Thứ Hai, 12 tháng 10, 2020

NHỮNG BÀI THƠ CUỐI ĐỜI CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG: “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA” / Hoàng Hương Trang

 


        Di cảo của Vũ Hoàng Chương (1975 – 1976), do Vũ Hoàng Chương trao cho Hoàng Hương Trang giữ trước khi qua đời, đây là công bố đầu tiên di cảo này, gồm 14 bài, trong đó có 1 bài thơ Tết vịnh Tranh Gà Lợn, 12 bài cùng 1 nhan đề “Đọc lại người xưa”, còn 1 bài ông làm trong tù gồm 12 câu, phải làm 6 lần, mỗi lần bà Đinh Thục Oanh vợ ông vào thăm nuôi, ông chỉ viết 2 câu trên mảnh giấy gói đồ, 6 lần vào thăm nuôi ghép lại mới hoàn chỉnh bài thơ, tuy nhiên bài ấy do bà Đinh Thục Oanh giữ và nay đã thất lạc, Hoàng Hương Trang chỉ nhớ vỏn vẹn 1 câu: “Tối về Khánh Hội sáng vô Chí Hòa” để chỉ những cuộc thăm nuôi của bà Đinh Thục Oanh vào thăm ở Chí Hòa, lặn lội cuốc bộ về tới Khánh Hội ở đậu nhà bà Đinh Hùng thì trời đã chiều tối. Nhưng bài thơ này cũng là ngoài 12 bài liền mạch “Đọc lại người xưa”.

        Hoàng Hương Trang nay cũng ở gần cái tuổi 80 rồi, sợ không giữ được, nên xin công bố, in vào tuyển tập sau này để lưu giữ được lâu dài, làm tài liệu cho văn học sau này.

 

 


        ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA

 

1.

 

“Minh nhật dục từ nam phố đạo

Hà nhân cách xướng bắc cung thanh”

                             Cao Bá Quát

 

        Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von

Nhịp ba cung bắc ai còn hát đây

        Cánh chim lượn gió đong đầy

Khói hoàng đô thoắt liền mây Đế Thành

        Rồng Lê phượng Nguyễn tung hoành

Chẳng e lưu xú chẳng đành lưu phương

        Ba hồi trống giục pháp trường

Máu tuôn phách dựng phố phường còn mưa

        Cơn buồn lọt gió mành thưa

Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba

        Nào ai đáng mặt danh ca

Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.

 

 

 

2.

 

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

                     Phạm Ngũ Lão

 

        Đại công ngoài mãi tầm tay

Thẹn nghe lời nhắc rồng mây Vũ hầu

        Non sông riêng họ Trần đâu

Mà trăm trận đánh công đầu về ai

        Để ta thương một chàng trai

Giáo cầm ngang tiếng thở dài mấy thu

        Kìa trên dòng sử hoang vu

Tầm tay ai vượt sương mù trỏ lên

        Thẳng băng ngọn giáo mũi thuyền

Nuốt sao Ngưu lệnh còn xuyên trăng tà

        Chàng trai cười ngất Đông A

Hơi văn nhọn mãi chính là đại công.

 

 

 

3.

 

“Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng”

                                   Thôi Hộ

 

        Ngày này xưa cổng này đây

Hoa đào má đỏ cùng lây ánh hồng

        Đã ngưng một điểm thời không

Mở ra ngoài phía chiếc lồng thiên cơ

        Đón vào sâu tận cõi bờ

Chưa ai vào được hay mơ được vào

        Chợt nghe má đỏ hôm nào

Cười lên từ cổng hoa đào nhặt thưa

        Cổng ơi mở cũng bằng thừa

Đừng tin kích thước gởi vừa Đường thi

        Chàng Thôi ngắm hão rồi đi

Một khung chết đứng mong gì ngàn sau

 

 

 

4.

 

“Hữu hoa kham chiết kham tu chiết

Mạc đãi vô hoa không chiết chi”

                       Đỗ Thu Nương

 

        Hoa ngon thì bẻ liền tay

Chậm tay chưa chắc hoa này của anh

        Bẻ hoa đừng bẻ hão cành

Lời ai như lệ tung hoành lưỡng gian

        Mà trong tàn cuộc không tàn

Hơi ca một thuở tiếng đàn một phương

        Hỡi ơi nàng Đỗ Thu Nương

Đàn ca độc bộ giáo phường đó ư

        Lỡ nhau lầm mãi tương tư

Giòng năm tháng khác mảnh dư đồ nào

        Sắc hương ngoài cả chiêm bao

Chỉ thu được ngấn hoa vào trong tay

 

 

 

5.

 

 “Hốt phát cuồng ngôn kinh tứ tọa

Lưỡng hàng hồng phấn nhất thì bôi”

                                   Đỗ Mục

 

        Lời cuồng giây phút ném ra

Thềm cao tiệc lớn ai mà dám ghi

        Ngàn sau đọc nát Đường thi

Biết đâu Mục nói câu gì ngàn xưa

        Một câu ngàn vạn bất ngờ

Sóng trôi nghiêng cả hai bờ phấn son

        Cân đai ngồi sững núi non

Cuồng phu đệ nhất cuồng ngôn thuở nào

        Ôi câu thần chú ai trao

Mộng Dương Châu lại mở vào mười năm

        Cười vang cao nửa gối nằm

Thơ còn tiếng rượu còn tăm đó hề!

 

 

 

6.

 

“Lan hữu tú hề cúc hữu phương

Hoài giai nhân hề bất năng vong”

                           Hán Vũ đế

 

        Cúc thơm lan nõn bằng không

Chỉ riêng người đẹp người trông người chờ

        Người không quên được bao giờ

Hồn như mây trắng bơ phờ gió thu

        Cúc đành ôm khối tình u

Lan đành chôn chặt mối thù đế vương

        Để rồi như hoa hướng dương

Để rồi như cỏ đoạn trường hay sao

        Không không hãy mở thành dao

Mọc thành gươm trỏ ngay vào hiện thân

        Của trăm ngàn kiếp giai nhân

Rạch cho nát cả chín lần si mê

 

 

 

7.

 

“Đưa tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”

                Hồ Xuân Hương

 

        Đo xem đất có dài chăng

Với tay xem có thật rằng trời cao

        Ôi sầu đây hận đây sao

Văn chương hồ thỉ hôm nào tung hê

        Sầu không nở trắng hoa lê

Hận không chôn chặt bên lề cỏ xanh

        Cán cân rơi mất thôi đành

Túi càn khôn thắt được danh bao giờ

        Còn tên còn tiếng lửng lơ

Còn son để yếm còn thơ để đời

        Sân đu cọc nhổ còn chơi

Ngã ra lại có đất trời ở trong

 

 

 

8.

 

“Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon

Cớ sao ông hỏi hết hay còn”

                         Thị Lộ

 

        Còn gì đây hết gì đây

Chiếu nhà vua gái thơ ngây biết gì

        Chiếu gon ông hỏi làm chi

Dệt nên tôi cũng bán đi là thường

        Hồ Tây còn nước còn gương

Vai tôi còn chiếu tuy giường thì không

        Ông còn đất trải không ông

Mà toan mua chiếu mất công hỏi người

        Sao ông không hỏi ông trời

Hỏi thân ngày trước hỏi đời hôm nay

        Còn đem non nước làm rầy

Cả chiêm bao cả chiếu này nữa ư

 

 

 

9.

 

“Khả liên Vô Định hà biên cốt

Do thị thâm khuê mộng lý nhân.”

                                  Trần Đào

 

        “Chàng về trong mộng đêm đêm

Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ

        Ngày qua nàng vẫn trông chờ

Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành

        Biết đâu chàng đã trở thành

Xương tàn một nắm vô danh bên trời

        Bờ sông bãi cát bồi hồi

Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu

        Chữ đồng tạc lấy cho sâu

Ai hay lẻ một nét sầu đến xương

        Là Nam Bắc, là âm dương

Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.”

 

 

 

10.

 

“Thập vạn đại quân tề cổ chướng

Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi”

                  Bành Ngọc Lân

 

        Bành lang đoạt Tiểu Cô về

Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay

        Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây

Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ

        Từ bao giờ đến bây giờ

Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành

        Kể chi lúc ấy đời Thanh

Sá chi người ấy là danh tướng nào

        Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao

Nghe Bành lang độ thấm vào lòng chân

 Non xưa bến cũ nhập thần

Đoạt non về bến đâu cần hùng binh

 

 

 

11.

 

“Người xưa cảnh cũ giờ đâu tá

Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu”

                      Bà Huyện Thanh Quan

 

        Nước trong dòng đục thương ai

Chiều sương gió tiễn sô gai bốn bề

        Yếm khăn đi cũng chẳng về

Nghiệp văn chương ấy nặng nề đến đâu

        Lạ gì mưu lũ trọc đầu

Cung vua dìm tiếng thơ sầu Thanh Quan

        Dễ gì khi qua đèo Ngang

Chim kêu lại chẳng gan vàng xót xa

        Mảnh tình riêng ta với ta

Phải đâu tâm sự một bà huyện thôi

        Nước còn cau mặt không trôi

Hồn thu thảo lắng chuông hồi cổ him

 

 

 

12.

 

“Văn tự hà tằng vi ngã dụng

Cơ hàn bất giác thụ nhân liên”

                             Nguyễn Du

 

        Chẳng dùng chi được nhân tài

Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ

        Phút giây chết điếng hồn thơ

Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau

        Chắc gì ba trăm năm sau

Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây

        Nếu không cơm áo đọa đầy

Như thân nào thịt xương này bỗng dưng

        Chết theo vào đến lưng chừng

Say từng mảnh rớt, mê từng khúc rơi

        Nửa chiều say ngất mê tơi

Khúc đâu lơ láo mảnh đời Thi vương.

 

 

 

13.

 

 VỊNH TRANH GÀ LỢN

 

Sáng chưa sáng hẳn tối không đành

Gà lợn om sòm rối bức tranh

Rằng vách có tai, thơ có họa

Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh

Mắt gà huynh đệ bao lần quáng

Lòng lợn âm dương một tấc thành

Cục tác chi nữa ngừng ủn ỉn

Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh

 

                             Vũ Hoàng Chương

 


 

 

        Tết Bính Thìn 1976, đây là bài thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương. Bài này đã được đọc truyền khẩu qua nhiều người nên có nhiều sai lạc. Bài trên đây do chính ông bà Vũ Hoàng Chương đọc cho Hoàng Hương Trang chép trước mặt ông bà. Ba chữ “thơ có họa” theo ông Vũ gồm có 3 nghĩa: Thơ có xướng họa, trong thơ có tranh vẽ (thi trung hữu họa) và cái nghĩa nặng nhất là làm thơ cũng mang họa vào thân. Sau cái Tết này, ông bị bắt ngày 17 tháng 3 năm 1976, giam ở Chí Hòa. Chính quyền không gọi là tù, chỉ gọi là tập trung cải tạo tư tưởng (!). Ông trở bệnh nặng, cho về mấy hôm thì mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tức ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn. Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916 ở Nam Định, có bằng tú tài tây, đã theo học trường Luật và có học ban cử nhân toán học, vào Nam năm 1954 dạy văn ở trường Chu Văn An và Văn Lang, chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam và viết báo.

 

                                              Hoàng Hương Trang

 

Nguồn: Blog Bâng Khuâng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét