Thứ Ba, 6 tháng 6, 2023

GÓP Ý VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI “THẾ NÀO THÌ GỌI LÀ THƠ?” / Phạm Đức Nhì

 

 


        

Ông Nguyễn Khoa Điềm viết trên blog Quê Choa:

 

Lập thân mến,

Mình có xem bức chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Hà Vũ mới vẽ tặng Đại tướng nhân dịp ông tròn 100 tuổi. Bức tranh đẹp, rất xúc động. Mình có làm bài thơ gửi trang mạng “Quê... Đại tướng” của Lập.

Chúc an vui. NKĐ

 

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ

 

 (Có bức chân dung nhưng máy tôi không tải được)

 

Những giọt nước mắt

Thật buồn

Thật lặng lẽ

Trước bức chân dung

Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

Của một người tù.

 

Trận chiến Lịch Sử

Đã phá tung mọi xiềng xích?

Người họa sĩ trẻ

Từ sau song sắt

Vẫn bình tâm

Dành lòng biết ơn

Không dứt

Cho một người lính già.

19.9.2011

Nguyễn Khoa Điềm

 

Đỗ Trung Quân bình:

 

Bức chân dung của đại tướng Võ Nguyễn Giáp được vẽ bởi một tay thực sự chuyên nghiệp. Anh Cù Huy Hà Vũ. Anh rất có tài!

 

Bài thơ của ông Nguyễn Khoa Điềm, rất tiếc phải nói thật lòng, xin ông đừng giận. Đấy chỉ là những dòng “cảm tưởng có vần”, thường thấy ghi trong những sổ cảm nghĩ đám ma hay đám cưới.

 

Thưa ông!

Nó không phải là thơ ạ!

  

Thế rồi lại đọc bài tiểu luận Thế Nào Thì Gọi Là Thơ? của Phan Quỳnh Trâm với Lời Nói Đầu như sau:

 

[Đọc bài “Thưa, chỉ là cảm nghĩ có vần...” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, tôi không có ý kiến gì về bức tranh của Cù Huy Hà Vũ, về bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm và về nhận xét của nhà thơ Đỗ Trung Quân đối với bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Tuy nhiên, tôi chỉ băn khoăn về câu khẳng định “bài thơ ấy không phải là thơ”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói như vậy trong những hoàn cảnh và với những mục đích khác nhau.]

 

Chị giải thích một lúc rồi trích dẫn đoạn thơ:

 

Những nhà thơ trẻ:

Hãy viết bất cứ cách nào bạn thích

Quá nhiều máu đã chảy dưới cầu

để còn tiếp tục tin

rằng chỉ có một con đường là đúng.

Trong thơ mọi sự đều được phép.

(Nicannor Parra, Hoàng Ngọc-Tuấn dịch)

 

có ý muốn nói trên trang thơ của mình thi sĩ được hoàn toàn tự do phóng bút. Câu hỏi "Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?" vẫn là một nỗi băn khoăn, chưa có câu trả lời.

Cuối cùng chị chỉ khẳng định lại nỗi băn khoăn của mình.

 

Tuy nhiên, có thể nói tóm lại, Phân biệt thế nào là thơ, thế nào không phải là thơ là một điều cực kỳ phức tạp. Quan niệm về thơ thay đổi theo từng trường phái và thời đại. Ngay trong một trường phái và một thời đại thì chúng cũng có sự khác biệt lớn giữa người này và người kia. Không một ai dám đưa ra một danh sách những tiêu chí rõ ràng về thơ như một khuôn mẫu để chỉ cần đưa vào cái “khuôn” ấy một bài thơ vào là có thể khẳng định nó... lọt khuôn hay trật khuôn.

 

Và tôi cũng nhân tiện đọc trao đổi của các anh chị Nguyễn Vũ Đam San, Cao Thanh Phương Nghi, Black Raccoon, Huy Tuấn, Nghuyễn Tôn Hiệt, Nguyễn Đăng Thường, Trương Đức, Bùi Thị Lài liên quan đến đề tài này. Mặc dù cuộc đối thoại đã xảy ra khá lâu (gần 6 năm) nhưng câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” vẫn chưa mất tính thời sự nên hôm nay – dù trễ - cũng xin mạo muội góp chút ý kiến.

  

Đã từng đọc khá nhiều thơ và cũng võ vẽ làm được mấy bài, tôi có lần tự hỏi:

 

Đâu là sự khác biệt giữa văn và thơ?

 

Tôi thấy nhiều người làm thơ, đọc thơ, mê thơ đã thử làm công việc định nghĩa thơ, nhưng hình như chưa ai đưa ra được định nghĩa nào có thể nhận diện dung mạo của thơ một cách thật chính xác, thật đầy đủ.

  

Tuy nhiên, có một nhà phê bình văn học, theo tôi, đã bắt được cái “thần sắc” của thơ, đã nắm được cái cốt lõi của thơ với định nghĩa như sau:

 

Thơ là cảm xúc (bằng kỹ thuật thơ) đi tìm một đồng cảm.

 

(nhóm chữ “bằng kỹ thuật thơ” tôi xin phép tác giả được thêm vào để khỏi lầm lẫn với các bộ môn nghệ thuật khác).

 

Người đó là Nguyễn Hưng Quốc.

 

Vâng! Yếu tố để phân biệt văn với thơ chính là cảm xúc.

 

Mục đích chính của văn là chuyển tải thông tin. Kiến thức của người viết càng rộng, lượng thông tin càng lớn, lập luận càng khúc chiết, càng có tính thuyết phục thì bài văn càng có giá trị. Đâu đó cũng có những đoạn văn tình cảm, ướt át, nhưng cái chất ướt át đó chỉ đến tình cờ, chỉ là sản phẩm phụ. 

 

Với thơ, cảm xúc là chính, là máu thịt. Thông điệp cũng có đấy, nhưng chỉ như con kênh, con mương để dòng cảm xúc lưu chuyển. Thành công của bài thơ được đánh giá ở khối lượng, cường độ của dòng cảm xúc chảy trên con kênh ấy. Trong văn có chút cảm xúc thì cũng tốt; nhưng nếu không có cũng không sao. Ngược lại, trong thơ mà không có cảm xúc thì dù có vần điệu đầy đủ cũng vẫn không thể được gọi là thơ.

 

Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:


1/ Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ bề mặt của ý thức; tâm của tác giả chưa có cơ hội đối diện với, hoặc bước vào, khung cảnh của bài thơ.

 

hoặc là:

 

2/ Cái tôi riêng tư” của tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có câu Sinh Tình.

 

Sau đây là một số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay tuyển chọn, sắp xếp lại để phù hợp với bài viết này.

 

Là Sản Phẩm Của Lý Trí


1/

HÌNH VUÔNG

 

Muốn tìm chu vi hình vuông

Lấy cạnh nhân bốn lệ thường nhớ ghi

Diện tích hình vuông khó gì

Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào

 

Môt ông thầy dạy toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.

 

2/

ANH YÊU KHOẢNH ĐẤT HÌNH VUÔNG

 

Ôi! Khoảnh đất hình vuông

ở giữa là căn nhà nhỏ bé

vách đất, mái rạ

nơi anh đã gởi cả trái tim

vì trong căn nhà đó có em.

(PĐN chế để minh họa.)

  

Ở đây tác giả đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.

 

3/

CÔNG CHA NGHĨA MẸ

 

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

(Ca dao)

 

Một nhà nho đã đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.

 

4/

 

Thôi xa rồi mẹ ới

lệ nhòa mi mắt

mong con phương trời

có lần chợt tỉnh đêm vơi

nghe giòn tiếng súng nhớ lời phân ly

mẹ ơi con mẹ tìm đi

bao giờ hết giặc con về mẹ vui.

(Nhà Tôi, Yên Thao)

 

Tác giả đã bước vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.

 

5/

 

THÁNG GIÊNG ĂN TẾT Ở NHÀ


Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,

Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.

(Văn Hóa Việt, e-cadao.com)

 

Một nhà nghiên cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù trong sinh hoạt văn hoá của người Việt Nam từng tháng một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả chỉ “đứng ngoài” chứ không cho tâm trạng, cảm xúc của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta cũng chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ


6/

Quan đòi thầy kiện

Bình bát nấu canh

Ăn hơi tanh tanh

Là rau dấp cá

Có mẹ không cha

Rau má mọc bờ

Thò tay sợ dơ

Đó là rau nhớt

Rau cay như ớt

Vốn thiệt rau răm

Sống suốt ngàn năm

Là rau vạn thọ

(Vè Nam Bộ)

 

Rõ ràng đây là một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt nhiên không có cảm xúc.

 

Như ta đã biết, lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của mình – giải thích cho Phật Tử dễ hiểu bằng những đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa thâm sâu cũng không phải là thơ.

 

7/

KINH PHÁP CÚ


Không làm các việc ác

Tu tập các hạnh lành

Giữ tâm ý thanh tịnh

Là lời chư Phật dạy

 

8/

THỊ ĐỆ TỬ


Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

(Sư Vạn Hạnh, thivien.net)

 

DẶN HỌC TRÒ


Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

(Ngô Tất Tố dịch)

 

Thiền sư Vạn Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để lý giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ là Kệ chứ chưa phải là Thơ.

 

9/

HÃY TIN CHÚA

 

Hãy tin nơi Thiên Chúa

Hồn xác dâng cho ngài

Hãy sống theo lời Chúa

Chết, sẽ về nước Trời

 

Đây chỉ là lời kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm xúc nên không thể gọi là thơ.

 

10/

HÃY MUA THUỐC SỐ 42

 

Ai khóc ngoài quan ải?

Ai chưa đánh đã chạy dài?

Thuốc này bôi một tý thôi

Là trèo lên ngựa vung roi cả ngày

Thuốc này, ôi thật là hay!

Thuốc này tên gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)

Đây có vóc dáng là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu” ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm tình, hàm chứa cảm xúc.

 

Có Cảnh Nhưng Chưa Có Tình

 

1/

“THƠ CON CÓC”

 

Con cóc trong hang

Con cóc nhảy ra

Con cóc nhảy ra

Con cóc ngồi đó

Con cóc ngồi đó

Con cóc nhảy đi

 

Ba chàng Ngốc tâm đã đối cảnh nhưng chưa có câu thơ sinh tình nên “THƠ CON CÓC” chưa phải là thơ. Bạn đọc có thể đọc nguyên bài viết “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? qua link dưới đây.

(http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/03/tho-con-coc-co-phai-la-tho.html)

 

2/

Đồi trọc

Thoảng trong gió

Tiếng cóc

 

Cũng như “Thơ Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình, thứ Tình trong “thất tình lục dục” của con người (hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường gặp).

  

Tuy nhiên, đây là bài thơ Haiku, trường hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi kéo, nhìn cảnh vật như thị, như thực, không có tư ý, tư dục xen vào. Đây chính là loại Thơ Thiền.

 

Một Số “Bài Thơ” Bị Tước Mất Danh Hiệu Thơ.

 

Ngày tôi còn mài đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại hình nghệ thuật dùng chữ, có vần điệu để biểu lộ một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought). Khi tôi vào đại học, Kim Lũ Y là bài thơ Đường được giảng dạy ở Văn Khoa. Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái phần đuôi của định nghĩa thơ: hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều sách và trang web thơ ca, đã lặng lẽ biến mất.

 

1/

 

KIM LŨ Y

 

Khuyến quân mạc tích Kim Lũ Y

Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì

Hoa khai kham chiết trực tu chiết

Mạc đãi vô hoa không chiết chi.

Đỗ Thu Nương

ÁO KIM TUYẾN

 

Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng

Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung

Hoa nở bẻ được thì nên bẻ

Đừng chờ hoa hết, bẻ cành không.

 

2/

 

LA CỐNG KHÚC

Kỳ Tam

 

Mạc tác thương nhân phụ

Kim thoa đương bốc tiền

Triêu triêu giang khẩu vọng

Thác nhận kỷ nhân thuyền.

Lưu Thái Xuân

 

BÀI CA LA CỐNG

(bài 3)

 

Chớ làm vợ những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.

 

Hai tác giả sành đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai “bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ phải nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc.

 

Trước đây, vì quan niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã có những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó, chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.

 

Khác Biệt Giữa Kệ, Thơ Thiền Và Thơ Thế Tục

 

1/ Kệ: Là một cách giải thích Kinh bằng văn vần, không cảm xúc.

 

2/ Thơ thiền: Có cảm xúc nhưng cảm xúc đó chỉ là “niềm vui”, sự sảng khoái khi thấy mình đã thoát vòng tục lụy, tâm không vướng mắc điều gì, không có tư ý, tư dục, nhìn sự vật như thị, như thực. Nói có vẻ “đạo” một tý là lúc ấy, trong khung cảnh của bài thơ ấy, cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ.

 

3/Thơ thế tục: Cảm xúc là thứ Tình phát xuất từ Thất Tình, Lục Dục của người đời.

 

Sau đây là một số bài Kệ, Thơ Thiền và Thơ Thế Tục đặt cạnh nhau để bạn đọc dễ phân biệt.

 

Trăng Non, Sơ Tam Sơ Tứ Và Chơi Trăng Lên

 

TRĂNG NON

 

Vũ trụ bao la rất nhiệm mầu

Chân không diệu hữu thật thâm sâu

Trùng trùng duyên khởi không gì mất

Trăng khuyết lại tròn – đời biển dâu

(Minh Lương Trương Minh Sung)

 

Bài Trăng Non viết về trùng trùng duyên khởi của vạn vật, mất rồi lại có, như trăng khuyết lại tròn, biển biến thành nương dâu. Cả 4 câu, 28 chữ đều phát xuất từ bề mặt ý thức. Chính vì chỉ có “lý” mà thiếu “sự”, nên không thể gọi là thơ.

 

Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong việc biểu lộ kiến thức của mình về đạo pháp, đem cái hạt giống đạo pháp đó truyền đạt cho mọi người. Đây có thể gọi là một bài kệ, một chiếc cầu để đưa người đời đến với những lời dạy cao siêu, thâm thúy của đức Phật (kinh).

 

SƠ TAM SƠ TỨ

 

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không

(hoasontrang.us)

 

MỒNG BA MỒNG BỐN

 

Mồng ba mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không

(Trần Trọng San dịch)

 

Ở đây sư ông và chú tiểu chùa Hàn San đã thực sự đứng trước và thưởng thức vẻ đẹp của cảnh trăng non. Tâm đã đối cảnh. Cảm xúc dâng đầy. Sư ông lặng ngắm vẻ đẹp của trăng trên bầu trời. Chú tiểu đứng ở vị trí khác, có góc nhìn khác, thấy được phần chìm đáy nước của mặt trăng. Cả 4 câu gộp lại thành một bài thơ thật đẹp, không có tư ý, tư dục.

 

Cùng một cảnh (trăng non) nhưng bài Trăng Non chỉ là kệ, còn Sơ Tam Sơ Tứ là thơ. Khác nhau ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc (nhưng không có tư ý, tư dục).

 

CHƠI LÊN TRĂNG

……………………….

Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát
Để nhờ không khí đẩy lên trăng
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi
Để hớp tinh anh của nguyệt cầu
Và để thoát ly ngoài thế giới
Để cười, để trững, để yêu nhau.

…………………….

(Hàn Mặc Tử)

 

Còn Chơi Lên Trăng của Hàn Mặc Tử thì tràn cảm xúc và tư ý, tư dục nên là Thơ Thế Tục.

 

Phong Lai Sơ Trúc, Thơ Trên Cát Và Phơi Nắng Trên Bãi Biển

 

PHONG LAI SƠ TRÚC

 

Phong lai sơ trúc

phong khứ nhi trúc bất lưu thanh

nhạn quá hàn đàm

nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh

thị cố quân tử

sự lai (#) nhi tâm thỉ hiện

sự khứ nhi tâm tùy không

(daitangkinhvietnam.org)

(#) Có bản dùng chữ đáo

 

GIÓ ĐẾN BỤI TRÚC

 

Gió đến bụi trúc

Gió qua rồi mà trúc không lưu lại âm thanh

Nhạn bay qua đầm nước lạnh

Nhạn qua rồi mà mặt nước đầm không lưu lại hình ảnh

Cho nên người quân tử

Việc đến thì tâm khởi

Việc qua thì tâm hoàn không

(Tự dịch)

 

Một Nho gia đã viết Phong Lai Sơ Trúc để chỉ cho đám hậu bối phương cách “chính kỳ tâm”, một trong chuỗi mắt xích “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà nho sinh phải từng bước tu tập để thành người quân tử. Bốn câu đầu tượng thanh, tượng hình, đẹp như một bài thơ nên nhiều người lầm tưởng đó là thơ. Thật ra 4 câu đó đã được tác giả “nghĩ ra từ trước”, nay moi trong “kho kiến thức” ra sử dụng để viết bài “huấn thị” cho đám học trò. 

 

Rất tình cờ, ở đây Nho học đã gặp Phật học. Nhiều Phật tử trên đường học đạo đã cho đó là một bài thơ và thường chiêm nghiệm để tu tâm. Đúng ra Phong Lai Sơ Trúc có thể gọi là kệ (hay một cái tên gì khác) chứ nó không phải là một bài thơ. Tác giả không đối cảnh rồi cảm ứng sáng tác ra nó; đây chỉ là công việc riêng lẻ của lý trí; những thành phần khác của tâm như bản năng (ái dục), tình cảm đều không có cơ hội, không được quyền tham dự vào.

 

Bây giờ chúng ta cùng đọc Thơ Trên Cát của thiền sư Viên Minh

 

THƠ TRÊN CÁT

 

Viết bài thơ trên cát

Cơn sóng vỗ xóa đi

Vô tình đâu biết được

Mình viết bài thơ gì.

(Viên Minh, từ tác giả)

 

Cũng cái ý đấy, nhưng ở đây thiền sư của chúng ta đã thực sự đối diện với cảnh đời, cảnh bao la sóng nước của biển cả, để có hứng, có cảm xúc viết thành bài thơ. Những thành viên của Tâm từ Tam Tạng (bản tâm), Tề Thiên (lý trí), đến Trư Bát Giới (bản năng, ai duc), Sa Tăng (tình cảm) đều có mặt. Nhưng do được “tu luyện đến nơi đến chốn” nên tất cả đều lặng thinh. 

 

Thơ Trên Cát được viết ra để nói về bài thơ đã mất; mất thật sự, không lưu lại một dấu tích gì trong lòng tác giả; bài thơ mất mà tác giả của nó không một chút bận tâm, luyến tiếc. So sánh với “phong lai sơ trúc” và “nhạn quá hàn đàm” thì hình ảnh cơn sóng vỗ xóa mất bài thơ cũng đẹp và nên thơ không kém. Đối cảnh tâm có cảm xúc nhưng không có tư ý, tư dục chính là trường hợp này. Có thể nói đây là bài Thơ Thiền của một người đạt đạo.

 

Cùng một ý nhưng Thơ Trên Cát của Viên Minh là thơ, còn Phong Lai Sơ Trúc chỉ là một lời khuyên, một thứ “huấn thị”. Khác biệt cũng chỉ ở chỗ tâm đối cảnh và có cảm xúc.

 

PHƠI NẮNG TRÊN BÃI BIỂN

 

Biển vắng nàng nằm phơi nắng

Chỗ không nên phơi, cũng phơi

Tôi vô tình đi qua đấy

Nhìn thấy nóng ran cả người

(PĐN)

 

Lòng ham muốn (dục vọng) đã nổi lên. Chúng ta đã có Thơ. (Thơ Thế Tục)

 

Tại Sao Có Mưa? – Biệt Nhất Phương – Muốn Làm Mây Trắng

 

TẠI SAO CÓ MƯA?

 

Nước từ biển bốc hơi

Thành mây trắng trên trời

Nếu gặp luồng khí lạnh

Thì sẽ có mưa rơi

 

 

Đây có lẽ là một đoạn văn vần do thầy (cô) giáo (môn Khoa Học Tự Nhiên) nào đó đặt ra để học trò dễ nhớ. Chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.

 

BIỆT NHẤT PHƯƠNG

 

Đáo tận yên hà xứ

Hồi đầu biệt nhất phương

Mục tiền sơn thủy hạo

Nguyệt hiện thảo đầu sương

 

RIÊNG MỘT CÕI

 

Đến tận vùng mây khói

Ngoảnh lại riêng một cõi

Trước mắt núi sông hùng vĩ

Trăng hiện trên hạt sương đọng trên đầu nhọn cỏ

(Tự dịch)

 

Tác giả sảng khoái đến độ lạc thần trí trước vẻ đẹp của mây khói, sóng nước nhưng không có một chút tư ý, tư dục. Có thể nói cái tiểu ngã của tác giả đã hòa nhập vào cái đại ngã của đất trời, của vũ trụ. Đây là bài thơ thiền.

 

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG

 

Ta muốn làm mây trắng

Bay về Huế mộng mơ

Chờ đến khi nắng hạn

Đổ xuống một trận mưa

(Không biết xuất xứ)

 

 

Đây là tâm tình của một người Huế rất nặng tình với Huế. Cảm xúc đã dạt dào trên trang giấy. Muốn Làm Mây Trắng đích thị là một bài thơ (Thơ Thế Tục)

 

Viết Thêm Về Thơ Haiku

 

Sau đây là bài Haiku nổi danh của văn học Nhật:

 

Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)

 

Hai chữ cần đặc biệt chú ý trong bài thơ là "xưa cũ". Nhìn con ếch tung mình xuống bờ ao xưa cũ tạo nên tiếng nước xao tác giả thấy hiện lên trong hồn những kỷ niệm về một thời nào đó trong quá khứ. Có cảm xúc của thất tình lục dục nên bài thơ đã có thể mang danh hiệu Thơ (Thơ Thế Tục). 

 

Đây là bài thơ rất kiệm lời, thủ pháp Show, Do Not Tell đã đến mức thượng thừa. Hai từ "xưa cũ" là tác nhân để dẫn đến những hoài niệm về một thuở xa xưa khiến bài Haiku này có danh hiệu Thơ Thế Tục. Nếu không có tác nhân "xưa cũ" làm sống lại những hoài niệm thì bài Haiku vẫn xứng đáng là thơ - nhưng là thơ thiền.

 

Những Câu Thơ Chùm Gởi

 

Chúng ta thử đọc bài thơ sau đây của Mai Quỳnh Nam:

 

TỰ SÁT, TRƯỜNG HỢP HEMINGWAY

 

Tự sát

cơ chế di truyền

căn nguyên từ máu

 

Viên đạn súng săn sư tử

chính ông phát nổ

Chết

ai cũng vậy thôi

bi kịch đời người

cần giải thoát

(Tạp Chí Thơ HNVVN số 11-2011, tr.6)

 

Đoạn đầu:

Tự sát

cơ chế di truyền

căn nguyên từ máu

 

là một phát biểu (statement), có thể là ý của tác giả, cũng có thể là khám phá của nhiều người khác mà tác giả đã tổng hợp được qua quá trình đọc của mình. Nó là sản phẩm của lý trí nên, nếu đứng một mình, không thể gọi nó là thơ.

 

Nhưng đặt nó lên đầu bài coi như một gợi ý, có đóng góp cho bài thơ nên nó được “ăn theo”, trở thành những câu thơ trong bài thơ đó. Bởi vậy tôi gọi nó là những câu thơ ăn theo, hay là những câu thơ chùm gởi.

 

Tương tự như vậy, đoạn đầu trong bài thơ sau đây:

 

LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA

 

Tự do như muối

hạnh phúc như đường

khi đang còn

ăn đủ miếng ngọt, miếng ngon

khó thấy được

giá trị của hạt đường hạt muối

……………………………..

(Lá Cờ Chính Nghĩa, Phạm Đức Nhì, t- van.net)

 

cũng chỉ là một phát biểu của tác giả về hai ý niệm Tự Do và Hạnh Phúc. Đó là sản phẩm của lý trí. Đứng một mình thì không phải là thơ. Nhưng đặt vào khung cảnh bài thơ thì nó lại là những câu mở đầu cần thiết, đưa ra chủ đề để tác giả khai triển ở những đoạn sau. Nó đã “ăn theo” để trở thành những câu thơ chùm gởi.

 

Trở Lại Bài Thơ Của Nguyễn Khoa Điềm

 

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH GIÀ

 

Những giọt nước mắt

Thật buồn

Thật lặng lẽ

Trước bức chân dung

Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

Của một người tù.

 

Trận chiến Lịch Sử

Đã phá tung mọi xiềng xích?

Người họa sĩ trẻ

Từ sau song sắt

Vẫn bình tâm

Dành lòng biết ơn

Không dứt

Cho một người lính già.

19.9.2011

Nguyễn Khoa Điềm

  

Tôi không biết thi sĩ Đỗ Trung Quân dựa vào đâu để phán Bức Chân Dung Của Người Lính Già không phải là thơ.

 

Theo tôi thì, ngắm bức chân dung của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp tác giả tâm đã đối cảnh và biểu lộ cảm xúc của mình trước tấm tình của họa sĩ (Cù Huy Hà Vũ) đối với Đại Tướng:


Những giọt nước mắt

Thật buồn

Thật lặng lẽ

Trước bức chân dung

Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

 

Với những chi tiết ấy Bức Chân Dung Của Người Lính Già đã xứng đáng được gọi là thơ. Bài thơ ấy hay hoặc dở lại là chuyện khác, cần đến sự phân tích và bình phẩm kỹ lưỡng hơn.

 

Kết Luận

 

Thi sĩ, nhà phê bình hay người đọc đều cần biết thế nào là một bài thơ hay. Thi sĩ, để làm thơ hay hơn, nhà phê bình, để bình phẩm cho đúng và người đọc, để thành người thưởng thức thơ sành điệu. Nhưng nói chuyện thơ hay mà quên câu hỏi “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ?” thì cũng như bàn chuyện “ngọn” mà không để ý đến “gốc”. 

 

Tôi tình cờ bước vào cuộc đối thoại về cái “gốc” của thơ trên Tiền Vệ và nhận thấy rất hữu ích. Bài viết này là một chút ý kiến đóng góp để may ra có thể làm sáng hơn cái “gốc” của thơ. Sẵn sàng đón nhận mọi ý kiến của các anh chị tham gia đối thoại và tất cả bạn đọc.

 

Phạm Đức Nhì 

 

Bài Góp Ý Với Cuộc Đối Thoại Về Bài Viết “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ” nói về Cái Gốc Của Thơ


Tôi thêm 
Vài Bài Viết Hỗ Trợ để làm rõ Ý của bài viết chính.

 

Cũng ở trên trang Blog này nhưng “kỹ thuật tạo Blog” của tôi quá dở nên phải đưa vào mấy cái links để bạn đọc dễ tìm đọc.

 

1/ Về “Bài Thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/2023/05/ve-bai-tho-ong-dao-cho-nguoi-lon.html

 

2/ Vài Điểm Trao Đổi Với Bác Vũ Nho

https://lythuyetthoabc.blogspot.com/2023/05/vai-iem-trao-oi-voi-bac-vu-nho.html

 

3/ “Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ

https://lythuyetthoabc.blogspot.com/2023/05/tho-con-coc-co-phai-la-tho_17.html

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét