Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

NHÂN NGÀY ĐẠI TƯỜNG NHÀ THƠ TUỆ SỸ (24/11/2925) ĐỌC ‘TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ TUỆ SỸ / Châu Thạch

 


                          

 TỐNG BIỆT HÀNH

 

Một bước đường thôi nhưng núi cao

Trời ơi mây trắng đọng phương nào

Đò ngang neo bến đầy sương sớm

Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?

 

Một bước đường xa, xa biển khơi

Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời

Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ

Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi

 

Cho hết đêm hè trông bóng ma

Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà

Trời không ngưng gió chờ sương đọng

Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa

 

Cho hết mùa thu biệt lữ hành

Rừng thu mưa máu dạt lều tranh

Ta so phấn nhụy trên màu úa

Trên phím dương cầm, hay máu xanh

                               

                                   Nh.Tr. 77

 

LỜI BÌNH CỦA CHÂU THẠCH

 


       “Hành” là một thể loại thơ không phổ thông lắm, nhưng nó từng giữ một vị trí đáng kể trong lịch sử thi ca Việt Nam. Một bài thơ ở thể “Hành” thường đề cập đến những sự việc với tâm trạng bức xúc. Nếu so sánh “Hành” với những thể thơ khác ở giai đoạn thơ mới (Thập niên 1930 đến nay) thì thể “Hành” không được sáng tác nhiều. Tuy thế dầu ít, “Hành” cũng có được ngôi vị trân trọng trong nền văn học giai đoạn nầy. Cụ thể là “Tống Biệt hành” của Thâm Tâm, “Hành Phương Nam” của Nguyễn Bính và một số bài thơ thể “Hành” ít nổi tiếng hơn.

       Tống biệt hành của Tuệ Sỹ là một bài thơ nằm trong tập thơ Giấc mơ Trường Sơn của ngài Tuệ Sỹ. Một số nhà phê bình văn học đã viết về Tống Biệt Hành của Tuệ Sỹ như sau:

       “Tống biệt hành của Tuệ Sỹ, tác giả đồng thời là một vị hành giả cô đơn, cô đơn ngay trên chính đất nước của mình, cô đơn ngay trên chính quê hương của mình, mặc dù, nơi đây, ông đã nguyện dành hết cuộc đời mình yêu thương và hy sinh tận tụy”.

       “Tống biệt hành của Tuệ Sỹ là một nỗi buồn lớn lao từ bước đường dằng dặc trải dài phía trước, nơi không biết, ngày mai, sẽ dẫn ông về đâu; là nỗi buồn từ mây trời, chẳng biết đến từ phương nào, mà bây giờ, đã quá chừng chừng tụ nơi bến đỗ; từ con nước dửng dưng buông trôi về chân trời vô định, dửng dưng như lòng người trong một sớm đổi thay, thay hết cả ân tình xưa bằng dòng lạnh lùng, xa vắng”.

       “Tống biệt hành của Tuệ Sỹ, là một bài thơ, với hơi thơ trầm mặc, với giọng thơ buồn đau mà vẫn lưu được vẻ hiền hòa, từ bi của một vị hành giả, lấy đất trời làm nơi tạm dung, lấy đức tin làm chốn nương vào để đi trọn vẹn con đường mà vị khách lữ hành đã chọn lựa”.

       Với Châu Thạch tôi, Tống Biệt Hành của Tuệ Sỹ là một tiếng kêu của sự ấm ức chất chứa trong lòng, là một tiếng than cho nỗi đau triền miên của một con người có chí lớn nhưng bị đời ngăn trở, chèn ép, vây bọc muôn khó khăn như sông lớn, như núi cao khiến người ấy phải giam mình trong chốn chật hẹp mà nhìn thấy mây bay.

       Ta hãy lần lượt đi vào 4 khổ của bài Tống Biệt hành để nghiên cứu sâu hơn nữa nỗi lòng tác giả và sự hay kỳ vỹ của thi ý thi tứ mà nhà thơ hàng đầu của đất Việt gởi vào đó. Ta hãy đọc khổ thơ đầu tiên của Tống Biệt hành:

Một bước đường thôi nhưng núi cao

Trời ơi mây trắng đọng phương nào

Đò ngang neo bến đầy sương sớm

Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?

       Ở câu thơ đầu tiên tác giả đã than van vì sự ngăn trở của núi cao, chỉ một bước đường thôi là đến nơi tác giả mong muốn đến, nhưng đã bị núi cao chận lối. Vậy nơi nhà thơ muốn đến là đâu?. Câu thơ thứ hai nói rõ nơi muốn đến: “Trời ơi mây trắng đọng phương nào”. Vậy nơi nhà thơ muốn đến là nơi có mây trắng, mây đó “đọng phương nào” thì nhà thơ chưa biết được, thế nhưng đối với Tuệ Sỹ, con người có chí lớn thì đến với mây trắng không khó, chỉ là “một bước đường thôi” nếu không bị ngăn trở bởi “núi cao”.

       Trong Phật gíao, mây trắng tượng trưng sự thanh tịnh, vô nhiểm và trí tuệ, là một trong những màu sắc của mây ngũ sắc mang ý nghĩa phước lành. Ngoài ra, mây trắng còn đại diện cho sự tự do, nhẹ nhàng, tỉnh tại và thong dong, nhắc nhở về khả năng buông bỏ để tìm thấy bình an. Tóm lại, có thể hiểu mây trắng tượng trưng cho cõi giải thoát. Bởi vậy thiền sư Thích Nhất Hạnh viết tựa đề cho quyến sách của ông là “Đường Xưa Mây trắng” với ý nghĩa là con đường xưa của Đức Phật với những dấu chân và sự kiện xảy ra trên chặng đường ấy, để ngài tìm đến chân lý là chố Mây Trắng, biểu thị chốn giải thoát. Vậy ta có thể hiểu hai câu thơ “một bước đường thôi nhưng núi cao/Trời ơi mây trắng đọng phương nào” là ngài than thở cho trở ngại chận con đường tu tập của ngài quá lớn, lớn như núi cao, không cho ngài có thể vượt qua để đạt đạo.

       Hai câu thở tiếp theo “Đò ngang nếu bến đầy sương sớm/Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?” có ý nghĩa là con đò ngang để đưa người qua bến mê đến miền mây trắng cũng như cạn hết ân tình vì nước cũng đã lạnh băng, thuyền không rời bến được. Hai câu thơ bày tỏ sự bất lực, thiên nhiên và phương tiện đều không thuận tiện cho sự lên đường.  Cả khổ thơ trên, tuy nhà thơ chỉ nói đến trở ngại do núi sông nhưng thật ra, nhà thơ dùng núi sông làm ẩn dụ để đề cập đến sự ngăn trở của cuộc đời đem đến cho bước đường tu tập của ngài trùng trùng như núi, mênh mông như biển như sông kia.

       Khổ thơ thứ hai nhà thơ nói rõ, chi một bước đường thôi nhưng gặp sự ngăn trở làm cho bước đường trở thành xa, xa như xa biển khơi:

Một bước đường xa, xa biển khơi

Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời

Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ

Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi

       “Một bước đường xa, xa biển khơi” nghĩa là chỉ một bước đường nhưng bước đó xa lắm, xa và rộng như biển khơi. “Mây trùng sương mỏng nhuộm tơ trời” nghĩa là trên bước đường đó có mây trùng trùng điệp điệp, có sương mù vây phủ bốn phương nhuộm hết tơ trời. “Thuyền chưa ra bến bình mình đỏ” có nghĩa là thuyền chưa có cơ hội rời bến một lần nào trong thời tiết bình minh tươi đẹp. “Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi” có nghĩa là sự chia tay, tiển biệt đi kèm với cảm xúc đã xảy ra mấy ngàn năm trước. Đây là câu thơ khó, có thể hiểu qua ngàn kiếp, nhà thơ đã lên đường nhiều lần từ ngàn năm trước, ở kiếp nầy, tác giả cũng lên đường nhưng gặp vạn khó khăn.

       Trong khổ thơ nầy ta thấy nhà thơ Tuệ Sỹ bi quan, ngài bất lực trước những trắc trở gây ra trước biến động thiên nhiên, mà những trở ngai ấy không chỉ bây giờ mà đã gây ra hàng ngàn năm trước, trong hàng ngàn lần tống biệt ở ngàn kiếp trước đến nay. Cả khổ 1 và khổ 2 của bài thơ là nỗi trăn trở chứa trong thơ, uất nghẹn trong lời bày tỏ, là sự bi quan trước nghich cảnh, nghịch cảnh ấy trong thơ là do thiên nhiên gây ra, nhưng rõ ràng với phương tiện bây giờ thì thiên nhiên không gây khó khăn cho sự đi lại. Vậy nhà thơ muốn ám chỉ đến nghịch cảnh do con người đem đến trên bước đường  tu tập tâm linh của mình.

       Vào khổ thơ thứ ba, nhà thơ bày tỏ sự tù túng trong bốn vách tường để nhìn bóng ma đi ngoài xã hội, để thấy chí lớn của mình chỉ thành mộng tan như mấy khói  trắng sông Ngân Hà, để thấy sương gió phù du, và lo lắng đến ngàn năm sau trời đất sẽ thành ô uế hơn:

Cho hết đêm hè trông bóng ma

Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà

Trời không ngưng gió chờ sương đọng

Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa

       Nhà thơ Tuệ Sỹ không nhắc đến mùa xuân và mùa đông trong khổ thơ nầy, có lẽ nhà thơ chỉ đề cập đến cái tuổi hoạt động của một đời người,  tuổi xuân thì còn hoc tập, tuổi đông thì đã già, chỉ có tuổi mùa hạ và mùa thu của một đời người thì xông xáo trong cuôc sống, tạo sự nghiệp cho  mình.  Thế nhưng với Tuệ Sỹ, trong thơ ta thấy “Cho hết đêm hè trông bóng ma” nghĩa là phải đối phó với ma vương, đến nỗi ngài không chống cự được mà chỉ ngồi trông nó hoành hành. Qua mùa thu của tuổi đời thì Tuệ Sỹ viết “Tàn thu khói mộng trắng Ngân Hà” nghĩa là mộng lý tưởng của ngài bi tan thành mây khói hết.  Câu thơ thứ ba “Trời không ngưng gió chờ sương đọng” nghĩa là bão táp  thổi vào đời nầy không ngừng nghĩ, nó còn kéo lê đến mấy ngàn năm sau làm hoen ố dòng lịch sử: “Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa”.

       Khổ thơ thứ tư là nỗi bi quan cho phút cuối, nhà thơ tưởng tượng mộng lữ hành  tan biến, nhà thơ từ biệt mộng lữ hành. Lúc đó rừng thu mưa máu, mưa máu trong ẩn dụ văn học để miêu tả sự kiện kinh hoàng đang xảy ra hay báo hiệu sắp xảy ra:

Cho hết mùa thu biệt lữ hành

Rừng thu mưa máu dạt lều tranh

Ta so phấn nhụy trên màu úa

Trên phím dương cầm, hay máu xanh

       Cả khổ thơ cuối là một tiếng thở dài não nuột, nhà thơ tưởng tượng mình tống biệt cuộc lữ hành mà mình mơ tưởng như đưa một người sang sông trong Tống Biệt hành của Thâm Tâm: “Đưa người ta không đưa sang sông/Sao có tiếng khóc ở trong lòng”, “Ly khách! ly khách! con đường nhỏ/ Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng bằng không”. Nhà thư Thâm Tâm thì tống biệt người có chí lớn, còn nhà thơ Tụệ Sỹ thì tống biệt chí lớn của mình, cả hai đều mang nỗi niềm đau đớn như nhau. Tuệ Sỹ khóc cho lý tưởng của mình  đã nuôi từ mùa hạ sang mùa thu của cuộc đời không thành, qua tuổi mùa đông nhà thơ bị quản thúc trong nhà để thấy tài năng của mình như phấn nhụy trên hoa đã tàn úa: “Ta so phấn nhụy trên màu úa”, hay sự tàn úa đó rõ nét trên tiếng đàn lạc điệu hay trên sự nóng cháy của dòng máu xanh đã nguội: “Trên phím dương cầm, trên máu xanh”.  Máu xanh là một cách diễn tả mang nhiều ý nghĩa tùy ngữ cảnh. Ở đây máu xanh có thể là dòng máu cao quý, dòng máu đầy tình yêu và cao thượng.

       Tóm lại “Tống Biệt Hành” của Tuệ Sỹ là bài thơ bi quan trước nghịch cảnh, Tuệ Sỹ tập trung khai thác thế giới tiềm thức, bằng cách sử dụng các hình ảnh kỳ lạ, bát ngờ để biểu đạt những cảm xúc và nội tâm sâu sắc bằng những liên tưởng tự do không bị gò bó của mình. Đọc bài thơ thấy khó hiểu nhưng nếu suy nghiệm để hiểu ra thì ta vô cùng thán phục sức tưởng tưởng và ý niệm cao thâm của một bậc hiền triết Việt Nam bằng tất cả lòng kính trọng của mình./.

                                                                                                      Châu Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét