Mới mười lăm, mười sáu tuổi đầu, tâm hồn cậu thiếu niên Chế Lan Viên kỳ lạ thay, đã bằng tuổi Tháp Chàm. Hay chính là hồn vía Tháp Chàm miền Trung đã nhập vào thân xác nhà thơ từ thuở lọt lòng, mượn chú hài đồng họ Phan mà oa oa cất tiếng khóc nghìn năm ứ nghẹn tự muôn trùng gạch đá?
Sau
này, lớn lên, đi học tại Quy Nhơn, Chế Lan Viên lại bị vây bủa bởi những Tháp
Chàm cô độc, như những cánh tay hư vô đột ngột giơ lên xin phát biểu ý kiến với
trời xanh. Những Tháp Chàm bí mật, câm nín mấy trăm năm chợt hu hu khóc nấc, chợt
hú rít lên, rên la lên, chợt rúc lên u u ơ ơ tiếng tù và địa phủ bằng vần điệu,
bằng thi ca "Điêu tàn", như tiếng phát ngôn của dân Hời vạn thuở. Tập
thơ được viết xong lúc tác giả mười sáu tuổi, ra mắt làng thơ năm 1937.
"Điêu tàn" như một hiện tượng kỳ vĩ, ngay lập tức làm sửng sốt thi
đàn Việt Nam, "như một niềm kinh dị" theo chữ của Hoài Thanh. Không sửng
sốt, không kinh dị sao được khi một cậu thiếu niên dáng vẻ hiền lành, bỗng học
được phép chui vào quan tài của nỗi hư vô, dùng thi ca tỏ tình với cái chết.
Chế
Lan Viên dẫn đầu một phái đoàn ma, kéo vào thi đàn Việt Nam như cô hồn thập loại
chúng sinh của Nguyễn Du xưa kéo về rằm tháng bảy: "Muôn ma Hời sờ soạng dắt
nhau đi" (Trên đường về). Ông ước: "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
/ Một vì sao trơ trọi cuối trời xa" (Những sợi tơ lòng). Tinh cầu ấy, vì
sao ấy, với Chế Lan Viên chính là chiếc sọ người. Chiếc sọ người - biểu tượng
hóa niềm siêu hình thăm thẳm, bao hàm ba trạng thái: cô đơn - cái chết - hư vô
từng thách đố triết học và tôn giáo. Chế Lan Viên dùng thi ca giải mã chiếc sọ
người mong tìm tôn giáo và triết học, tìm bí mật phía bên kia tồn tại, như tìm
nỗi không đâu vơ vẩn kiếp người. Với "Điêu tàn" bầu trời kia cũng
mang hình hộp sọ. Tinh cầu - sọ người bay lơ lửng trong không gian Chế Lan
Viên, như một thứ hạt giống thi ca gieo vãi hư vô lên từng trang giấy. Đến nỗi
nhà thơ muốn cắn chiếc sọ người vỡ tan như cắn hạt bồ đào: " Ta muốn cắn
mi ra từng mảnh nhỏ / Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô" (Cái sọ người).
Hãy nghe Chế Lan Viên nói về công việc trước tác của mình: "Nền giấy trắng
như xương trong bãi chém / Bỗng run lên kinh hãi dưới tay điên / Tiếng bút đưa
rợn mình như tiếng kiếm / Nạo những thành sọ trắng của ma thiêng" (Tiết
trinh). "Điêu tàn" mang âm hưởng sọ người cọ nhau ken két, như cái chết
cũng biết nghiến răng.
Trong
lời tựa "Điêu tàn", Chế Lan Viên viết: "Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ
tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải người.
Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là
Yêu. Nó thoát hiện tại... Nó gào, nó thét, nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng
tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn ra
cả tủy là tủy. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó rồi đem nó so sánh với
Người...". Có thể nói đây là tuyên ngôn của trường thơ "Loạn" bấy
giờ. Một số yếu tố trong tuyên ngôn trên còn ứng với Chế Lan Viên suốt đời ví
như mệnh đề "Cái gì của nó cũng tột cùng". Chịu ảnh hưởng thi pháp
Beaudelaire và Edgar Poe, cộng với siêu hình tôn giáo và thơ Đường, nhà thơ đã
làm nên Tháp Chàm "Điêu tàn" hay đến kinh hãi. Những tuyên ngôn thơ
trên của Chế Lan Viên, phải chăng là sự mô phỏng Beaudelaire - kẻ gây sốc,
"nhà thơ bị nguyền rủa" (le poète maudit), loài "Ác hoa" dị
thường, mở đầu trào lưu thơ hiện đại Pháp bằng cách phá bỏ mỹ học hài hòa cổ điển
Apollon, nghiêng về mỹ học phản hài hòa, xộc xệch, rách rưới, mê sảng Dionisos,
mở ra một thế giới thi ca phi thường, rùng rợn, cuồng điên với tuyệt đỉnh đàn
bà và cái chết.
Lấy
màu vàng sắc không nhà Phật nhuộm lên thi pháp Beaudelaire, kết hợp linh diệu
Christ và niềm hư ảo Ấn Độ giáo Tháp Chàm, Chế Lan Viên muốn đập vỡ sọ ma Hời
tìm hư vô, tìm cái vô cùng, vô hạn. Nhưng ông đã không tìm thấy gì ngoài nỗi cô
đơn co rút lại nơi hồn mình, như loài chim cú siêu hình chui vào ruột đêm lẩn
trốn. Nhà ma học Chế Lan Viên tu với ma, sống với ma ngay từ tấm bé, mong tìm
kiếm bản thể trầm luân mình, như nhà triết học Hy Lạp Diogène thế kỷ thứ IV trước
công nguyên đốt đèn đi tìm một người hư ảnh giữa ban ngày. "Điêu tàn"
tập thơ mê sảng nhất của văn học Việt Nam, biểu hiện thiên tài kỳ lạ Chế Lan
Viên, là niềm sửng sốt, là cú sốc của mỹ học cái chết độc nhất vô nhị vậy.
Cách
Mạng Tháng Tám vĩ đại 1945 đã cuốn mọi trào lưu tư tưởng, mọi trường phái văn
chương vào đứng dưới bóng cờ đỏ sao vàng. Chế Lan Viên phải làm một lúc hai cuộc
kháng chiến : chống Pháp và chống con ma Hời siêu hình từng ám hồn ông. Cuộc
chia tay giữa Chế Lan Viên với con ma xó cô đơn thật quyết liệt, đớn đau, quằn
quại, rớm máu suốt 15 năm, bằng với số năm lưu lạc của Thúy Kiều. Tư tưởng nhà
thơ đã đi về phía con người, về phía nhân dân, phía kháng chiến, nhưng tâm hồn
ông còn bị ma Hời đeo bám, cứ thập thò như cua cáy giành giật những giấc mơ, những
suy tưởng trong ông. Cuộc chiến đấu giữa chàng Faust-Chế Lan Viên với con quỷ
siêu hình để giành lại quyền sở hữu linh hồn mình trong thi ca là cả một chặng
đường thương khó.
Cây
thập tự tôn giáo đè lên đôi vai tinh thần nhà thơ nặng nề hơn một số phận, hệt
như nó là một phần cơ thể khổ đau ông phải mang theo trong câm nín. Nhưng Con
Người trong ông đã tuyên chiến, đã mở giao thông hào đánh lấn, giành từng tấc đất
tâm hồn lại từ phía lô cốt hư vô. Và cuối cùng, con ma siêu hình đã bỏ chạy, đã
hoảng loạn thoát ra từ chính những vết thương tâm hồn nhà thơ. Cuộc giằng xé, vật
lộn giữa ma và người suốt 15 năm đã thai nghén, sinh nở ra thi phẩm "Ánh
sáng phù sa" năm 1960 thật kỳ diệu, như thể sau khi bị đóng đinh trên câu
rút siêu hình, nhà thơ đã phục sinh.
Vâng,
"Ánh sáng và phù sa" quả là một Chế Lan Viên khác hẳn với Chế Lan
Viên "Điêu tàn", một thi pháp khác, một phong cách khác, một thể xác
và một linh hồn khác, một ngôn ngữ khác, mỹ học khác, một khổ đau và một hạnh
phúc khác. "Ánh sáng và phù sa" lập tức trở thành hiện tượng văn học
kinh động thời ấy, một niềm sửng sốt thứ hai Chế Lan Viên mang lại cho thi đàn
Việt Nam. Qua dằn vặt, chiêm nghiệm bản thân, với chút ảnh hưởng từ các nhà thơ
Cộng Sản Eluard, Aragon, Neruda, Ritsos, Hitmet..., Chế Lan Viên đã làm cho Thơ
Mới mới thêm một lần nữa kể cả nội dung và hình thức, kể cả cảm thức sáng tạo
và thi pháp.
Nhà
thơ nới rộng không gian Thơ Mới từ tháp ngà nghệ thuật ra giữa vòm trời Nhân
Dân và Tổ Quốc, cùng với thế hệ các nhà thơ chống Pháp, đưa thơ từ cặp mắt mỹ
nhân, từ nỗi buồn son phấn, rong rêu xuống với đám đông, với bùn đất, với mồ
hôi và máu xương cuộc đời thường: "Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
/ Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa / Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa / Chiếc
nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa" (Tiếng hát con tàu). Xưa nhà thơ trầm
mình trong cái chết, trong hư vô sọ người, thì nay ông được tái sinh trong ròng
ròng sự sống, trong thực tại nụ cười và nước mắt, trong sự hòa điệu với triệu
người: "Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ / Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng"..."Tâm
hồn tôi khi Tổ Quốc soi vào / Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ" (Chim lượn
trăm vòng). Nếu không có Cách Mạng Tháng Tám chắc Chế Lan Viên vẫn còn phải núp
vào Chiêm Thành mà khóc than nỗi vong quốc xa xưa, vẫn còn tha thẩn ngoài bãi
tha ma vong thân trên chính quê hương mình, sống trong vay mượn kể cả nỗi đầu
rơi máu chảy, vay mượn cả thân phận mất nước.
Đến
Tổ Quốc mình ông cũng không dám gọi tên lên, không dám thốt lên lời sông Hồng,
sông Mã, không dám gọi Trường Sơn lên mà hùng vĩ hồn mình. Phải chăng đây chính
là ý nghĩa cứu chuộc, ý nghĩa nhân văn cao cả nhất mà Cách Mạng Tháng Tám mang
lại cho không chỉ Chế Lan Viên? Vì vậy, nhà thơ lúc nào cũng rưng rưng nhớ ơn sự
tái sinh của Cách Mạng, rơm rớm chạnh niềm đau cũ: "Thuở nước mất nằm mơ
còn thấy khóc / Nỗi đau đón đường cướp hết vàng ta" (Nỗi đau ngày cũ). Mỹ
học "Ánh sáng phù sa" là mỹ học đớn đau, mỹ học của hạt nảy mầm phải
tự chết bản thể hạt đi để tái sinh một đời sống mầm, bản thể mầm thi tứ. Nhà
thơ đã về lại sông Ngô siêu hình xưa để lấy lại vàng tâm hồn mình, lấy lại nước
mắt hư vô xưa chợt hóa ngọc trai tư tưởng bây giờ: "Xưa ở sông Ngô ta đánh
mất vàng / Đánh mất tâm hồn ta. Nhưng hiện tại / Như sông Tương đã trả vàng ta
lại / Khắp đôi bờ tư tưởng chói hào quang" (Vàng của lòng tin). Từ
"Ánh sáng phù sa", Chế Lan Viên nhân lên hàng chục tập thơ kỳ vĩ khác
mà nghệ thuật thi ca đã đạt tới mức toàn bích của sự kết hợp hài hòa giữa phù
sa của cảm xúc và ánh sáng của trí tuệ. Ông có công làm thi ca Việt Nam nồng
cháy hơn, mê cuồng hơn, trí tuệ hơn, sang trọng và quý phái hơn. Quả thực,
"Ánh sáng và phù sa là niềm sửng sốt thứ hai, là đỉnh thứ hai Chế Lan Viên
vậy.
Một
con người 69 tuổi đã để lại hai lần trong đời mình hai sự kiện có tính chất cột
mốc: "Điêu tàn" năm 1937, "Ánh sáng và phù sa" năm 1960,
hai lần làm sửng sốt thi đàn, trưng ra hai ông Chế Lan Viên khác nhau như nước
với lửa, như hai đỉnh thi ca ngược nhau: một đỉnh âm siêu hình lộn ngược xuống
đất và một đỉnh cao hiện thực vút lên trời, tưởng đến thế đã vĩ đại lắm, đã
thiên tài lắm. Không dè, Chế Lan Viên sau khi chết đi vẫn còn làm kinh dị, làm
sửng sốt nền thơ lần thứ ba, quá tam ba bận, bằng ba tập "Di cảo thơ I ,
II và III" khổng lồ ngoài sức tưởng tượng.
Đỉnh
thơ thứ ba hậu Chế Lan Viên này là đỉnh sâu, đỉnh lộn trái tâm hồn nhà thi hào
ra chiều thứ tư của không gian thơ: "Bắt chước đào lộn hột / Vỏ tâm hồn lộn
tuốt / Bớt bớt điều kiêng khem" (Lộn trái). Quá trình lộn trái sự vật, lộn
trái tâm hồn và tư tưởng, có khi lộn trái cả sự lộn trái, phản biện cả sự phản biện
không chỉ là phẩm chất của nhà tư tưởng, mà còn của chính nhà thơ. Hơn nữa, Chế
Lan Viên lại là nhà triết học của thi ca, lấy thi ca để làm mềm mại và dịu dàng
lại hòn đá tảng triết học, như quá trình tâm hồn hóa tư tưởng, cảm xúc hóa tư
duy. Từ bỏ Ma thuở "Điêu tàn" để đi theo Người nơi "Ánh sáng và
phù sa", cuối đời, nhất là trước lúc chết vài ba năm, Chế Lan Viên rút vào
Viên Tĩnh Viên tạm xa lánh Người để tự theo Mình, để học theo phương pháp bất tử
của loài rắn thử lột xác tâm hồn mình, lột xác cả niềm tin và sự hoài nghi mà
Marx cho là phẩm chất đẹp nhất của người trí thức, lột xác cả sự lột xác, Anti
cả cái Anti.
Trong
bài "Tự tìm mình" viết năm 1987, nhà thơ vừa tìm Mình, vừa hoài nghi
Mình: "Có một kẻ vô tình trong gió nó là ai kia / Có một kẻ hữu hình trong
mùi hương, đấy là anh , chẳng lẽ / Có một cái gì đâu đó / Anh tìm anh thử hỏi
làm gì / Tìm phiên bản nào rồi anh cũng đốt đi". Đúng là Chế Lan Viên
"Cái gì...cũng tột cùng", tột cùng Chết, tột cùng Sống, tột cùng yêu
Đảng, tột cùng đánh giặc, tột cùng hoài nghi bản thân mình, như suốt đời ông mải
tìm chiều thứ tư của tồn-tại-tôi, chiều thứ tư của cá nhân - thời gian - tôi,
như bài "...Và chiều thứ tư" ông viết năm 1987: "Cái individu
anh có ba chiều không gian, một chiều nước chảy / Tất cả những gì mất đi là mất
đi trong chiều ấy / Đừng nghe, đừng nghe, đừng nhìn, đừng nhìn, đừng hỏi, đừng
hỏi / Cái chiều hư huyễn ấy / Nó mới thật là anh đấy: thời gian".
Nền
thơ Việt Nam tự hào vì có Chế Lan Viên, một mình mở rộng thơ ra tất cả các đề
tài, từ sao trời đến con đom đóm, từ con người đến con ma, như quá trình lửa -
phản Prométhée - trong bài "Prométhée" viết năm 1987: "...Phát
minh ra tro phản lửa của mình .../ Phải có tro thì mới có ngày ngọn lửa hồi
sinh / Có tro tàn vải liệm / Phủ lên những gì đã cháy, những hoàng hôn và cả những
bình minh". Thảo nào, trước khi Chết, Chế Lan Viên di chúc lại hãy đốt xác
ông thành tro bỏ vô chùa: "Tro bao giờ cũng tồn tại lâu hơn lửa / Lửa hoan
lạc một giây, tro cay đắng một mùa / Anh thiêu tất cả quá khứ thành tro là thơ
đấy / Và thiêu hồn anh sau này không là lửa, lại là tro" (Tro và lửa
-1988). "Di cảo Thơ" chính là quá trình tro hóa ngọn lửa thi ca một đời
thiêu cháy Chế Lan Viên.
Chế
Lan Viên - thiên tài đầy mâu thuẫn: vừa là lửa vừa là nước, vừa mê Phật, vừa
tôn sùng Chúa, vừa say Cách Mạng. Ông tự xẻ mình ra làm hai mảnh thực tại và
siêu hình, vừa theo gót Dante đạt tới ba cõi: địa ngục, luyện tội, thiên đàng,
vừa theo Goethe phiêu du tìm niềm vui cõi Người-thực-tại - Faust. Rốt ráo tinh
thần "Di cảo thơ" chừng như giấu cả trong bài tứ tuyệt "Tháp
Bay-on bốn mặt" này đây: "Anh là tháp Bayon bốn mặt / Giấu đi ba còn
lại đấy là anh / Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc / Làm đau ba mặt kia trong
cõi ẩn hình".
Ba
chặng đường thơ quá sức đồ sộ làm sửng sốt thi đàn của Chế Lan Viên đi từ Ma
qua Người đến Mình, rồi trước khi chết dường như ông lại lộn về đối thoại với
Ma xưa? Phải chăng hành trình khổ đau sinh nở kia chỉ mới là gương mặt Thi Ca
nhìn thấy của một Brahma-Sáng tạo Chế Lan Viên? Còn ba gương mặt Brahma siêu
hình khác ông phải đau đớn chôn cất trong hồn, nén chúng vào bản thể như nén cà
nén dưa, tự giấu hư vô mình đi mà tồn tại, giấu đi cả Siva hủy diệt và Vishnu bảo
tồn; như giờ đây Chế Lan Viên hằng sống bằng cách tự giấu mình trong bình tro
bé như bình mực của cái chết tại tháp chùa Vĩnh Nghiêm, đặng bất tử trên Niết
Bàn Thi Ca cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vậy.
T.M.H.
Ảnh:
nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) và gia đình ở Hà Nội trong thập niên 70 thế kỷ
trước : vợ ông là nhà văn Vũ Thị Thường. Cô bé ông bế sau này là bác sĩ, nhà
văn Vàng Anh nổi tiếng, cô bé đứng bên mẹ là bác sĩ Phan Thị Thắm bây giờ.
...............................................
CHẾ LAN VIÊN – NGƯỜI LÀM VƯỜN
VĨNH CỬU
Tiểu
luận Trần Mạnh Hảo.
Nhân
ngày giỗ lần thứ năm nhà thơ Chế Lan Viên (1989 -1994)
Ông
đang ngồi nấu cám heo trong bếp, thấy khách tới, vội chạy ra mở cổng. Ông xin lỗi
khách, chờ tí, vì nhà đi vắng hết, vả nồi cám heo đang sôi ở mức cao trào. Với
gương mặt mồ hôi nhễ nhại, ông gân sức lực của người gần bảy mươi tuổi, ngoáy
tít nồi cám heo bằng chiếc đũa cả sừng sỏ dáng vẻ rất chuyên nghiệp, như thể
ông khiêu vũ cái vũ điệu của bếp núc.
Mới
ngày hôm qua, từ cuộc hội thảo văn học tại Bồ Đào Nha về, với bao nhiêu chuyện
trên trời, dưới đất, nào mây bay đi, nào hồn ở lại, nào các thiên hà có biết
suy tưởng hay không đến sự ô nhiễm môi trường ăn mòn nhân tính...
Vâng,
từ chân trời của thơ ca thế giới, với những hội nghị quốc tế, gặp gỡ đàm đạo với
những nghệ sĩ lừng danh, những khách sạn sang trọng, những bữa ăn đắt tiền...
Chế Lan Viên trở về với chân trời của riêng ông với gà heo, vườn tược và những
bản thảo dập xóa như vườn cây bị nghìn bão đi qua. Từ năm 1937, năm tập thơ
“Điêu tàn” ra đời cho đến ngày ông mất, Chế Lan Viên đã bày, đã soạn cho người
Việt Nam, cho văn hoá Việt Nam những bữa ăn thơ thịnh soạn, ngon lành, trìu mến
và sang trọng; chúng ta nào đã một lần biết được bếp núc thi ca ông vất vả, tần
tảo và cực nhọc biết bao. Vâng, đôi khi văn học cũng cần phải có những nồi cám
heo của mình, với những tro cùng trấu, những củi cùng lửa, những muỗi cùng ruồi,
những mồ hôi cùng nước mắt...
Đúng
như nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét từ năm 1941: "Giữa đồng bằng văn học
Việt Nam ở giữa thế kỷ hai mươi, Chế Lan Viên đứng sừng sững như một Tháp Chàm,
chắc chắn và lẻ loi, bí mật... đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một
niềm kinh dị...". Từ độ 16 tuổi đến lúc viên tịch, quả thực, Chế Lan Viên
vẫn chắc chắn và lẻ loi, bí mật, thậm chí sau khi hai tập thơ di cảo đồ sộ của
ông ra mắt, ông vẫn tiếp tục để lại sau mình vô vàn niềm kinh dị cho người đọc
như lời tiên tri của Hoài Thanh.
Như
một lữ hành đơn độc, Chế Lan Viên đã lầm lũi vượt qua sa mạc siêu hình, đi từ
"thung lũng đau thương đến cánh đồng vui" (đầu đề một bài viết của
C.L.V.). Ra đến cánh đồng vui rồi, sao đôi lúc gương mặt ông vẫn đầm đìa giọt
khóc? Và thơ ông, kỳ lạ thay, vẫn bàng bạc một nỗi đau như mưa phùn, như đom
đóm, như thể những vết thương xưa của ông chưa chịu khép miệng mà chúng đang ca
hát. Có lẽ, chính vì nỗi đau ma ám ấy, cái nỗi buồn thương định mệnh ấy đã làm
nên cái bất tử của tập thơ “Ánh sáng và phù sa” do Nxb. Văn học ấn hành năm
1960, với số lượng phát hành kỷ lục: 50.000 cuốn. Tập thơ đã gây một tiếng vang
cực lớn thời đó, chỉ trong vài ba tháng đầu đã bán hết. Có thể nói không ngoa rằng,
“Ánh sáng và phù sa” đã thành cái mốc chuyển biến quan trọng của thơ Chế Lan
Viên nói riêng, của thơ Việt Nam nói chung. Sau hai mươi lăm năm, kể từ Thơ Mới
ra đời, đến lúc “Ánh sáng và phù sa”, thơ Việt Nam đã xuất hiện một thi pháp mới,
một giọng điệu mới, một cách cảm nghĩ mới. Rất tiếc, một tập thơ quan trọng như
thế của thi ca hiện đại, ba mươi tư năm rồi chưa được tái bản. Có thể khẳng định
một cách chắc chắn rằng, hầu hết các nhà thơ trên dưới năm mươi tuổi sống trên
đất Bắc, những bước đầu chập chững làm thơ, đều có chịu ảnh hưởng của “Ánh sáng
và phù sa”.
Cái
chết, niềm hư vô và niềm cô đơn là nỗi ám ảnh khôn cùng của thơ ông ngay từ thời
niên thiếu. Tâm hồn ông hầu như đã biến thành vỏ ốc của sự chết, để ngọn gió hư
vô thổi vào và ngân lên bài ca bi ai, hoan lạc của bản hòa tấu cô đơn. Mới mười
lăm, mười sáu tuổi, ông đã đi lại trên mặt đất như một cái Tháp Chàm. Ông mơ
trong cả khi tỉnh thức. Đôi mắt của hồn ông chỉ nhìn thấy thế giới siêu hình,
toàn là những bóng ma, những âm hồn phiêu dạt, những óc phọt, những xương trào,
máu cuộn. Ông coi cái thế giới bên kia mới là đích thực hơn cái thế giới bên
này, tin vào hư mà ngờ thực. Rất may là trời chưa kịp ban cho ông đôi cánh. Nếu
không, ông đã bay lên tít mù xanh thẳm, biến thành tinh cầu vô định, nơi con
người cũng như thơ ca không còn một chút trọng lượng. Và vì chưa có đôi cánh,
ông đã coi vòm trời kia bất quá cũng chỉ là một bóng cây, các vì tinh tú cũng
chẳng khác gì một trái ổi:
“Kìa
em trông một vì sao đang rụng
Hãy
nghiêng mình mà tránh đi nghe em...”
(Đêm tàn)
Ông
hợp nhất mình với vũ trụ như làn hương hợp nhất với vòm trời. Tuy nhiên, ông thừa
biết trò chơi của tạo hoá: vũ trụ vô tận kia cũng mong manh như một cánh phù
dung, nên khuyên người yêu cũng chính là để khuyên mình. Những vì sao chói ngời
và run rẩy kia, mi có thể rụng như sung vào tình yêu của ta bất cứ lúc nào. Quả
thực, mỗi ban mai, những vì sao kia rụng đâu hết cả. Và vì vậy, chừng như những
người đang yêu vì phải né tránh cái rơi rụng của các tinh cầu, nên dáng đi của
họ có vẻ nghiêng nghiêng, nếu không muốn nói rằng như vệt nắng xiên khoai... Tuồng
như Chế Lan Viên suốt đời phải đi kiểu nắng xiên khoai như vậy, để né tránh các
tinh cầu hư vô rớt xuống từ bầu trời cô đơn, cắt rừng siêu hình ra mà tìm đến
con người. Và khi ông tìm thấy con người, ông đã gặp được nỗi đau. Nỗi đau ấy
ông gọi là hạnh phúc.
Những
ngày hoàn tất tập thơ “Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên vừa trải qua bệnh phổi
nặng. Đến nỗi ông tin rằng mình sắp chết. Chừng như niềm hư vô như một con mọt
đang ăn rỗng ngực ông như nó từng ăn rỗng cả vũ trụ. Bên cạnh đó, số phận đã bắt
ông phải uống chén đắng của cuộc tình tan vỡ, khiến ông gần như không còn nơi
bám víu nữa. Nhưng, ở bên bờ tuyệt vọng, ông đã may mắn gặp được nàng thơ của
mình. Nàng thơ đó có tên là cuộc sống.
Chừng
như mỗi lần cái chết tính gõ cửa hồn ông, ông lại có thơ hay. Có thể nói, trong
phản ứng hoá học của tư tưởng và cảm xúc để tạo ra một chất thứ ba là thi ca,
cái chết hầu như là một chất xúc tác kỳ diệu của Chế Lan Viên. Và những cơn đau
chính là nhiệt độ, là lửa để tạo ra phản ứng thi ca của ông. Ông đã có những
câu thơ rất hay về đất nước, về con người, những câu thơ ám ảnh suốt một thời
trai trẻ của tôi và nhiều bạn bè khác:
“Anh
bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”
...
“Con
nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng
thưa em băng, rừng rậm em chờ...”
...
Khi
ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi
ta đi, đất đã hoá tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu)
Đây
là cái nhìn của ông, một người miền Trung về đất Bắc:
“Chỉ
còn máu sông Hồng trong quả ngọt
Con
chim ăn thấy vị phù sa trong tiếng hót”
(Giữa tết trồng cây)
Ông
nhìn chân trời trong bài “Đọc Kiều”:
“Cỏ
bên trời xanh một sắc Đạm Tiên”
Ông
nhìn thấy được tiếng chim và nghe được mùi hương quả chín từ thẳm xa đưa tới,
trong một tình thương bình dị mà thẳm sâu đến sững sờ:
“Tiếng
cu xa gáy đến phòng em
Bóng
nhãn theo vào với tiếng chim
Bệnh
yếu, em chưa về hái quả
Thương
em, mùa lại đến đây tìm”
(Tiếng chim)
Quả
thực, Chế Lan Viên có rất nhiều thơ hay, tứ thơ hay, nhiều bài thơ tứ tuyệt tuyệt
vời, vừa rưng rưng sương khói cảm xúc, lại vừa chói lòa ánh sáng của trí tuệ.
Ông tìm thấy ánh trăng sao trong bùn đất, thấy cái tơ non ngay trong linh hồn
đá sỏi; thấy cái nước, cái lạnh trong lửa và ngược lại. Tôi đồ rằng ông đã suy
tưởng bằng trái tim và xúc cảm bằng bộ óc? Và vì vậy, Thượng Đế chừng như đã cấu
tạo nên cơ thể ông trong lúc Ngài mải làm thơ trong trạng thái hưng phấn không
bình thường, nên đã bỏ lộn trái tim ông vào hộp sọ và đem bỏ hai bán cầu não
ông xuống phía ngực trái?
Có
người hận ông vì điều gì đó đã cho rằng, tâm hồn của ông “Điêu tàn” thuở nào
như vầng trăng non đã bị gấu ăn hết. Rằng, Chế Lan Viên chỉ còn thuần có bộ óc.
Rằng, ông chỉ làm thơ bằng trí thông minh, bằng trò chơi ma giáo của chữ
nghĩa...Do đó, thơ ông trong suốt như nước phèn, không sinh vật cá tôm nào, thậm
chí đến cả phù sa cũng không sống nổi trong cái dung dịch thơ lý trí kia (!)
Không, vầng sáng của trí tuệ Chế Lan Viên đầy năng lượng sương khói, cái lý trí
đầy ắp bản năng của ông bao giờ cũng là mảnh vườn màu mỡ cho thi ca sinh trưởng.
Chúng ta thử đọc qua một bài thơ tứ tuyệt: "Tháp Bay-on bốn mặt", ông
đề dưới là viết trong mùa bệnh 1988, xem ông viết bằng trí thông minh hay viết
bằng tình cảm :
"Anh
là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu
đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ
mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm
đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình"
Vâng,
có thể ông đã viết bài thơ này bằng trí thông minh, nhưng là trí thông minh của
nỗi đau, của niềm nhức nhối. Hồn ông hình như vẫn lảng vảng, lẩn khuất đâu đây
như ánh trăng, như hơi thở của ngôi nhà lý trí. Khi bài thơ đã đạt được sự hay,
nó không còn phân biệt đâu là tư tưởng, đâu là cảm xúc, đâu là xác, đâu là hồn
nữa.
Có
người bảo Chế Lan Viên là người hai mặt trong đời và hai mặt trong thơ. Người
ta đã cố ý biến ông thành con thò lò, thành con rối của thời thế, để đổ hết lỗi
của những người khác vào ông. Làm như chính ông đã gây ra những thảm hoạ, những
bi kịch của đời sống, những tráo trở bất nhẫn của kiếp người. Họ vẽ chân dung
ông ra thành con ngáo ộp của văn nghệ, chuyên bắt nạt và sát phạt anh em(!) Như
bài thơ vừa trích dẫn, Chế Lan Viên tuyên bố rằng ông như tháp Bay-on có đến bốn
mặt cơ, phải giấu đi ba mà chỉ bày ra một mặt. Đừng hiểu cái mặt này theo ý
nghĩa chính trị. Xét về ý nghĩa triết học, mỗi con người quả tình có đến nghìn
muôn bộ mặt giấu bên trong. Cái con người bên trong của chúng ta đã được tôn
giáo diễn đạt bằng tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay và dĩ nhiên phải hiểu là có
cả nghìn gương mặt. Vậy cái chuyện bảo Chế Lan Viên có hai bộ mặt âu là chuyện
thừa. Mỗi bộ mặt của hồn thơ ông hầu như quay về những hướng khác nhau, kéo bản
thể của ông đi về muôn phía, toàn là những phía trái ngược nhau. Do đó, cái con
người tinh thần của ông từng phút giây đều phải đau cái nỗi đau đoạn trường của
Vệ Ưởng bị bảy con trâu kéo nát thịt da về bảy hướng. Nỗi đau chính là tình
nhân đầu tiên và cuối cùng của thơ ông:
“Dẫu
là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta
đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau”
(Tổ
quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?)
Từ
“Điêu tàn” đến “Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên phải mất gần hai mươi năm
trăn trở, quằn quại, vật vã trên con đường đau khổ như chữ dùng của nhà văn Nga
A-lếch-xây Tôn-xtôi. Ông đã phải bỏ đi, phải vượt qua cả một tập thơ của mình:
"Gửi các anh". Tập thơ này hầu như không phải do chính tay ông viết,
nhợt nhạt và ấm ớ, giản đơn và tầm thường. Nó chính là một tập thơ đệm, một trạm
trung chuyển, một gã ăn theo. Cũng giống như trong các tập thơ hùng vĩ của
mình, đâu đây vẫn thấy thơ ông còn những bài đệm, những bài thơ trung tính,
trung bình, những bài thơ cảm xúc bò như sên và lý lẽ thì phóng nhanh như tên lửa.
Nhưng đó là chuyện bình thường, đừng vì một hạt sạn bé con mà bỏ đi cả nồi cơm
gạo tám thơm ngon.
Chế
Lan Viên là một thiên tài. Mà tất cả các thiên tài đều tự mâu thuẫn, nhiều giằng
xé không sao giải quyết. Trong ông, con sư tử và con nai ở chung với nhau, mèo
phải hội họp với chuột, cái ác và cái thiện là một cặp bài trùng chuyên môn cãi
lộn nhau, sự thuỷ chung và sự phản bội phải làm phép hôn phối trước vị linh mục
có tên là nhân tính. Ông phức tạp hơn cái người ta hiểu bội phần. Thậm chí, cái
sự phức tạp, nhiêu khê, rối rắm, thậm chí hỏa mù của thế giới nội tâm mình, ông
cũng không tự nhận thức nổi.
Trong
cuộc chiến tranh thành Troie của tư tưởng nhập cuộc, của hành động dấn thân chống
lại cái tình cảm hồng hoang mù sương của tầng tháp cổ, của bóng ma trơi siêu
hình, siêu tưởng, tâm hồn ông bao giờ cũng là một bãi chiến trường đầy ắp
thương vong và chiến tích. Nói cho cùng, cuộc đời của một thi sĩ kể ra cũng chẳng
lấy gì làm sung sướng, toàn là đau dùm và khổ mượn, lấy nỗi buồn của chim sa cá
nhảy làm nỗi buồn của chính mình, dại dột cõng vòm trời trên lưng như cõng một
em bé, để rồi ấm ớ luôn hồ nghi, luôn tự hỏi mình đang đi, đang sống đây hay là
một đám mây, một quầng lau trắng?
Từ
“Ánh sáng và phù sa” rồi qua các tập thơ lừng danh: “Hoa ngày thường - chim bào
bão”, “Đối thoại mới”, “Hái theo mùa”, “Hoa trên đá”... và hai tập thơ di cảo,
Chế Lan Viên luôn luôn phải đơn độc chống trả với thế giới siêu hình. Ghét của
nào trời trao của đó, cố gắng đến cạn sức lực để chống lại cuộc chiến tranh
không giới tuyến, mà đám giặc-siêu-hình kia luôn luôn “mờ mờ nhân ảnh như người
đi đêm”, nên Chế Lan Viên đến phút lìa đời vẫn không thoát khỏi ám ảnh siêu
hình. Bởi vì, cái siêu hình kia nó không nằm ở ngoài ông, mà nó tồn tại, nó
đóng tổng hành dinh trong chính tâm hồn ông, trong tốc độ vũ trụ của tư duy
ông, nó bày binh bố trận trong hơi thở, trong cái nhìn bản năng ông. Cái mà trong
đoạn thơ dưới đây trích trong bài thơ “Gió lật lá sen hồ” ông viết năm 1988, tức
là trước khi mất một năm, ông gọi là “ai đó”. Bởi, “ai đó” cứ ném thia lia
trong hồn ông:
“Gió
thổi lá sen hồ lật lại phía bên kia
Phía
ấy gọi anh về
Về
đâu chưa biết nữa
Chỉ
biết hồn anh lật lại cùng với gió
Ở
trong hồn ai đó ném thia lia”
Ôi
cái phía bên kia, cái phía gọi anh về, chắc là ông đã linh cảm được phía ấy,
nhưng vì sợ nên chưa gọi thẳng tên nó ra mà thôi. Cái phía bên kia của mặt
trăng, cái bên kia của thế giới có tên là cái chết. Mà cái chết với Chế Lan
Viên chính là tên gọi thứ hai của cõi siêu hình. Từ bỏ cõi siêu hình trở về cõi
thực, Chế Lan Viên hầu như đã phải chết đi một con người, cứ tưởng ông đã hồi
sinh thành một con người khác. Ai dè, sau những cơn vui chiến thắng, sau những
hò reo, những hoan hô, ca tụng, những hạnh phúc đầm đìa khóe mắt, ông lại trơ
ra chỉ còn lại một mình với con mọt hư vô đang từng ngày gậm nhấm cuống phổi
mình như chuột gặm. Mà suốt mấy chục năm reo cười, hò hát bản anh hùng ca thời
đại hết sức tuyệt vời, hết sức chân thành và cảm động, riết rồi cũng mệt, riết
rồi cũng khản tiếng, tàn hơi. Nói cho cùng, niềm vui hầu như không có khả năng
tạo ra thế giới; chỉ có tiếng cười như pháo tết đâu có thể tạo ra nghệ thuật.
Vâng, cuộc đời thực kia, ông đã yêu đến cạn cùng hai lá phổi, yêu như “đêm xuân
người vợ trẻ yêu chồng”, yêu đến nghẹn thở, đến cuống quýt, ồn ào. Tuy nhiên,
chạy một mạch mấy chục năm như con trẻ chạy theo con diều giấy, Chế Lan Viên đột
ngột dừng lại suy nghĩ về cái thế giới “danh vọng ầm ào, vinh quang xí xố”! Và,
nói đi rồi cũng phải nói lại mới toại lòng nhau, chẳng ai nỡ bắt bẻ một thi sĩ
suốt đời cúc cung tận tụy cho lý tưởng, khi chợt một ngày nào đó trước nỗi chết,
ông theo phép biện chứng mà lộn trái các sự vật:
“Xưa
nghiêm túc, nghiêm trang
Giờ
nửa khôn, nửa dại
Lộn
lèo trong gió trái”
...“Chơi
trò hề lăng nhăng
Bớt
cái điều trọng đại”
...“Bắt
chước đào lộn hột
Vỏ
tâm hồn lộn tuốt
Bớt
bớt điều kiêng khem”
(Lộn
trái - 1988, ba hôm trước ngày lật trái phổi ra cắt)
Cuộc
đời thì vui vẻ thế, cớ sao thời thế lại hắt hiu như một người ngồi đánh cờ với
chính bản thân mình: "Để anh chơi chỉ có một mình". Nhà thơ chợt buồn
đến lặng cả người khi: "Chả hiệp sĩ nào buồn xách gươm lên ngựa / Gươm muốn
làm lành cùng cối xay". (Don Quichotte). Chế Lan Viên đã đi, đã chạy, đã
bay mà không đuổi kịp chân trời: "Vọng phu tình ái, vọng phu thơ, vọng phu
lý tưởng". Bởi ông hiểu thấu cái nỗi đời trớ trêu, tưởng được đó mà mất
đó, vừa thấy TẠO xong, đã HOÁ liền:
“Ai
có một chân trời
Và
mất gì sau đó phía chân mây?”
(Vọng phu)
Ngỡ
đã tới đích của đời, ai dè đấy lại là khoảng trống vô cùng của hư vô, cái lỗ
kim siêu hình mà cả đời ông chạy theo xâu chỉ hiện thực:
“Tôi
như người xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt
Chỉ
đã lọt rồi, kim bỗng lùi xa
Tôi
đã bước lên một bước, Kim lùi thêm một bước”
(Hồi ký bên bàn viết)
"Có
lúc chỉ lọt vào rồi lại sẩy
Xâu
vừa xong gió tuột nửa chừng
Lỗ
kim...lỗ kim trước mắt"
(Xâu kim)
Giờ
đây, ở thế giới bên kia, bằng sợi chỉ duy vật, hẳn là Chế Lan Viên đã xâu được
cái lỗ kim tôn giáo, cái lỗ kim vô hình mà con lạc đà trong Kinh Thánh không thể
nào chui lọt. Cái lỗ kim ấy cũng có tên là chân trời, là xa vời lý tưởng, là
cõi đích thực của cái đẹp vĩnh hằng; nơi sinh thời, suốt bảy mươi năm, ông đã
kéo bản thân mình ra thành sợi chỉ, lầm lũi và đăm đăm hướng tới như con chiên
hướng về tín ngưỡng của mình. Nhưng chừng như tất cả đều vô vọng, tất cả còn vẫn
ở đâu đâu. Phép lạ, có lẽ chỉ có khả năng xảy ra sau khi ta ngừng thở. Rốt ráo,
tính nhân văn cao cả của thơ Chế Lan Viên chừng như đọng lại thành phù sa,
thành ánh sáng ở chỗ này đây. Ông ví mình như con ong của thời thế, đến đây yêu
xong là chết, vất vả cực nhọc, cúc cung tận tụy, tận hiến, tận trung, tận tình
mà chẳng hề mang về cho mình một chút gì ngoài niềm đau, thi ca và cái chết :
"Làm nên mật đạo đức / Chả hút gì ở môi". Sinh thời, ông không hề ta
thán oán trách gì, đòi hỏi mè nheo gì. Nhưng, đối với thời đại này, ông quả là
một đại công thần về văn hóa. Ông đã đi hầu khắp thế giới, trừ có Mỹ châu, để
làm người thuyết khách, người rao giảng của cách mạng, của cuộc kháng chiến cứu
nước. Trong thời chống Mỹ, tùy bút “Những ngày nổi giận” có sức mạnh tinh thần
của cả mười đạo binh. “Những bài thơ đánh giặc”... của ông có sức mạnh ngang
hàng với sức mạnh của những dàn tên lửa Sam một, Sam hai. Sự đóng góp của ông
thật vô cùng to lớn. Thế nhưng, ông được đãi ngộ cái gì? Ông chưa hề được cấp
nhà một lần trong đời, không bao giờ có được cái điện thoại. Cho đến khi mất,
ông chưa hề được những nhà xuất bản nhà nước tái bản một cuốn sách nào. Ông sống
đạm bạc mà thanh cao, tự tại nơi khuất nẻo xa xôi trong góc ngoại ô phía Tân
Bình. Đến nhà ông mùa mưa thì lầy lội, mùa khô thì bụi mù. Ngôi nhà của ông quá
đỗi đơn sơ, chẳng có gì quý giá ngoài trang bản thảo.
Nhưng
con người ông với tất cả nội lực phi thường, vẫn thung thăng đi tiếp về phía
chân trời của triệu người, từ chân trời tháp cổ cô đơn của mình như lời khuyên
của P. Eluard. Ông là người “ăn cây nào rào cây nấy”, chẳng như ai kia “được
ăn, được nói, được gói mang đi, được hòn chì ném lại “. Thế mà có lắm người cuống
cả lên, làm như Chế Lan Viên đã ăn hết lộc của thiên hạ. Ông ăn gạo nhà Chu và
ông có bổn phận rào cây lúa nhà Chu. Bá Di, Thúc Tề lên rừng ăn lá ư? Nhưng rừng
kia cũng vẫn của nhà Chu cơ mà? Điều đó giải thích thái độ quyết liệt, thậm chí
riết róng, dữ dằn đằng đằng sát khí của ông trong hàng loạt bài tiểu luận về
quan điểm nghệ thuật khi phải tranh biện, cãi vã. Và vì vậy, có khá nhiều người
không ưa ông, rồi không ưa luôn cả thơ ông nữa. Nhưng ở đời, cái gì ra cái ấy,
sự nghiệp thi ca đồ sộ của ông đã thành tài sản chung của dân tộc. Ông có thể
vay trả, ân oán với người đời ở chỗ khác; nhưng với thơ, ông mãi mãi là cây đại
thụ của thế kỷ hai mươi trong lịch sử văn học nước nhà. Có thể ông đúng. Cũng
có thể ông sai. Nhưng ông có quyền bảo vệ những quan điểm chính trị của mình.
Chỉ có điều thuộc về tính khí, trong tranh biện, ông là người đôi khi truy đối
phương tới cùng, quyết không cho đối phương đứng lại thở. Vâng, mỗi con người đều
có những khiếm khuyết để tồn tại, huống hồ ông lại là một tài năng lớn, một người
tầm cỡ mang trong mình tất cả thiện ác của thời đại, tất cả nghịch lý của kiếp
người, cái mâu thuẫn không sao giải quyết của số phận. Trong bài thơ “Từ thế
chi ca”, ngay cả khi trăn trối mà ông còn đáo để:
"Những
kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn
Chả
còn anh cho họ giết
Dao
sẵn rồi họ không dễ để yên"
Chế
Lan Viên, xin ông hãy yên trí làm vườn lan nhà họ Chế ở bên kia biển, bên kia
trời siêu hình; bởi trên đời này, người yêu ông, kính trọng và khâm phục ông
nhiều vô kể. Những người không ưa ông còn ở trong quá khứ. Nhưng ông và thơ ông
đã bay về phía tương lai của con người!
Chế
Lan Viên là người Mác-xít. Vâng, cả Picasso, Romain Rolland, Eluard, Aragon,
Néruda...cũng đã từng là người Mác-xít. Điều kiện tiên quyết để trở thành người
Mác-xít là phải theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng Chế Lan Viên lại cho rằng con người
có linh hồn và khi chết rồi, linh hồn con người bất tử. Ông trăn trối lại cho vợ
con sau khi ông chết, hãy đốt xác ông, lấy tro đem gởi vô chùa. Và như vậy, chết
rồi ông mới đi tu, mới trở về với Phật mà khi sống ông không ngớt hồ nghi. Tôn
giáo là nỗi ám ảnh khôn nguôi suốt một đời ông sống. Nhà Mác-xít Chế Lan Viên tự
mâu thuẫn với nhà Phật học Chế Lan Viên. Như trên đã nói, ông tập trung mọi nghịch
lý, mọi mâu thuẫn của thời đại quá nhiều tôn giáo mà thiếu đức tin này. Đúng
như lời của Jiri Wolker: "Qua nhà thơ, người ta thấy tầm cỡ thời đại mà
ông ta sống". Chế Lan Viên chính là một thời đại của thi ca của lịch sử xã
hội Việt Nam trong thế kỷ đầy đau thương mà đầy hùng khí. Tráng ca, anh hùng ca
cũng là ông, mà bi ca, khốc ca cũng lại chính là ông. Điều đó làm ta dễ hiểu
khi đọc những bài thơ làm giật thót mình các phía như bài “Trừ đi” và “Bánh vẽ”.
Phàm con người muốn biện chứng phải biết phản biện, muốn tin tưởng, cần phải học
được cách nghi ngờ. Mác cũng từng khuyên người trí thức luôn phải biết nghi ngờ.
Bởi vì khoa học chỉ có thể là chính nó, khi nó tồn tại trong niềm nghi hoặc của
con người. Suốt một đời đi xuôi, trước lúc lìa đời, con người cần phải đi vài
bước ngược lại, quay lại một chút mà ngẫm nghĩ, mà suy tưởng về thân phận mình.
Vì vậy, chúng ta càng yêu ông hơn vì cái nỗi đau đời, cái nỗi buồn tủi, cái niềm
biết thân, biết phận của mình rất chi là người, là trần gian, rơm rác, bụi bặm,
đời thường:
"Anh
đẽo tâm hồn thành con rối để yêu em
Anh
hoá gỗ, hoá dây, hoá dại khờ, ngũ sắc
Tuồng
tích ấy chú rối mình đủ khóc
Cần
chi bàn tay nào đến giật giật dây thêm
Anh
rối nước muốn lên bờ cùng rối cạn
Em
đi xa, ao thương nhớ hoá đầy
...
Anh đứng giữa lệ mình trơ trơ không dám khóc
Vui
nỗi gì khán giả vỗ ran tay?"
(Rối cạn và rối nước)
Bài
thơ làm nhức nhối người đọc, huống hồ là người viết ra nó phải đau, phải nhân
tình thế thái biết là chừng nào. Nói về mình khi chưa gặp cách mạng, Chế Lan
Viên viết: "Lòng ta thành con rối / Cho cuộc đời giật dây". Ngày đó
ông mới vừa hai mươi lăm tuổi, sân khấu đời ông đã kịp diễn gì đâu? Con rối ấy
hoạ có chăng là rối siêu hình? Còn giờ đây, con rối nước xưa đã bò lồm ngồm lên
cạn như ếch nhái, để lại diễn đủ trò cho thiên hạ vỗ tay. Còn mình thì vẫn rối
như sợi chỉ hiện thực trước lỗ kim vô cùng?
Càng
gần tới cái chết, thơ ông viết càng hay, càng bớt chất luận đề, chính luận, càng
thêm cảm xúc và sâu đọng. Hầu hết các nhà thơ mới, kể cả Xuân Diệu, Huy Cận,
cái phần thơ hay nhất, đóng góp lớn nhất cho thi đàn lại là những thi phẩm ra đời
trước năm 1945. Chỉ có Chế Lan Viên và phần nào Tế Hanh, mà những trước tác sau
này thậm chí còn đồ sộ, còn hay hơn nhiều thời tiền chiến. Sau Thơ Mới, ông đã
làm cho Thơ Mới được mới thêm một lần nữa. Đấy chính là sự đóng góp có tính tiền
phong, tính mở đường của thơ Chế Lan Viên cho thời đại thi ca mới. Chính ông mới
là nhà thơ hiện đại đúng nghĩa nhất của nó.
“Lòng
ta mục đồng / Cũng đi chăn đấy”... ... “Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”. Do đó,
đôi khi thi ca cũng cần được tung tăng hồn nhiên như con nghé ọ. Nhà thơ không
cưa sừng làm nghé, vì tâm hồn ông đã được thả rông trên đời này để có lúc vừa ăn
cỏ của đời sống, vừa uống nước sông Ngưu siêu hình của trời xanh:
"Con
trâu nghé ọ
Có
cặp sừng bỡ ngỡ
Chiều
buồn không biết cọ vào đâu"
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh -1988)
Câu
thơ viết như chơi, viết như đùa, như không mà hay đến nghi hoặc. Yêu biết bao
nhiêu cái cặp sừng non bỡ ngỡ của thi ca. Này con nghé ọ, mi đang cọ sừng vào
cõi hư vô mà chẳng biết. Nhà thơ bảy mươi tuổi nhưng thi ca của ông sinh ra
muôn đời phải là con trẻ, phải là con nghé ọ của đời. Con nghé thơ sẽ lớn thành
con trâu kéo cày trên cánh đồng văn học. Và, trâu thơ ơi, sau khi người chết
đi, người đời sẽ mượn da người làm trống, để đánh lên nhịp nhảy, nhịp sống của
con người. Và trâu thơ ơi, xin mi để lại cặp sừng làm chiếc tù và báo động. Đi
từ cặp sừng non của con nghé đến chiếc tù và của con trâu, Chế Lan Viên vẫn tiếp
tục cất lên tiếng trống, tiếng tù và, báo hiệu một ngày mới trên cánh đồng vĩnh
cửu của thi ca...
Sài Gòn 3 giờ sáng 22/5/1994
TMH
(Bài đã in báo VĂN, TP HCM, số
32, 6/1994 và trên Văn nghệ Quân đội số tháng 12/1994)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét