 2006)

       - Tiến sĩ Vũ Huy Trác (Sở VHTT Nam Định, 2008)

- Trạng nguyên Đào Sư Tích đời và thơ văn (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2010)

- Trạng nguyên đất học Nam Trực (Phòng VHTT Nam Trực, 2009)

- Tuyển tập văn học nghệ thuật Nam Định thế kỷ XX (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005)

- Văn hóa Nam Trực cội nguồn và di sản (2000)

v.v...

Hàng trăm bài viết và công trình nghiên cứu đăng báo và tạp chí…

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét