TỐNG BIỆT HÀNH
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
Nh.Tr. 77
LỜI BÌNH CỦA CHÂU THẠCH
“Hành”
là một thể loại thơ không phổ thông lắm, nhưng nó từng giữ một vị
trí đáng kể trong lịch sử thi ca Việt Nam. Một bài thơ ở thể “Hành”
thường đề cập đến những sự việc với tâm trạng bức xúc. Nếu so sánh
“Hành” với những thể thơ khác ở giai đoạn thơ mới (Thập niên 1930 đến
nay) thì thể “Hành” không được sáng tác nhiều. Tuy thế dầu ít,
“Hành” cũng có được ngôi vị trân trọng trong nền văn học giai đoạn
nầy. Cụ thể là “Tống Biệt hành” của Thâm Tâm, “Hành Phương Nam” của
Nguyễn Bính và một số bài thơ thể “Hành” ít nổi tiếng hơn.
Tống
biệt hành của Tuệ Sỹ là một bài thơ nằm trong tập thơ Giấc mơ Trường Sơn của
ngài Tuệ Sỹ. Một số nhà phê bình văn học đã viết về Tống Biệt Hành của Tuệ Sỹ
như sau:
“Tống
biệt hành của Tuệ Sỹ, tác giả đồng thời là một vị hành giả cô đơn, cô đơn ngay
trên chính đất nước của mình, cô đơn ngay trên chính quê hương của mình, mặc
dù, nơi đây, ông đã nguyện dành hết cuộc đời mình yêu thương và hy sinh tận tụy”.
“Tống
biệt hành của Tuệ Sỹ là một nỗi buồn lớn lao từ bước đường dằng dặc trải dài
phía trước, nơi không biết, ngày mai, sẽ dẫn ông về đâu; là nỗi buồn từ mây trời,
chẳng biết đến từ phương nào, mà bây giờ, đã quá chừng chừng tụ nơi bến đỗ; từ
con nước dửng dưng buông trôi về chân trời vô định, dửng dưng như lòng người
trong một sớm đổi thay, thay hết cả ân tình xưa bằng dòng lạnh lùng, xa vắng”.
“Tống biệt hành của Tuệ Sỹ,
là một bài thơ, với hơi thơ trầm mặc, với giọng thơ buồn đau mà vẫn lưu được vẻ
hiền hòa, từ bi của một vị hành giả, lấy đất trời làm nơi tạm dung, lấy đức tin
làm chốn nương vào để đi trọn vẹn con đường mà vị khách lữ hành đã chọn lựa”.
Với
Châu Thạch tôi, Tống Biệt Hành của Tuệ Sỹ là một tiếng kêu của sự ấm ức chất chứa
trong lòng, là một tiếng than cho nỗi đau triền miên của một con người có chí lớn
nhưng bị đời ngăn trở, chèn ép, vây bọc muôn khó khăn như sông lớn, như núi cao
khiến người ấy phải giam mình trong chốn chật hẹp mà nhìn thấy mây bay.
Ta
hãy lần lượt đi vào 4 khổ của bài Tống Biệt hành để nghiên cứu sâu hơn nữa nỗi
lòng tác giả và sự hay kỳ vỹ của thi ý thi tứ mà nhà thơ hàng đầu của đất Việt
gởi vào đó. Ta hãy đọc khổ thơ đầu tiên của Tống Biệt hành:
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?
Ở
câu thơ đầu tiên tác giả đã than van vì sự ngăn trở của núi cao, chỉ một bước
đường thôi là đến nơi tác giả mong muốn đến, nhưng đã bị núi cao chận lối. Vậy
nơi nhà thơ muốn đến là đâu?. Câu thơ thứ hai nói rõ nơi muốn đến: “Trời ơi mây
trắng đọng phương nào”. Vậy nơi nhà thơ muốn đến là nơi có mây trắng, mây đó “đọng
phương nào” thì nhà thơ chưa biết được, thế nhưng đối với Tuệ Sỹ, con người có
chí lớn thì đến với mây trắng không khó, chỉ là “một bước đường thôi” nếu không
bị ngăn trở bởi “núi cao”.
Trong
Phật gíao, mây trắng tượng trưng sự thanh tịnh, vô nhiểm và trí tuệ, là một
trong những màu sắc của mây ngũ sắc mang ý nghĩa phước lành. Ngoài ra, mây trắng
còn đại diện cho sự tự do, nhẹ nhàng, tỉnh tại và thong dong, nhắc nhở về khả
năng buông bỏ để tìm thấy bình an. Tóm lại, có thể hiểu mây trắng tượng trưng
cho cõi giải thoát. Bởi vậy thiền sư Thích Nhất Hạnh viết tựa đề cho quyến sách
của ông là “Đường Xưa Mây trắng” với ý nghĩa là con đường xưa của Đức Phật với
những dấu chân và sự kiện xảy ra trên chặng đường ấy, để ngài tìm đến chân lý
là chố Mây Trắng, biểu thị chốn giải thoát. Vậy ta có thể hiểu hai câu thơ “một
bước đường thôi nhưng núi cao/Trời ơi mây trắng đọng phương nào” là ngài than
thở cho trở ngại chận con đường tu tập của ngài quá lớn, lớn như núi cao, không
cho ngài có thể vượt qua để đạt đạo.
Hai
câu thở tiếp theo “Đò ngang nếu bến đầy sương sớm/Cạn hết ân tình, nước lạnh
sao?” có ý nghĩa là con đò ngang để đưa người qua bến mê đến miền mây trắng
cũng như cạn hết ân tình vì nước cũng đã lạnh băng, thuyền không rời bến được.
Hai câu thơ bày tỏ sự bất lực, thiên nhiên và phương tiện đều không thuận tiện
cho sự lên đường. Cả khổ thơ trên, tuy
nhà thơ chỉ nói đến trở ngại do núi sông nhưng thật ra, nhà thơ dùng núi sông
làm ẩn dụ để đề cập đến sự ngăn trở của cuộc đời đem đến cho bước đường tu tập
của ngài trùng trùng như núi, mênh mông như biển như sông kia.
Khổ
thơ thứ hai nhà thơ nói rõ, chi một bước đường thôi nhưng gặp sự ngăn trở làm
cho bước đường trở thành xa, xa như xa biển khơi:
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi
“Một
bước đường xa, xa biển khơi” nghĩa là chỉ một bước đường nhưng bước đó xa lắm,
xa và rộng như biển khơi. “Mây trùng sương mỏng nhuộm tơ trời” nghĩa là trên bước
đường đó có mây trùng trùng điệp điệp, có sương mù vây phủ bốn phương nhuộm hết
tơ trời. “Thuyền chưa ra bến bình mình đỏ” có nghĩa là thuyền chưa có cơ hội rời
bến một lần nào trong thời tiết bình minh tươi đẹp. “Nhưng mấy ngàn năm tống biệt
rồi” có nghĩa là sự chia tay, tiển biệt đi kèm với cảm xúc đã xảy ra mấy ngàn
năm trước. Đây là câu thơ khó, có thể hiểu qua ngàn kiếp, nhà thơ đã lên đường
nhiều lần từ ngàn năm trước, ở kiếp nầy, tác giả cũng lên đường nhưng gặp vạn
khó khăn.
Trong
khổ thơ nầy ta thấy nhà thơ Tuệ Sỹ bi quan, ngài bất lực trước những trắc trở
gây ra trước biến động thiên nhiên, mà những trở ngai ấy không chỉ bây giờ mà
đã gây ra hàng ngàn năm trước, trong hàng ngàn lần tống biệt ở ngàn kiếp trước
đến nay. Cả khổ 1 và khổ 2 của bài thơ là nỗi trăn trở chứa trong thơ, uất nghẹn
trong lời bày tỏ, là sự bi quan trước nghich cảnh, nghịch cảnh ấy trong thơ là
do thiên nhiên gây ra, nhưng rõ ràng với phương tiện bây giờ thì thiên nhiên
không gây khó khăn cho sự đi lại. Vậy nhà thơ muốn ám chỉ đến nghịch cảnh do
con người đem đến trên bước đường tu tập
tâm linh của mình.
Vào
khổ thơ thứ ba, nhà thơ bày tỏ sự tù túng trong bốn vách tường để nhìn bóng ma
đi ngoài xã hội, để thấy chí lớn của mình chỉ thành mộng tan như mấy khói trắng sông Ngân Hà, để thấy sương gió phù du,
và lo lắng đến ngàn năm sau trời đất sẽ thành ô uế hơn:
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Nhà
thơ Tuệ Sỹ không nhắc đến mùa xuân và mùa đông trong khổ thơ nầy, có lẽ nhà thơ
chỉ đề cập đến cái tuổi hoạt động của một đời người, tuổi xuân thì còn hoc tập, tuổi đông thì đã
già, chỉ có tuổi mùa hạ và mùa thu của một đời người thì xông xáo trong cuôc sống,
tạo sự nghiệp cho mình. Thế nhưng với Tuệ Sỹ, trong thơ ta thấy “Cho
hết đêm hè trông bóng ma” nghĩa là phải đối phó với ma vương, đến nỗi ngài
không chống cự được mà chỉ ngồi trông nó hoành hành. Qua mùa thu của tuổi đời
thì Tuệ Sỹ viết “Tàn thu khói mộng trắng Ngân Hà” nghĩa là mộng lý tưởng của
ngài bi tan thành mây khói hết. Câu thơ
thứ ba “Trời không ngưng gió chờ sương đọng” nghĩa là bão táp thổi vào đời nầy không ngừng nghĩ, nó còn kéo
lê đến mấy ngàn năm sau làm hoen ố dòng lịch sử: “Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt
nhòa”.
Khổ
thơ thứ tư là nỗi bi quan cho phút cuối, nhà thơ tưởng tượng mộng lữ hành tan biến, nhà thơ từ biệt mộng lữ hành. Lúc
đó rừng thu mưa máu, mưa máu trong ẩn dụ văn học để miêu tả sự kiện kinh hoàng
đang xảy ra hay báo hiệu sắp xảy ra:
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
Cả
khổ thơ cuối là một tiếng thở dài não nuột, nhà thơ tưởng tượng mình tống biệt
cuộc lữ hành mà mình mơ tưởng như đưa một người sang sông trong Tống Biệt hành
của Thâm Tâm: “Đưa người ta không đưa sang sông/Sao có tiếng khóc ở trong lòng”,
“Ly khách! ly khách! con đường nhỏ/ Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao
giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng bằng không”. Nhà thư Thâm Tâm thì tống biệt
người có chí lớn, còn nhà thơ Tụệ Sỹ thì tống biệt chí lớn của mình, cả hai đều
mang nỗi niềm đau đớn như nhau. Tuệ Sỹ khóc cho lý tưởng của mình đã nuôi từ mùa hạ sang mùa thu của cuộc đời
không thành, qua tuổi mùa đông nhà thơ bị quản thúc trong nhà để thấy tài năng
của mình như phấn nhụy trên hoa đã tàn úa: “Ta so phấn nhụy trên màu úa”, hay sự
tàn úa đó rõ nét trên tiếng đàn lạc điệu hay trên sự nóng cháy của dòng máu
xanh đã nguội: “Trên phím dương cầm, trên máu xanh”. Máu xanh là một cách diễn tả mang nhiều ý
nghĩa tùy ngữ cảnh. Ở đây máu xanh có thể là dòng máu cao quý, dòng máu đầy
tình yêu và cao thượng.
Tóm
lại “Tống Biệt Hành” của Tuệ Sỹ là bài thơ bi quan trước nghịch cảnh, Tuệ Sỹ tập
trung khai thác thế giới tiềm thức, bằng cách sử dụng các hình ảnh kỳ lạ, bát
ngờ để biểu đạt những cảm xúc và nội tâm sâu sắc bằng những liên tưởng tự do
không bị gò bó của mình. Đọc bài thơ thấy khó hiểu nhưng nếu suy nghiệm để hiểu
ra thì ta vô cùng thán phục sức tưởng tưởng và ý niệm cao thâm của một bậc hiền
triết Việt Nam bằng tất cả lòng kính trọng của mình./.
Châu Thạch

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét