Thứ Hai, 10 tháng 10, 2022

LẠI THÊM HAI ĐÓA HOA HỒNG / Phạm Đức Nhì

 


                                            Phạm Đức Nhì                                    Vân Anh

 

       Nhắc Lại Chuyện Văn Chương Trên Facebook

 

Trò chơi văn chương trên FB khác với các trang web văn học trên Internet. Nơi đây tác giả và độc giả thuộc đủ mọi thành phần, thượng vàng hạ cám. Việc góp ý, bình luận trên FB rất dễ dàng. Miễn bạn giữ thái độ lịch sự, hòa nhã thì dù bình luận của bạn có “chưa tới”, dở ẹc hoặc “trật bàn đạp” cũng đều được đón nhận một cách vui vẻ.

 

       Những bài viết về thơ của tôi nhận được khá nhiều bình luận như vậy. Nhưng bên cạnh đó cũng có những bình luận nội lực văn chương sung mãn, thổi vào bài viết một luồng gió mới tươi mát, đưa ra một phương cách mới để nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc.

 

Bài Thơ Xuất Hiện Như Ánh Chớp

 

Cách đây không lâu, dưới bài viết Hồn Thơ Và Cảm Xúc của tôi trên Facebook có một bình luận bằng thơ (4 câu) và một đoạn văn của Vân Anh:

 

Không là dòng chảy trong mương

Không là sóng cả đại dương thăng trầm

Người – êm ái mạch nước ngầm

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.

 

Cám ơn anh Nhì Phạm.

Bài viết của anh thật thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch ngoạc của mình.

 

Ý của đoạn thơ là “Chính những nhà bình thơ - đúng ra là tác phẩm của họ - đã giúp thi sĩ chỉnh sửa những vụng về, bất cập trong sáng tác thơ cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của mình”.

 

Vân Anh đã kín đáo bày tỏ lòng biết ơn đối với những bài bình thơ mà chị đã nhân cách hóa thành chữ Người một cách trân trọng và quý mến.

 

Thấy bài thơ hay quá (đoạn thơ sau đó có tên là Mạch Nước Ngầm) tôi đã viết lời bình với tựa Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ.

 

Bài Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ được đăng trên Facebook vào lúc 7 giờ 28 sáng ngày 29 tháng 6 / 2019 (giờ Houston, Mỹ) thì đến 23 giờ 05 (giờ Việt Nam) cùng ngày, đã thấy dưới bài viết ấy, ở dạng bình luận, bài thơ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh.

 

Bỏ qua 12 tiếng cách biệt giữa Houston và Việt Nam thì từ lúc đọc bài viết của tôi rồi bắt đầu sáng tác cho đến lúc chị đăng bài thơ chỉ khoảng hơn 3 tiếng đồng hồ. Tôi nghĩ chị phải ở trạng thái thật cao hứng và xúc động mạnh mẽ nên mới có thể hoàn tất bài thơ nhanh như thế.

 

NHÂN TÌNH CỦA NHỮNG ÁNG VĂN XANH

 

1/

Bầu bạn với văn chương

em nhẹ lướt đi

bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ

nháy mắt cười

với ca dao, ngạn ngữ

nhưng rồi …

chỉ nồng nàn với riêng anh

 

2/

Anh trải rộng

những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang

 

3/

Tình mình lặng thầm mà chứa chan

em có thể cười vang

khi gặp gỡ

có thể vỗ về

ru êm vào giấcngủ

tha thiết không còn đủ với đời

em son sắt văn chương

 

4/

Câu chữ vấn vương

âm vần lưu luyến

và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh.

 

                         (VÂN  ANH)

 

Hình Thức Thơ

 

       Nhân Tình Của Những Áng văn Xanh có hình thức của Thơ Mới biến thể, vần liên tiếp cứ đến hẹn lại lên (16 câu, 7 cặp vần - trừ câu đầu và câu cuối). Biến thể ở chỗ số chữ trong câu thay đổi tùy hứng khiến nhịp điệu không tẻ nhạt vì lập đi, lập lại. Và nhờ nhịp điệu thay đổi như thế nên không có hội chứng nhàm chán vần.

 

Đây là bài thơ nhất khí, liền mạch – nghĩa là tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối, ngoại trừ những chỗ tác giả tự ngừng nghỉ để chuyển ý chứ không vì tuân theo quy luật của thể thơ.

 

Với thế trận này, thơ được coi là viết theo phe Khí Tông – thiên về cảm xúc - để phân biệt với thơ viết theo phe Kiếm Tông – thiên về cái đẹp của câu chữ, chú trọng ngôn ngữ, hình tượng và các biện pháp tu từ.

 

Nếu tác giả phấn khích, cao hứng thì trong bài thơ Khí Tông cảm xúc nương theo dòng chảy của tứ thơ sẽ tích tụ và lớn mạnh nhanh chóng. Cảm xúc càng mạnh, lý trí càng yếu. Lý trí bị lấn át đến một mức nào đó cảm xúc tầng 3 sẽ xuất hiện. Khi lý trí bỏ chạy biệt tăm, cảm xúc độc chiếm khung cảnh của bài thơ, dòng chảy của tứ thơ hóa thân thành dòng cảm xúc, ta có hồn thơ.

 

Biện Pháp Tu Từ

 

Bài thơ sử dụng ít nhất 2 biện pháp tu từ.

 

1/ Ẩn dụ:

 

a/ “Áng văn xanh” = bài bình thơ = cánh đồng mướt xanh.

b/ Hương lúa mới: Cái mới trong thơ.

c/ “Tuôn chảy dòng sông diệu vợi”: Hóa thân thành dòng sông để dẫn đường chỉ hướng đi cho thơ.

d/ “Thuyền em”: Thơ của tác giả.

 

2/ Nhân cách hóa:

 

“Áng văn xanh” được chuyển hóa thành “Anh”, một người được tác giả cảm mến, yêu thích và sau cùng chị đã nguyện mãi mãi làm nhân tình.

 

Đây chỉ là những biện pháp tu từ “rõ nét”. Ngoài ra, còn những câu “bóng gió” ở đoạn 1 và đoạn 3, xin phép được lướt qua để bài viết không bị “loãng”.

 

Tìm Hiểu, Nhận Biết Tứ Thơ

 

Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu.

 

1/

 

Bầu bạn với văn chương

em nhẹ lướt đi

 

bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ

nháy mắt cười

với ca dao, ngạn ngữ

nhưng rồi …

chỉ nồng nàn với riêng anh

 

Là thi sĩ, lạc vào chốn văn chương, “bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ”, làm quen với nhiều thể loại văn học, nhưng tác giả cảm thấy gần gũi, thân thiện và yêu thích nhất là những bài bình thơ. Câu:

 

“nhưng rồi… chỉ nồng nàn với riêng anh”.

 

đã diễn đạt rất rõ ràng, dễ hiểu.

 

Hai chữ “nồng nàn” thật đắt và dễ thương, biểu lộ một sự quý mến trên mức quen biết xã giao rất nhiều. Tác giả tránh chữ “yêu” nhưng trong lòng và cách cư xử thì có vẻ như “tình đã trao”.

 

Chữ “rồi” – có giá trị như một dấu lặng - cho biết đây không phải là sự quý mến vồ vập mà là đã qua tìm hiểu, trải nghiệm. Thời gian dài hay ngắn, tác giả không cho biết. Nhưng như thế cũng đủ để độc giả thấy được sự chín chắn của chị.

 

       Chữ “anh” ở cuối đoạn không phải là người đàn ông bằng xương bằng thịt mà là một thể loại văn học nào đó đã được nhân cách hóa để chị kín đáo “tỏ tình”. Nếu đọc Tựa Đề rồi để ý đến bối cảnh bài thơ (là bình luận dưới một bài bình thơ trên FB), độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy chị muốn nói đến những bài bình thơ mà chị thân mến gọi chúng là Những Áng Văn Xanh.

 

2/

 

Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới.

 

       Bài bình thơ như một cánh đồng mướt xanh để “em ngửa mặt hít hà hương lúa mới”. Tác giả sử dụng phép ẩn dụ. Thi sĩ nhờ những bài bình thơ để tiếp cận và thấy được cái mới trong thơ.

 

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang.

 

       Bài bình thơ hóa thân thành dòng sông tuôn chảy thẳng hướng bến bờ thi ca để thuyền em – nói rõ ra là thơ của em - theo đó mà trôi cho khỏi quên đường, lạc lối.

 

Chị đứng ở vị trí của một thi sĩ, nhờ kinh nghiệm làm thơ cũng như đọc và thẩm thấu hương hoa của những bài bình thơ (hoặc viết về thơ) đã “ngộ” thêm ra 2 nhiệm vụ của chúng. Đó là 1/ tìm kiếm, xiển dương cái mới trong thơ và 2/ chỉ đường để thi sĩ hướng thơ của mình đến bến bờ thi ca. (Trước đó chị đã có Mạch Nước Ngầm).

 

3/

 

Tình mình lặng thầm mà chứa chan

em có thể cười vang

khi gặp gỡ

có thể vỗ về

ru êm vào giấcngủ

tha thiết không còn đủ với đời

em son sắt văn chương

 

Tác giả cho rằng tình của chị với những bài bình thơ thầm lặng mà chứa chan. Gặp được một bài hợp ý thì cười vang thích thú. Những cái hay, cái đẹp của bài bình thơ như ru chị vào giấc ngủ êm đềm. Do hoàn cảnh không còn tha thiết yêu đời nên chị đã hết lòng “son sắt văn chương”.

 

4/

 

Câu chữ vấn vương

âm vần lưu luyến

và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh.

 

Chính vì làm thơ, yêu thơ nên chị vấn vương câu chữ, lưu luyến âm vần, và nguyện từ giờ về sau “làm nhân tình” của “ những áng văn xanh”

 

Tóm tắt tứ thơ:

 

Là thi sĩ nên trong số rất nhiều thể loại văn học tác giả

nặng tình nhất với những bài bình thơ (hoặc viết về lý

thuyết thơ), nhờ đó chị có thể thấy được cái mới trong

thơ, thấy được hướng đi để đưa thơ mình đến bến bờ thi ca.

 

Tình yêu ngày càng sâu đậm và cuối cùng chị đã nguyện mãi mãi làm nhân tình của những “Áng Văn Xanh” đó.

 

Có thể nói bài thơ hơi bị “khó tiêu”. Nhưng khi độc giả đã “giải mã” hết những biện pháp tu từ và đọc lại vài lần thì theo tôi, bài thơ vừa lung linh sương khói, vừa lãng mạn và vừa sâu sắc. Chỉ riêng về mặt câu chữ và thế trận cũng đủ để một người yêu thơ như tôi, tán thưởng và khâm phục.

 

Tứ Thơ Độc Đáo

 

Nét độc đáo của bài thơ, theo tôi, là tứ thơ. Cốt tủy của 2 bình luận bằng thơ trong khung cảnh 2 bài viết 1/ Hồn Thơ Và Cảm Xúc và 2/ Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ (Phạm Đức Nhì) là 6 câu thơ:

 

Người – êm ái mạch nước ngầm

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về.

                     (Mạch Nước Ngầm)

Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang.

            (Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh)

 

Sáu câu thơ này có những đặc điểm:

 

1/ Về ý nghĩa, đề cập đến 3 nhiệm vụ của công việc bình thơ.

 

2/ Ngôn ngữ, hình tượng đẹp, cao sang, ẩn dụ kín kẽ, ý tứ chính xác, sâu sắc.

 

3/ Viết về bình thơ bằng thơ. Trao tặng độc giả những

kiến thức cốt yếu về công việc bình thơ bằng phương

cách “trái tim đến với trái tim” để độc giả dễ tiếp nhận

hơn.

 

4/ Không phải bài viết của người hiểu biết về lý thuyết

thơ và làm công việc bình thơ mà là “tâm tình” của người sáng tác thơ, trực tiếp đón nhận lợi ích của những bài bình thơ. Vì thế, tránh được tính chủ quan, ngự trong “tháp ngà” thường có của những nhà bình thơ.

 

Cảm Xúc (Tầng 1 + Tầng 2)

 

Cảm xúc tầng 1, đến từ câu chữ, là cảm giác thích thú,

khoái trá của độc giả khi gặp được một chữ hoặc một

nhóm chữ “đắt”, một hình tượng đẹp, mới lạ, lung linh, sống động, câu cú gọn gàng, trong sáng, dễ hiểu. Đặc biệt, không có những chữ, câu thừa, “vô tích sự”.

 

Cảm xúc tầng 2 là cảm giác thích thú, khoái trá ở cường độ mạnh hơn khi thấy thế trận của bài thơ hợp lý, dòng chảy thông thoáng, chuyển tải nội dung của tứ thơ hiệu quả, không có câu thơ, đoạn thơ “nội gián” ngược dòng chảy với tứ thơ. Độc giả cũng yêu thích cách dàn trận mới lạ miễn là mới lạ phải đồng hành với hợp lý và hiệu quả.

 

Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đến từ câu chữ, thế trận nên

được gọi là cảm xúc nội tại của bài thơ. Nó khác với cảmxúc tầng 3 đến từ trạng thái cao hứng, nổi điên của thi sĩ – nghĩa là ở ngoài câu chữ.

 

Khả năng sử dụng câu chữ, thế trận được gọi là kỹ thuật thơ. Nhiều người “lịch sự” còn gọi là “tài thơ” của tác giả, dù cách gọi này dễ gây hiểu lầm.

 

Kỹ thuật thơ của tác giả trong Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh rất nhuyễn nên bài thơ không có lỗi kỹ thuật. Ngôn ngữ thơ đẹp một cách sang trọng. Các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân cách hóa, so sánh nối đuôi sau xuất hiện nên tứ thơ lung linh, sống động và hấp dẫn.

 

Câu cú vững vàng, chắc nịch, không sơ hở nên nếu độc giả “giải mã” được, hiểu được ẩn ý của các biện pháp tu từ thì sẽ đến đúng bến đỗ của tứ thơ không khó lắm.

 

Lúc ấy, cảm giác thích thú, khoái trá của độc giả ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh.

 

Cảm Xúc Tầng 3

 

Đoạn 1

 

Bầu bạn với văn chương

em nhẹ lướt đi

bồng bềnh giữa ngút ngàn câu chữ

nháy mắt cười

với ca dao, ngạn ngữ

nhưng rồi…

chỉ nồng nàn với riêng anh

 

Tuy là những câu dẫn độc giả vào khung cảnh của bài thơ nhưng tác giả viết với thái độ hăm hở, hào hứng để biểu lộ tâm trạng đang nóng bỏng trong lòng mình nên đọc hết câu thứ tư:

 

“nhưng rồi …

chỉ nồng nàn với riêng anh”

 

độc giả đã cảm thấy hơi ấm của cảm xúc tầng 3 len giữa nhưng hàng kẻ thấm vào tâm hồn. Chỉ âm ấm nhưng rất rõ nét.

 

Đoạn 2

 

Anh trải rộng

những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang

 

Đây là đoạn chứa cả hồn cốt của bài thơ nên cảm xúc rất mạnh cả ở trong lẫn bên ngoài dòng chảy của tứ thơ. Cả 4 câu của đoạn này đều thuộc loại câu “bộc lộ” (Show) nên cảm xúc tầng 3, gặp lúc tác giả đang cao hứng, lại có trớn từ đoạn 1, dâng cao rất nhanh. Ngôn ngữ thơ cao sang, hình tượng đẹp, nên thơ, ẩn dụ tương hợp, kín kẽ nên tâm hồn của độc giả như đang bồng bềnh trên “sóng lúa” và sóng nước.

 

Đoạn 3

 

Tình mình lặng thầm mà chứa chan

em có thể cười vang

khi gặp gỡ

có thể vỗ về

ru êm vào giấcngủ

tha thiết không còn đủ với đời

em son sắt văn chương

 

Câu đầu của đoạn 3 “Tình mình lặng thầm mà chứa chan” là câu kể (Tell). Ba câu sau chỉ để giải thích, làm rõ nghĩa hai chữ “chứa chan”. Để làm việc đó, lý trí phải được gọi về. Với tác giả, để giải thích cho đúng, hợp lý. Với độc giả, để hiểu và chấp nhận sự giải thích đó.

 

Riêng câu “tha thiết không còn đủ với đời, em son sắt

văn chương” lại là một câu kể khác. Độc giả như tôi đã phải bắt lý trí làm việc cật lực – bỏ cả buổi vào trang FB của chị - để tìm hiểu tại sao chị lại không còn tha thiết yêu đời mà dành hết tâm hồn “son sắt văn chương”. Tôi đã thấy, đã hiểu. Nhưng đây là vùng đất riêng tư của chị nên không tiện nói thêm.

 

Đối với tứ thơ thì sự giải thích của đoạn 3 làm mối tình của chị đối với “những áng văn xanh”, trước mắt độc giả, thêm phần đậm đà, tha thiết, hỗ trợ mạnh mẽ cho đoạn kết của bài thơ. Nhưng đáng tiếc, chính vì đoạn thơ này mà cảm xúc tầng 3 đang nóng bỗng nguội dần đi.

 

Đoạn 4

Câu chữ vấn vương

âm vần lưu luyến

và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh.

 

Những câu bộc lộ tâm trạng (Show) tái xuất hiện. Cảm

xúc tầng 3 đã ấm lại.

Đến câu cuối, tứ thơ đã đến đích ở đỉnh điểm (về ý tứ), cảm xúc của tầng 3 đang nóng lên thì bài thơ đã kết thúc.

 

Tóm lại, tác giả làm thơ trong lúc tâm hồn phấn chấn, cao hứng, cảm xúc tầng 3 biểu hiện rõ nét ở 2 đoạn đầu. Tuy nhiên, chưa đủ để hồn thơ “lai láng”. Nói đúng ra hồn thơ đã xuất hiện nhưng cường độ không mạnh.

 

Sau đây là mấy lý do:

 

1/ Đoạn 3 mời gọi lý trí về để nghe phân trần, lý giải. Có lý trí, cảm xúc - đặc biệt là cảm xúc tầng 3 - tự động xẹp xuống.

 

2/ Với bài thơ 16 câu, 117 chữ, viết theo lối Khí Tông mà sử dụng biện pháp tu từ như liệt kê ở trên là hơi dầy. Với việc biểu hiện tứ thơ thì rất hiệu quả, rất đẹp, rất hay, nhưng chính vì thế đã làm vướng víu dòng chảy cảm xúc, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của cảm xúc tầng 3.

 

3/ Đỉnh điểm (điểm nhấn) của tứ thơ ở cuối bài. Đỉnh

điểm của cảm xúc tầng 3 ở cuối đoạn 2. Bài thơ không

kết thúc ở cao trào.

 

Góp Ý Của Một Anh Bạn

 

Bài viết gần xong thì một anh bạn yêu văn chương ở xa đến chơi. Tôi đưa bản thảo cho anh đọc và anh đã góp ý 2 điểm:

 

1/ Nhóm chữ “và từ giờ”.

 

Trước hết, xin nhắc lại nhân vật “Anh” chỉ là “những áng văn xanh” hay “những bài bình thơ”, do “nhân cách hóa” mà có mặt, chứ không phải một nam tử hán bằng xương bằng thịt.

 

Ngay ở cuối đoạn 1 và rồi sang cả đoạn 2 tình của Nàng với “Anh” đã rất sâu đậm:

 

“nhưng rồi …

chỉ nồng nàn với riêng anh”

 

Anh trải rộng

những cánh đồng mướt xanh

em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

thuyền em trôi thênh thang

 

Tôi nghĩ với ngôn ngữ thơ như thế Nàng đã yêu và cho

“Anh” tất cả, đâu còn giữ lại tý gì. Nhưng đến cuối bài - đỉnh điểm và cũng là điểm nhấn của tứ thơ – khối tình đó chỉ tăng đến mức:

 

“và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh”

 

nghĩa là chỉ cho “Anh” thêm chút danh hão chứ có gì

khác đâu? Như vậy độ gia tăng tình cảm của Nàng với

“Anh” từ lúc đầu cho đến cuối bài không đáng kể. Nếu vẽ đường biểu diễn thì đó chỉ là một đường thẳng gần như nằm ngang, chỉ hơi chếch lên một tý ở đoạn cuối. Tôi cho đó là điểm yếu quan trọng của bài thơ.

 

Anh bạn tôi đứng về phía tác giả, giải thích và biện hộ

như sau:

 

Ở phần đầu bài thơ, dù thái độ của Nàng đã “nồng nàn

với riêng Anh”, rồi trong cả đoạn 2 đã say sưa, mê mẩn cùng Anh trong “những cánh đồng mướt xanh” và “dòng sông diệu vợi”, nhưng khi đã “nguyện” làm nhân tình của Anh thì lời nguyện đó đã đưa tình bước lên một tầng bậc mới, cao hơn trước nhiều. Hơn nữa, nhóm chữ “và từ giờ” đã hứa hẹn một tương lai lâu dài, mãi mãi, suốt đời.

 

Khi nữ ca sĩ nào đó hát câu “Em hứa yêu anh trọn một

đời” (1) khán thính giả sẽ mường tượng một mối tình

đằm thắm, lâu dài, mãi mãi. Hai câu thơ

 

“và từ giờ em nguyện

làm nhân tình của những áng văn xanh

 

còn nặng tình hơn câu hát đó nữa. Lý do: Chữ “nguyện” còn mạnh hơn chữ “hứa” một bậc.

 

Như vậy, có thể nói độ gia tăng của khối tình của Nàng với “Anh” từ đầu bài thơ đến hai câu kết là rất đáng kể.

Anh đề nghị:

 

“Nếu không khen thì cũng đừng nên đưa vào những lời ‘khó nghe’ kẻo lại bị ‘búa rìu dư luận’. Mà chỗ này người ta ‘búa’ thì khó đỡ”.

 

Quả thật, tôi thấy sức mạnh của chữ “nguyện” nhưng lại “quên” nhóm chữ “và từ giờ” nên đã trách oan tác giả.

“Nói phải thì củ cải cũng phải nghe”. Tôi đã nghe và đã sửa. Cám ơn anh bạn.

 

2/ Về đoạn 3 của bài thơ

 

Anh bạn tôi cho rằng tác giả viết bài thơ là để bày tỏ mối tình thắm thiết của Nàng đối với “những áng văn xanh”. Và theo anh, “đoạn 3 đã hỗ trợ đắc lực cho công việc đó; có công lớn như vậy mà còn bị ‘bắt lỗi’ là không đúng”.

 

Tôi biết chỗ dựa để anh và tôi nhận xét, đánh giá một bài thơ, một đoạn thơ, một câu thơ hay hoặc không hay, khác nhau. Anh dựa vào sự hiệu quả trong việc giúp biểu hiện tứ thơ. Tôi, ngoài điểm đó, còn nhìn theo hướng đi của bài thơ đến bến bờ thi ca.

 

Đối với những bài thơ tác giả chọn chữ so vần trong lúc “tỉnh như sáo” thì không nói làm gì. Với những bài ấy thì mọi đôi mắt phải nhìn chăm chú vào tứ thơ là đúng. Nhưng với những bài thơ có xuất hiện cảm xúc tầng 3 thì phải theo dõi dòng chảy cảm xúc, xem nó có thông thoáng để cảm xúc tầng 3 lớn mạnh hay không? Có cơ hội để có hồn thơ hay không?

 

Tôi biết, về mặt ý tứ, đoạn 3 của NTCNAVX là một đoạn thơ hay. Nhưng về mặt khơi dòng để cảm xúc tầng 3 tuôn chảy thì nó lại là điểm tụ hội của lý trí, là vật cản. Chính nó làm mất cơ hội để hồn thơ lớn mạnh.

 

Ưu Điểm Của Bài Thơ

 

1/ Vẫn dựa vào khung Thơ Mới nhưng số chữ trong câu thay đổi tùy hứng với biên độ rộng – câu ngắn nhất 5 chữ, câu dài nhất 12 chữ, nhịp điệu thay đổi, không lập đi lập lại, tính nhạc cao.

 

2/ Vần liên tiếp đều đặn, 16 câu, 7 cặp vần, nhưng do

tính nhạc cao nên vẫn vừa độ ngọt, không có hội chứng nhàm chán vần.

 

3/ Ngôn ngữ cao sang, chắt lọc, hình tượng đẹp, gợi cảm.

 

4/ Bài thơ nhất khí liền mạch, tứ thơ và cảm xúc chảy

thành dòng.

 

5/ Tứ thơ tuyệt vời.

6/ Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 mạnh.

 

7/ Có cảm xúc tầng 3 khá “nóng” ở cuối đoạn 2, nhưng nguội dần từ đầu đoạn 3 và ấm lại từ đoạn 4.

 

Khuyết Điểm

 

Có cảm xúc tầng 3 nhưng chưa đủ mạnh để hồn thơ lai

láng. (Đã giải thích ở mục Cảm Xúc Tầng 3)

 

Kết Luận

 

Ba nhiệm vụ của nhà bình thơ trong Mạch Nước Ngầm và Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh (2) đâu đó đã có người nhắc đến, bàn đến. Chị không phải là người đầu tiên nghĩ ra những ý tưởng đầy tính học thuật ấy.

 

Nhưng với tâm thế của người thọ nhận, gói chúng vào 2 bài thơ, nén chúng vào 6 câu thơ vừa cô đọng, đẹp, sâu sắc, lại vừa lãng mạn, thấm đẫm chất tình như chị, thì theo tôi, xưa nay chỉ có một.

 

Chị đã tặng cho người yêu thơ một món quà ý nghĩa.

Riêng đối với những người bình thơ như chúng tôi, trước sau, chị đã trao tận tay 3 đóa hoa hồng. Một đóa từ Mạch Nước Ngầm và thêm hai đóa nữa từ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh.

 

Mai mốt đây, bàn đến đề tài bình thơ, những nhà phê

bình, đặc biệt là giới trẻ, để trích dẫn, khỏi phải tìm tòi

lượm lặt mỗi nơi một đoạn văn xuôi khô cứng. Trước mắt họ, những đóa hoa của Vân Anh sẽ hiện ra mời gọi. Mềm mại, dễ thương – và vẫn như ngày đầu – nguyên vẹn một màu hồng tươi thắm.

 

      Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com

……………..

 

CHÚ THÍCH

 

1/ Một Đời Yêu Anh (Em), Trần Thiện Thanh.

https://www.dailymotion.com/video/x5n7xj5

 

2/ Ba nhiệm vụ của nhà bình thơ theo Vân Anh là:

 

a/

 

Người êm ái mạch nước ngầm

Chảy trong tôi suốt tháng năm vụng về

 

Chỉ ra, sửa chữa những vụng về, bất cập của thi sĩ (trong

thơ)

 

b/

 

Anh trải rộng những cánh đồng mướt xanh

Em ngửa mặt hít hà hương lúa mới

 

Chỉ ra những điểm hay, nét mới trong thơ.

 

c/

 

Anh tuôn chảy dòng sông diệu vợi

Thuyền em trôi thênh thang.

 

Đi trước chỉ lối, dẫn đường cho thi sĩ đến Bến Bờ Thi Ca

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét