Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

TRẦN MẠNH HẢO BÌNH HAI TẬP THƠ “THỨC CÙNG BÓNG TỐI” VÀ “EM LÀ ĐÔI MẮT” CỦA NGUYỄN VIỆT ANH

 

Nhà thơ Nguyễn Việt Anh


“THỨC CÙNG BÓNG TỐI” TẬP THƠ HAY NHẤT NĂM 2014: MẶT TRỜI KHIẾM THỊ VÀO THƠ

 

       Trần Mạnh Hảo

 

       Sau khi chúng tôi (TMH) đưa lên FB một số bài thơ, câu thơ hay của nhà thơ khiếm thị Nguyễn Việt Anh trích trong tập thơ lục bát “Thức cùng bóng tối” (NXB Hội nhà văn 10-2014) chưa đầy một ngày đã có mấy chục “còm” hưởng ứng khen thơ hay. Trong số “còm” này, có lời của nhà thơ Trần Đăng Khoa (tên FB là “Đảo chìm” viết như sau: “Nhiều câu quả là hay thật, và hay nhất là không ngửi thấy mùi Trần Mạnh Hảo. Sợ bố Hảo lại vẽ ra một nhà thơ, như lão đã từng vẽ ở... thế kỷ trước. Bác đưa hết thơ cô bé này lên fb đi. Tuyệt!”

       Thưa với nhà thơ Trần Đăng Khoa, tác giả tập thơ lục bát “Thức cùng bóng tối” Nguyễn Việt Anh không phải là một cô bé, mà là một người đàn ông đã 32 tuổi, hiện sống tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cậu thiếu niên Nguyễn Việt Anh mắt đang sáng rỡ như mọi người đã bị ngã đứt dây thần kinh thị giác, hỏng hai con mắt, bị mù. Nghĩa là suốt 17 năm nay Nguyễn Việt Anh sống toàn phần trong bóng tối.

Mất đôi mắt, mặt trời đối với Nguyễn Việt Anh cũng chỉ là mặt trời khiếm thị. Anh đã tập nhìn bằng trái tim mình: nhìn bằng tai, nhìn bằng tay, nhìn bằng xúc giác, vị giác, nhìn bằng hơi thở, nhìn bằng cả bàn chân và nhìn bằng chiếc gậy dắt anh đi…

       Hóa ra trong tâm hồn và thân xác nhà thơ trẻ này đã xuất hiện tinh thần nghìn tay nghìn mắt của Phật. Anh đã nhìn thấy những gì mà người có đôi mắt sáng chưa nhìn thấy. Có lẽ trong nền thi ca Việt Nam và thi ca thế giới chưa ai viết về giọt mưa hay như Nguyễn Việt Anh trong bài thơ 2 câu sau:

       “Giọt mưa làm ướt nỗi buồn

       Hay buồn làm ướt tâm hồn giọt mưa?”

       Nhà thơ chắc đã mang “tâm hồn giọt mưa” trong nỗi buồn ướt nước mắt của mình, hay giọt mưa từng là hóa thân của anh, một giọt mưa cô đơn, một giọt mưa buồn, một giọt mưa khiếm thị? Chỉ đọc câu lục bát thần kỳ này của Nguyễn Việt Anh đã khiến tôi ngơ ngẩn suốt cả chiều. Tôi đang có cảm giác phiêu bồng như thuở xa xưa được đọc bài thơ lục bát tuyệt vời của nhà sư Huyền Quang dịch bài thơ chữ Hán “Hữu không” của Đạo Hạnh thiền sư thời Lý:

       Có thì có tự mảy may

       Không thì cả thế gian này cũng không

       Kìa xem bóng nguyệt lòng sông

       Ai hay không có, có không là gì?

       Hữu không

       Tạc hữu trần sa hữu,

       Vi không nhất thiết không.

 Hữu, không như thuỷ nguyệt,

Vật trước hữu không không.

       Thế giới trong lòng ta hay thế giới ngoài ta cái nào thật hơn?

       Tính “sắc không” nhà Phật ám ảnh hồn thơ Nguyễn Việt Anh khi chừng như anh đã vượt qua bể khổ đắng cay như hai câu viết về bóng với hình trong loạt thơ 2 câu:

       “Nâng ly bóng chạm với hình

       Tưởng ta cay đắng một mình mà đôi”

       Thân không còn đôi mắt, nhà thơ dùng tâm nhãn nhìn ra thế giới. Anh cụng ly với bóng mình. Tưởng chỉ mình cay đắng, hóa ra bóng cũng đắng cay! Không nhìn thấy ánh sáng, không thấy mặt trời nhưng nhà thơ khiếm thị vẫn nhìn thấy bóng mình đang sẻ chia cay đắng cùng anh. Hình như hai nỗi cô đơn cộng lại làm con người bớt cô đơn chăng? Nhưng hai nỗi đắng cay cộng lại có thành ngọt ngào?

       Nhà thơ khiếm thị hình như có thiên nhãn bên trong; anh có khả năng thấy cái thật xa hơn cái thật gần; anh ngẫm nghĩ về cái lẽ đuổi theo thì mất mà buông ra thì còn, cái thân xác vuột mất nhưng cái hồn thì ở lại, tưởng thực mà hư, tưởng hư mà thực:

       Xin độc giả đọc bài "Em" trang 26:

Em là thực hay là mơ

Xa thì rõ gần lại mờ... mờ sương

Sao em như thể làn hương

Đuổi tìm thì mất nhãng buông thì còn?

Nguyễn Việt Anh viết về cái nhớ thương đến tận cùng: yêu đến dửng dưng, thương đến lạnh lùng cằn khô, nhớ đến cạn kiệt thờ ơ, mong nhớ quá tới mức hững hờ... Bài "Không đề 4" trang 33 là bài lục bát tài tình của một người yêu đến cạn lòng cạn ý. Những câu thơ viết nhẹ như không mà day dứt lòng người, mà làm lòng ta chẳng đặng đừng thương cảm:

Yêu em yêu đến dửng dưng

Thương em thương đến lạnh lùng cằn khô

Nhớ em nhớ đến thờ ơ

Mong em mong đến hững hờ cả em

Anh có câu thơ viết về cái hôn rất hay, mãnh liệt chưa từng có trích trong bài "Ngọn lửa":

Trong ta ngọn lửa chập chờn

Muốn hôn lại sợ nụ hôn cháy bùng

Chao ôi hôn em anh sợ lắm: sợ lám cháy bùng em bởi anh đang là lửa hôn rơm mà!

Nguyễn Việt Anh mượn chuyện em nhổ tóc sâu cho anh mà nghĩ ngợi đến muôn vàn mai hậu, nghĩ đến nấm mồ anh sau này ai nhổ cỏ, khiến người đọc rùng mình bi thương trong bài "Tóc và cỏ" trang 48:

Giờ em nhổ tóc dùm anh

Ai người nhổ cỏ giúp mình ngày sau

Yêu đi cho tóc bền màu

Lo gì cỏ mọc trên đầu một mai

Câu thứ bốn của bài thơ này làm bài thơ sâu lắng, ngậm ngùi, nâng chuyện em nhổ tóc sâu cho anh lên một tầm triết học mới: cỏ thiên thu là tóc xanh của con người mãi mãi… Em cũng đâu còn để nhổ tóc cho anh!

Nguyễn Việt Anh có nhiều tứ thơ lạ, bất ngờ. Thơ anh ngẫm chuyện đời buồn vui, thảng thốt. Chỉ có chuyện ta vui đùa ném sỏi xuống hồ mà anh cũng viết thành thơ, viết thành một nỗi niềm sâu kín: có khi cái vui vô tình của ta là cái đau buồn của kẻ khác, cái nghịch ngợm của ta có khi làm thương tổn cá tôm trong bài "Thú vui" trang 52:

Nhặt những hòn sỏi ven bờ

Ném vào vô định mặt hồ du dương

Thú vui tưởng rất bình thường

Ai ngờ chú cá bị thương một ngày

Nhà thơ khiếm thị không nhìn thấy hòn sỏi, không nhìn thấy cái hồ, không nhìn thấy cá bị thương do hòn sỏi vô tình ném xuống. Nhưng tâm hồn anh có đủ sỏi, đủ hồ, đủ cá cho bao bạn đọc đến ném và đến đọc thơ anh, đặng bật chợt xót xa cho chú cá bé nhỏ biết đâu vừa bị thương vì trúng đạn sỏi! Bài thơ này anh viết với tâm trạng một thiền sư, một con người giàu lòng bác ái muốn ôm vào lòng mình vạn vật dấu yêu.

Với những câu lục bát bình dị, sâu lắng của con người sống và nhìn bằng nội tâm, Nguyễn Việt Anh làm ta ngạc nhiên ngay cả trước cái vô thường của biển trong bài "Trước biển" trang 55:

Hải âu giờ đã khác rồi

Cái vỏ ốc cũng qua thời mê say

Cát là cát của hôm nay

Chỉ riêng con sóng vỗ đầy ngày xưa

Câu thứ tư bài thơ này là thần bút: “Chỉ riêng con sóng vỗ đầy ngày xưa”… Sóng xưa vẫn vỗ trong lòng anh đầy ắp. Hôm nay vẫn là ngày xưa. Tâm hồn nhà thơ không có không gian và thời gian, biển của tình yêu không có quá vãng, hiện tồn và vị lai… Mọi cái thay đổi nhưng tâm hồn anh vẫn còn nguyên biển ấy, sóng ấy. “Vỗ đầy ngày xưa” quả là diễm lệ lưu tình; sóng nay vẫn vỗ vào biển xưa đầy ắp nỗi niềm hôm nay…

Một chiếc lá rơi vào tay thi sĩ cũng u hoài trầm mặc, cũng mang số phận con người từng phút phải chia li với chính mình hay chia tay với hoài niệm khổ đau theo gió cuốn đi chiếc lá ước lệ cuối cùng của buồn thương u uẩn trong bài "Trắng tay" trang 56:

Thu đi em cũng đi rồi

Chỉ còn hoang vắng tôi ngồi với cây

Ngậm ngùi đón chiếc lá bay

Biết đâu gió giật khỏi tay nỗi buồn

Còn một giọt buồn cầm trên tay gió cũng có cơ giật mất. Buồn ơi, em như một chiếc lá vàng rơi cuối cùng của cây đời yêu dấu đậu vào tay anh một thời xa vắng, xin gió đừng tàn nhẫn giật phăng! Còn một chiếc buồn cỏn con cũng không giữ nổi, nhà thơ anh còn cái gì để nhớ để thương ngoài chút lá vàng của mùa thu cũ?

Trong tập thơ lục bát này, Nguyễn Việt Anh đã tặng bạn đọc nhiều câu thơ hay; ví dụ câu hay trang 58 bài "Vô hình":

Em tin trong cõi vô hình

Có bàn tay đỡ tay mình không em?

Từ cõi hữu hình, nhà thơ buông một nghi vấn vào cõi vô hình: rằng trong cõi hư vô kia có ai chìa cho anh một cái gậy, một bàn tay dìu anh không? Hỏi tức là anh đã trả lời: cái tâm nhân hậu của anh lúc nào cũng chìa niềm nâng đỡ anh dù trong đời thật hay trong cõi vô hình mai sau.

Tôi yêu câu thơ hay bất ngờ này: “Gửi em trang giấy viết đầy trắng tinh” trong bài "Viết cho em" trang 59:

Suốt đêm thức với mưa rơi

Thức hoài chẳng biết trả lời sao đây

Tâm tư thật khó giãi bày

Gửi em trang giấy viết đầy trắng tinh

Ba câu đầu chỉ là sự, câu kết mới là tình, là cõi mênh mông của tuyết trắng tình yêu gửi em mà chỉ người khiếm thị Nguyễn Việt Anh mới nhìn thấy, để hồn anh “viết đầy trắng tinh” lên màn đêm vĩnh cửu vây quanh.

Hầu hết phẩn cuối tập thơ là những câu thơ hay, chúng tôi chỉ xin trích ba câu lục bát làm bằng:

Trăng dan díu với dòng sông

Bỏ tôi khuyết với mênh mông đất trời...

Trăng đa tình bỏ tôi dan díu với dòng sông khiến cả đất trời cùng khuyết! Nhà thơ đang dan díu với ngôn từ thơ ca bỏ người đọc cùng khuyết với vầng trăng… Cho hay cái mênh mông đất trời trong cái nhìn tâm nhãn của Nguyễn Việt Anh cũng vừa ló thành trăng lá lúa…

Nguyễn Việt Anh trong hành trình đi tìm cái tôi đã hóa con dế mèn thi ca đào rỗng nội tâm mình, xem trong mình có mấy cái tôi; hay có ai ngộ nhận mình nấp trong hồn mình làm ra mấy cái tôi giả chăng? Nhưng anh không thấy cái tôi nào ngoài cái chân tôi; rằng tôi chính là tôi trời đất ạ:

Ngoài trời còn có trời cao

Trong tôi biết có tôi nào tôi hơn

Tìm thấy mình rồi nhưng anh lại vấp phải bậu cửa kiếp người có tên là sắc không; rằng sao ta vẫn có chút nghi ngờ mình không không có có:

Gồng mình lên để nói không

Chi bằng nói có cho lòng nhẹ vơi

Vâng, có tôi đây, tôi là Nguyễn Việt Anh, tôi đang có mặt trên cuộc đời này để mang vầng mặt trời khiếm thị vào tập thơ lục bát: “Thức cùng bóng tối”…

Có lẽ đây là tập thơ hay nhất năm 2014 mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc?

Nguyễn Việt Anh, chàng trai khiếm thị sinh năm 1982 đang sống ở Hà Nội, với số điện thoại: 0973820249. Bạn đọc nào muốn có tập thơ lục bát hay này xin gọi về cho Nguyễn Việt Anh…

Thật lạ lùng, một nhà thơ thiếu đôi mắt đã có tài biến tất cả tay chân, biến khứu giác, xúc giác, vị giác, linh giác, vô giác, biến tâm hồn và tư tưởng mình thành rất nhiều con mắt để nhìn sâu vào con người, nhìn sâu vào vạn vật. Và ở đó, anh đã gặp một người tình chung thủy, ấy chính là thi ca. Anh đã sờ thấy một giọt sương lúc rạng đông đang rớm lệ và hỏi: sương ơi em có mù không? Và hạt sương chừng như đang trả lời anh: chúng ta, em và anh đang cùng ánh mặt trời ban mai chơi trò bịt mắt bắt dê… Không, Nguyễn Việt Anh hình như đang thầm trả lời: sương ơi, anh cùng em đang chơi trò bịt mắt bắt thơ đấy.,.

Sài Gòn ngày 22-12-2014

T.M.H.

……………..

 

       MỘT LẦN NỮA – “ EM LÀ ĐÔI MẮT” TẬP THƠ LỤC BÁT CỦA NHÀ THƠ KHIẾM THỊ NGUYỄN VIỆT ANH LẠI LÀM TÔI NGẠC NHIÊN.

 

       Trần Mạnh Hảo

 

       Năm 2014, khi nhà thơ khiếm thị Nguyễn Việt Anh in tập thơ lục bát (mỗi bài chỉ 4 câu), chúng tôi (TMH) đã viết bài khen nhan đề: “Mặt trời khiếm thị vào thơ” (các bạn muốn đọc xin vào: google.com, đánh tên bài viết của TMH trên, sẽ đọc được)

Nay, Nguyễn Việt Anh lại gửi tặng tôi tập thơ lục bát 4 câu có nhan đề: “Em là đôi mắt” (NXB Hội Nhà văn 2016). Tôi đọc và rất thích tập thơ này.

       Xin trích bài: “Lưu lạc”

       “Nào đâu cứ phải bôn ba

       Chỉ cần ở tại ngôi nhà thân yêu

Vào ra sớm sớm chiều chiều

Đủ lưu lạc giữa bao nhiêu nẻo đường”

                                  (trang 51)

       Nên nhớ tác giả bài thơ trên là một người mù. Anh đi đâu cũng cần phải có cây gậy hay người khác dẫn đường. Nhà thơ nhìn cuộc đời bằng tâm nhãn. Ba câu đầu của bài thơ mới là kể; câu thứ bốn mới vỡ òa ý tưởng, lênh láng cảm xúc. Hóa ra nhà thơ mù lưu lạc trong ngôi nhà mình, lưu lạc trong chính tâm hồn mình. Bóng tối cô anh đặc lại như thạch.

Anh ngồi trong chính mình mà còn lạc, còn thấy vô biên, thấy hư vô, hư ảnh, hư hình… Tưởng là tĩnh mà động, tưởng mà ngồi mà bay, tưởng rằng một mà muôn; cái vi mô đã thành vĩ mô và ngược lại. Nguyễn Việt Anh không viết bằng mắt. Anh viết bằng hồn. Chừng như người đọc anh cũng cần phải có tâm nhãn mới nhìn ra trong bóng tối lục bát của anh cái lục căn, lục bình, lục lạc, lục tung, lục lọi của hư vô và nỗi chết.

       Tôi yêu câu thơ thứ tư trong các bài lục bát bốn câu của Nguyễn Việt Anh. Trong bài “Mấy khi”, nhà thơ mù kể ra chuyện anh được về quê, ra bờ sông hóng gió:

       “Mấy khi có dịp về quê

Ra sông hóng gió thỏa thuê cả ngày

Ta ngồi như một gốc cây

Nghe trên da thịt trổ đầy tuổi thơ” (trang 37)

       Hóa ra, khi chúng ta ngồi lặng trên mặt đất, chúng ta cũng chỉ là một gốc cây. Nhưng là một gốc cây của Phật, của Chúa, của linh cảm thi sĩ tuyệt vời. “Nghe trên da thịt trổ đầy tuổi thơ” là một câu thơ có dấu hiệu thiên bẩm, người sáng mắt làm sao viết nổi?

       Bạn ơi, bạn muốn thành một thi sĩ lớn, bạn hãy biến mình thành một cái cây của Nguyễn Việt Anh, cái cây trổ đầy tuổi thơ, tuổi của thiên đường xưa bé. Chao ôi là những cây người, xum xuê những thiên thần tí hon chồi biếc. Ai bảo nhà thơ mù không nhìn thấy gì? Anh nhìn thấy cái sâu vô cùng của bản thể vũ trụ bằng cái nhìn thiên sứ!

       Trong nhóm những bài thơ lục bát hai câu cuối sách, chúng tôi như mê đi khi tìm thấy câu này của thi sĩ Nguyễn Việt Anh:

       “Thức mà đơn độc xanh tươi

       Chẳng thà mê sảng cùng người tàn phai” (trang 68)

       Có những “đơn độc xanh tươi” trên đời này đấy, thưa các bạn. Nhà thơ mù đã nhìn thấy những cô đơn xanh biếc. Trái đất chúng ta là một tinh cầu cô đơn xanh biếc trong vũ trụ xa xanh thăm thẳm khôn cùng. Về bản thể, tâm hồn chúng ta dù đang có tình yêu, có gia đình, hình như cũng chỉ là một tinh cầu “đơn độc xanh tươi”?

       Nguyễn Việt Anh từng có tuổi thơ và tuổi học trò sáng mắt. Năm anh mười lăm tuổi, nhà thơ bị căn bệnh lạ mang đi đôi mắt. Tuy vậy, đến tuổi trưởng thành, anh vẫn có vợ có con. Nhưng rồi cô vợ đã từ bỏ cha con anh mà đi mất vào cõi đời mù tăm, bỏ anh lại cho cây gậy dẫn đường. Nhà thơ rơi vào hai lần cô đơn. Con người càng cô đơn càng tỉnh táo.Cho nên thi sĩ mới mơ được mê sảng, được tàn phai cho thoát nỗi cô đơn. Hóa ra còn có những “tàn phai” hạnh phúc? Xin được chia sẻ cảm giác tươi xanh trong héo úa của thi sĩ trong bài “Không đề 2”:

       “Đột nhiên phố xá lặng im

Lòng ta cũng bất giác chìm lắng theo

Gió lơ đãng thổi qua chiều

Một vài héo úa ít nhiều tươi xanh” (trang 27)

       Chúng ta có thể sống thiếu cơm, thiếu nước trong nhiều ngày. Nhưng chúng ta không thể thiếu dưỡng khí và hi vọng trong năm phút.Trong tuyệt vọng, thi sĩ tìm thấy hi vọng. Trong héo úa, nhà thơ khiếm thị tìm thấy tươi xanh. Anh thanh lọc lá vàng tìm ra chồi non. Câu thơ hay làm ta thẫn thờ buồn vui lẫn lộn mãi trong vu vơ, trong thông cảm và trong bối rối: “Một vài héo úa ít nhiều tươi xanh”

       Hãy xem Nguyễn Việt Anh nhìn mưa trong tâm hồn mình khi nghe tiếng mưa đêm ngoài song cửa:

       “Mưa đêm chợt đến chợt đi

       Khoảng sân trước cửa nghĩ gì mà rêu

       Ánh trăng hắt xuống đìu hiu

       Tự nhiên sờ sợ những điều chưa qua” (Mưa đêm trang 6)

       Đêm với ngày với người thi sĩ mù cũng chỉ là bóng tối. Và mưa và ánh trăng cũng tối như vệt rêu trước sân, chỉ bàn chân anh cảm thấy. Câu thơ bâng khuâng lạ, cắc cớ lạ, sao mà lòng trai cũng tưởng đã xanh rêu: “Khoảng sân trước cửa nghĩ gì mà rêu”…

       Cảm thương cái sân trước cửa buồn quá, cả nghĩ quá mà hóa rêu cho anh làm thơ. Mưa và rêu có nghĩ gì đâu. Chỉ hồn thơ anh cô đơn quá mà nghĩ ra cái điều trơn trượt ấy. Một thế giới tĩnh lặng và bất an với một người không còn đôi mắt, phải nhìn bằng tay, nhìn bằng chân và nhìn bằng thính giác của thời gian đang đến vây bủa anh trong buồn thương hũ nút: “Tự nhiên sờ sợ những điều chưa qua”…

       Anh, người thi sĩ mù nghi ngờ chính sự tồn tại của mình. Anh viết hay là cái bóng viết? Cõi mung lung có có không không này đang ú tim anh hay anh đang chơi trò bịt mắt bắt dê chính mình:

       “Đôi lần thoáng hiện trong ta

       Thân hình buốt giá như là mùa đông

       Bồn chồn tay gối mung lung

       Đang còn mình đấy mà không thấy mình” (Mung lung, trang 7)

       Chàng thi sĩ như con ếch số phận đào bóng tối ra để trú đông hay bóng tối đang đào anh ra từng hố hầm ảo ảnh để neo vào thời gian, đặng nghi hoặc chính mình? Ta có thực không? Ánh sáng có thực không? Tất cả chúng ta, hầu như vẫn thường tự hỏi mình như chàng thi sĩ chung thân bóng tối này tự hỏi: “Đang còn mình đấy mà không thấy mình”! Chao ôi là cái chàng Hamlet của Shakespeare mắt nhìn sáng rực mà vẫn mang một tâm hồn mù, đã liên tực tự hỏi mình: “To be or not to be” (tồn tại hay không tồn tại)…

       Khi chơi thuyền trên Hồ Tây, Nguyễn Việt Anh viết:

       “Đền đài lầu gác nguy nga

       Chìm trong giấc mộng xa hoa đáy hồ

       Hãy nhè nhẹ mái chèo khuya

Kẻo làm sống dậy ngôi vua một thời” (Chơi thuyền ở Hồ Tây, trang 11)

       Chèo nhẹ thôi bạn ơi, để các triều vua dưới đáy hồ yên ngủ. Thi sĩ thương giấc nghìn năm lịch sử bị đánh thức. Đi nhẹ chân thôi các bạn ơi, kẻo ông cha nằm dưới đất mất ngủ! Chừng như các triều vua, chừng như linh hồn ông cha không ngủ dưới hồ, không ngủ trong đất mà đang yên giấc trong hồn ta?

       Trùm lên những dòng thơ Nguyễn Việt Anh là nỗi cô đơn kiếp người; như thể chàng thi sĩ đi một mình, ngồi một mình trên bờ biển:

       “Trăng lên biển đã vào khuya

       Cánh buồm khuất nẻo bên kia chân trời

       Sóng giờ cũng ngược ra khơi

       Bơ vơ hạt cát lặng ngồi hóa anh…” (Viết ở Bãi Cháy, trang 24)

       Không phải anh hóa hạt cát mà ngược lại. Hạt cát ấy buồn vì biển đã lùi xa, đêm tĩnh lặng như biến mất. Hạt cát ấy cứ đùn dần, lớn dần thành một ngôi mộ, không, thành một con người bơ bơ giữa thế giới bơ vơ. “Rồi cát bụi sẽ trở về cát bụi”. Lời Kinh thánh như tiếng gió đang ro ro trong vỏ ốc biển. Con người, thương thay chính là một hạt cát ngồi ngóng biển cả mang mình đi. Đi đâu? Đi vào thơ Nguyễn Việt Anh chứ biết còn đi đâu!

       Chính vì vậy, thi sĩ mù cám ơn hạt cát hư vô xô dạt ta về cõi hữu hình:

       “Bấy lâu ngọn sóng hư vô

       Rắp tâm tẩy xóa cuốn xô kiếp người

       Không ngờ hạt cát nhỏ nhoi

       Lại đưa con sóng về nơi hữu hình” (Viết ở Đồ Sơn, trang 25)

       Khoa học bảo rằng: sự sống mấy tỉ năm trước đã xuất hiện trong biển khơi. Hình như hạt cát lẻ loi này đã tha sự sống lên mặt đất? Nhà thơ, cũng như hạt cát xíu xiu kia hình như đã theo sóng tấp vào bờ hồn ta một thi hứng, một xúc động trong ngẩn ngơ lục bát vô bờ.

       Hãy chia sẻ nỗi đau của chàng thi sĩ trong đêm sâu như bình rượu:

       “Đêm đau đêm tối âm thầm

       Bóng đau bóng thức trầm ngâm với hình

       Thơ đau thơ trút cạn tình

       Gió đau gió thổi rỗng bình rượu tăm” (Đau, trang 48)

       Tôi yêu câu thơ thứ tư này quá. Hóa ra khi đau, gió cũng giải sầu bằng rượu? Thực ra, người đau đã uống hết bình rượu nhưng lại ngờ gió uống. Tại gió cả thôi! Lại nhớ Trịnh Công Sơn: “Để làm gì em biết không? – Để gió cuốn đi”. Nhờ gió ấy, rượu ấy, mà có thi ca, có bài hát, có cơn say của gió thổi rỗng những bình đời, những bình rượu sủi tăm thi sĩ!

       Hồi chàng thi sĩ mù bị vợ bỏ đi, nỗi buồn đã bày tiệc trên hồn anh, một nỗi cô đơn cụ thể, cô đơn đến tê tái cả câu lục bát rất thật này:

       “Dây phơi chẳng chiếc áo nào

       Mỗi khi gió động vẫn chao hai tà

       Em mang ấm cúng đi xa

       Hiu hiu hắt hắt ở nhà với tôi” (Trống vắng, trang 49)

       Chúng ta, hầu như rất ít ai bị vợ hoặc chồng bỏ đi giữa tuổi thanh xuân như Nguyễn Việt Anh; sao có khi giữa một gia đình tưởng hạnh phúc lắm, tưởng đông vui lắm, ta vẫn có cảm tưởng cái vĩnh hằng, cái may mắn, cái thiên đường trong mộng xưa đã bỏ ta mà đi; khiến ta thấy câu thơ thi sĩ mù không chỉ viết cho riêng anh, mà còn viết cho chúng ta câu thơ thật hay này nữa:

       “Em mang ấm cúng đi xa

       Hiu hiu hắt hắt ở nhà với tôi”…

       Thưa các bạn yêu thơ, thế nào rồi cái “hiu hiu hắt hắt” trong thơ Nguyễn Việt Anh cũng sẽ tìm đến chúng ta, để xin ở chung nhà mãi mãi cùng ta dưới mái cỏ xanh mai hậu… Thơ ơi, hiu hiu hắt hắt ơi, chờ ta với.,.

       Sài Gòn ngày 29-9-2017

T.M.H.

(ghi chú: điện thoại của nhà thơ khiếm thị Nguyễn Việt Anh: 0973 820 249)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét