Thứ Năm, 2 tháng 9, 2021

GS. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ KHÔNG CHỊU TIẾP THU PHÊ BÌNH. ÔNG NÀY SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MÔN VĂN TRUNG HỌC VÀ ĐẠI HỌC SAI VÔ SỐ, LẠI CHỐNG CHẾ LƯƠN LẸO CHỐI DỐT: GS. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ - “CHUYỆN THẬT NHƯ ĐÙA” - VẪN LÀ CHUYỆN THẬT! / Trần Mạnh Hảo

 


       Báo “Văn Nghệ Trẻ” số 29 (451) ngày 17-7-2005 đăng bài: ““Chuyện thật như đùa” nhưng chuyện thật là gì?” của GIÁO SƯ NGUYỄN ĐÌNH CHÚ (xin viết trong bài là GS.); mở đầu GS. viết: “Cũng xin nói thêm, đây là “Thư ngỏ cùng bạn đọc” chứ không phải bài “trao đổi lại” với ông Hảo”. Vậy, theo cách làm “tế nhị” của GS., Trần Mạnh Hảo cũng xin viết bài báo này, không nhằm “trao đổi lại” với GS. Nguyễn Đình Chú, mà chỉ như một lá thư ngỏ kính gửi bạn đọc báo “Văn Nghệ Trẻ”.

       Bạn đọc kính mến,

       Nguyên nhân của việc có lá “thư ngỏ” này của chúng tôi là để đáp lại lá “thư ngỏ” có tên gọi vừa nêu trên của GS Nguyễn Đình Chú; là vì cách đây 4 năm, chúng tôi có cho in bài: “Bài Nguyễn Đình Chiểu trong Văn 11, sách giáo khoa chỉnh lý hợp nhất- hay chuyện thật như đùa” (Văn Nghệ trẻ số 52 (226) ngày 30-12-2001), do GS. Nguyễn Đình Chú soạn, nhằm nêu lên nhiều điều sai sót, bất cập trong chương trình học chính quy phổ thông trung học trong sách giáo khoa của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo. Nay, GS sau bốn năm ngẫm nghĩ, viết bài trao đổi lại với chúng tôi toàn là “ông Hảo nói sai thế này”, “ông Hảo hiểu sai thế nọ” mà lại bảo không “trao đổi lại” với “ông Hảo”, chỉ trao đổi với bạn đọc thôi, thì kể cũng là chuyện hi hữu. Trong bài này, chúng tôi xin viết ngắn, chỉ bằng hai phần ba  bài của GS “ không trao đổi với ông Hảo” trên mà thôi.

       GS. lấy lý do này để “không trao đổi lại với ông Hảo”: “Nhưng xin quý vị thông cảm cho vì tôi vốn không quen và càng không muốn tranh luận với một người đã tự nhận là “nhà phê bình phải gió” cho dù cách nói có chút tự trào”. Thưa GS. và bạn đọc, biết người ta nói về người ta “có chút tự trào”, thì sao lại cố chấp đến mức lấy cái tự trào kia ra để biến thành bản chất thật của người ta? Khi anh Lê Lựu nói tự trào trên báo bảo mình là “tên nhà quê”, là “gã ăn mày”, hay Trần Đăng Khoa cũng tự trào tự nhận mình là “Cuội”, là “nhà quê” thì vin vào đó, khi viết về họ, ai đó lại bảo “tôi không thèm tranh luận với tên “nhà quê” hay kẻ “ăn mày” kia ư? Ví như Tú Xương tự trào: “Vị Xuyên có Tú Xương/ Giở giở lại ương ương /Cao lâu thường ăn quỵt/ Thổ đĩ lại chơi lường” thì khi ai đó viết về Tú Xương, lại bảo tuy ông này chuyên “chơi lường” và “ăn quỵt” mà thơ hay lắm ư?

       Nhân đây, tôi cũng xin nói rõ về chuyện “nhà phê bình phải gió Trần Mạnh Hảo”. Một nữ phóng viên tập sự đến phỏng vấn tôi nhân một loạt bài phê bình các giáo sư soạn sách giáo khoa sai, bảo ông phê bình như thế, các học trò của các GS có hàng vạn người, sẽ ghét ông vô cùng. Tôi nói bằng một ví dụ: rằng lúc đầu họ ghét, sau rồi khi nhận ra chân-giả, họ sẽ lại yêu tôi bây giờ. Giống như ngày xưa Xuân Quỳnh chưa lấy Lưu Quang Vũ, Vũ kể tôi nghe Xuân Quỳnh toàn gọi Vũ là “Thằng phải gió”. Nhưng sau này, Xuân Quỳnh phục tài Vũ, và yêu Vũ say mê vô cùng. Lấy ý nghĩa chuyện này mà suy, thì xin các học trò của các GS cứ coi như bây giờ “ Trần Mạnh Hảo là nhà phê bình phải gió” đi, có sao đâu! Thế rồi khi bài phỏng vấn đem in đã lấy cái tít giật gân để bán báo, rằng: “Trần Mạnh Hảo – nhà phê bình phải gió”. Tôi phải kể lại chuyện này để chống lại sự xuyên tạc văn bản, và chống lại sự quy kết người khác ác ý bằng sự “tự trào” của người ta, mà có cả chục vị lên các diễn đàn bảo tôi bản chất là “Nhà phê bình phải gió” cốt để nhục mạ tôi!

       Kết thúc “lá thư trao đổi với bạn đọc” GS. viết: “Bạn đọc kính mến! “Chuyện thật như đùa” mà ông Trần Mạnh Hảo đã gán cho tôi là thế. Và chuyện thật là gì tôi muốn ngỏ cùng bạn đọc là thế. Để kết thúc bức thư ngỏ này, tôi muốn cất lên một lời kêu gọi: Xin ai đó đừng vẩy bùn lên người khác. Làm thế chẳng đẹp gì hơn cho mình mà chỉ đáng buồn cho đất nước, cho cõi nhân gian mà thôi. Tôi còn muốn nói thêm: Khi viết bức thư ngỏ này, trong tôi văng vẳng câu phương ngôn: Học nói chỉ cần vài ba năm còn học im lặng thì phải suốt đời. Tôi tự buồn vì chưa học được bao nhiêu lời dạy của phương ngôn đó để phải có bức thư ngỏ này”.

       Thưa GS. Nguyễn Đình Chú, GS. nói như thế, khác gì GS. bảo Trần Mạnh Hảo “vấy bùn lên người khác” mà trong trường hợp này là “vấy bùn” lên GS. Thực là oan cho chúng tôi lắm thay! Suốt 4 năm, kể từ khi chúng tôi viết bài phê bình SGK dạy về Nguyễn Đình Chiểu trong văn 11 do GS. soạn, nếu chúng tôi làm chuyện hỗn láo là “vấy bùn” lên GS. sao hàng vạn học trò của GS., và hàng triệu bạn đọc đâu có dễ “tha thứ” cho chúng tôi mà im lặng suốt như thế? Trong khi, bài báo phê bình phần SGK trên được chúng tôi cho in lại trên 3 tờ báo khác, chứ không chỉ in riêng trên Văn Nghệ Trẻ!

       “Chuyện thật như đùa” 1:

       Trong phần đầu “thư ngỏ” GS. Nguyễn Đình Chú viết: “Trong SGK Văn 11, bản in lần đầu năm 1991, quả có chuyện như ông Hảo đã nêu: Câu thơ: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” của Nguyễn Đình Chiểu lại nói là của Xuân Diệu. Tôi xin nhận trách nhiệm sai sót không thể tha thứ này mà chính tôi cũng không hiểu tại sao có sai sót đó”.

       Thưa quý độc giả và thưa GS, bài khái luận soạn cho SGK Văn 11 để học trò cả nước học do chuyên gia hàng đầu về Nguyễn Đình Chiểu là GS, mà GS lại nhầm CÂU THƠ HAY NHẤT CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU là CÂU THƠ CỦA XUÂN DIỆU như GS vừa nhận trên, lại không hiểu vì sao có thể sai đến mức không thể tha thứ được, thì có phải là “chuyện thật như đùa“ không ạ? Ví như GS chỉ có một sai sót lớn này do Trần Mạnh Hảo chỉ ra, còn các sai sót khác TMH chỉ chưa đúng, thì GS cũng không vì thế mà bảo TMH “vấy bùn lên người khác” được. Huống hồ, đạo lý thông thường, khi người ta chỉ ra cái sai của mình, mình phải cám ơn người ta, chứ sao lại chửi người ta?

       “Chuyện thật như đùa” 2:

       Trong khi bảo vệ cho việc chú giải chữ: “TÀ” (mà GS chú giải sai thành: Tà = chính tà ) trong câu thơ: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” của Nguyễn Đình Chiểu, GS viết như sau: “Vậy mà ông Hảo đã thay đi một chữ. Tôi viết: “KHÔNG ĐỨNG THẲNG” ông chữa thành “KHÔNG NGANG THẲNG”…”. Ở đây, chính là GS đang đùa với sự thật đó!  Xin GS. và quý độc giả mở SGK Văn 11 – sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000- NXB GD, mã số: 3H101m0 (In xong và nộp lưu chiểu tháng 6-2000, trang 28, dòng thứ 4 kể từ trên xuống); rõ ràng GS Nguyễn Đình Chú chú giải như sau: “(4) TÀ: XIÊN XẸO, KHÔNG NGANG THẲNG” mà sao GS vẫn dám cãi: Tôi viết “ĐỨNG THẲNG”, rằng ông Hảo gian sửa thành “NGANG THẲNG” thì có phải là chuyện thật như đùa hay không? (Chữ in hoa và in hoa nghiêng trong bài do TMH nhấn mạnh)

       “Chuyện thật như đùa” 3:

       Điều này, có trong bài phê bình SGK Văn 11 của Trần Mạnh Hảo (TMH) nhưng GS không nhắc đến trong “thư ngỏ”. Ấy là việc GS gọi CON CHIÊN là CON DÊ. Chú giải chữ “CHIÊN CẦU” trong câu thơ Nguyễn Đình Chiểu: “ Sáng chi theo thói chiên cầu/ Dọc ngang chẳng đoái trên đầu có ai”, GS viết: “Chiên cầu: áo bằng da con chiên (dê). Ý nói: ăn mặc trang sức theo lối nước ngoài một cách lai căng, mất gốc” (SGK Văn 11 đã dẫn, trang 39, dòng 17 từ trên xuống). GS gọi CON CHIÊN là CON DÊ há không phải chuyện thật như đùa ư?

       Cách chú giải chữ “Chiên cầu” của GS như trên là chưa đúng. “Chiên cầu” là áo bằng da dê mà rợ Hồ, dân du mục phương Bắc thường mặc để đánh chiếm Trung nguyên. Chữ “chiên cầu” ở đây Nguyễn Đình Chiểu dùng để chỉ bọn xâm lược, tức thực dân Pháp.

       “Chuyện thật như đùa” 4:

       Ấy là việc GS chú giải sai từ: “Tầm phào” trong câu thơ: “Qúan rằng ghét việc tầm phào/ Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm” như sau: “Tầm phào: vu vơ không có nghĩa lý gì” (SGK Văn 11 đã dẫn, trang 30, dòng thứ 2 kể từ trên xuống). GS để gần một cột báo lớn trong “thư ngỏ” để biện bác chúng tôi. Nay xin trích ra (không sai một dấy phảy) những cách GS Nguyễn Đình Chú định nghĩa chữ “TẦM PHÀO”:

       - TẦM PHÀO: vu vơ không có nghĩa lý gì (đã dẫn trên)

       - “GHÉT VIỆC TẦM PHÀO”: (vu vơ); (Văn học 11-sách giáo viên (SGV) mã số: 3G101MO-NXB GD tháng 6-2000, trang 23, dòng thứ 14 kể từ trên xuống).

       - “GHÉT VIỆC TẦM PHÀO”: (bậy bạ). (Văn 11-SGV, số XB 365- NXB GD tháng 7-1991, trang 24, dòng thứ 8 kể từ trên xuống)

       Qua đây, chỉ riêng từ “TẦM PHÀO” đã thấy GS lúng túng không hiểu nổi nghĩa, dẫn đến  chú giải 3 cách khác nhau. Xin theo phép tam đoạn luận mà suy ra:

       - TẦM PHÀO = vu vơ; TẦM PHÀO = bậy bạ, phép tam đoạn luận cho ta kết quả theo GS Nguyễn Đình Chú: “TẦM PHÀO = VU VƠ = BẬY BẠ“! Chao ôi, khi từ VU VƠ cũng có nghĩa là BẬY BẠ thì có phải là “chuyện thật như đùa” không thưa quý bạn đọc? Với việc đồng nhất, từ “vu vơ” nghĩa là “bậy bạ” thì  câu thơ dưới của Huy Cận là bậy bạ  ư?

             “Rơi rơi dìu dịu rơi rơi

         Trăm muôn giọt nhẹ nói lời vu vơ”

       Hay câu thơ dưới đây của Hữu Thỉnh cũng là câu thơ “bậy bạ” ư?

             “ Em vừa gỡ gió ngoài sân

         Anh vừa góp được một lần vu vơ…”

       “Chuyện thật như đùa” 5:

       Ấy là chuyện GS chú giải sai từ “TÂM THẦN” trong câu thơ: “Thấy rồi muôn việc trong trần/ Xin còn hai chữ tâm thần ở ta”; GS Nguyễn Đình Chú chú giải từ “tâm thần” như sau: “Tâm thần: tinh thần chân chính trong cõi lòng” (SGK đã dẫn, trang 39, dòng 21 kể từ trên xuống). Thưa bạn đọc và GS, “TINH THẦN” là tinh thần chứ ạ, sao còn có 2 loại “TINH THẦN khác nhau:

       “TINH THẦN CHÂN CHÍNH” và  “TINH THẦN KHÔNG CHÂN CHÍNH” là sao ạ? Vậy học trò cũng sẽ hỏi thầy từ: “CÕI LÒNG” và “CÕI LÒNG CHÂN CHÍNH” khác nhau làm sao thì có phải là chuyện thật như đùa hay không? Cũng như thế nếu GS giảng từ CHÂN LÝ, học trò sẽ hỏi thế CHÂN LÝ CHÂN CHÍNH VÀ CHÂN LÝ KHÔNG CHÂN CHÍNH khác nhau thế nào thì GS trả lời ra sao ạ?

       “Chuyện thật như đùa” 6:

       Xin quý bạn đọc đọc nguyên văn đoạn bình văn bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” xem văn này của GS Nguyễn Đình Chú có phải là văn hài hay văn mô phạm nhà trường:

“Phải làm cho HS thấy được đây là những dòng văn toàn bích viết về nỗi đau mất mát trong chiến tranh vệ quốc xưa nay. Chú ý cách dùng từ rất giản dị nhưng có hàm lượng tư tưởng thẩm mỹ tối ưu của Nguyễn Đình Chiểu trong lời văn này: mẹ đã mất con thì dù còn trẻ cũng thành mẹ già hết (mẹ già). Con dù lớn đến mấy trong tình thương của mẹ vẫn là trẻ cả (khóc trẻ). Vợ đã mất chồng thì có khỏe bao nhiêu cũng là vợ yếu. Cách tạo hình, tạo cảnh để gợi cảm tối đa: mẹ khóc con không phải vào lúc nào khác mà là lúc đêm khuya, không phải ở nơi nào khác mà là trong lều. Vợ tìm chồng không phải lúc nào khác mà là bóng xế…” (Văn 11-SGV- chỉnh lý hợp nhất – NXB GD 6-2000, trang 28, dòng 20 kể từ trên xuống)

       Xin quý độc giả đọc thêm một đoạn “văn hài” nữa của GS Nguyễn Đình Chú trong bài khái luận : “Nguyễn Đình Chiểu”, như sau: “Văn chương Đồ Chiểu không óng mượt, nõn nà mà chân chất, phác thực, có chỗ tưởng như thô kệch. Nó không phải là vẻ đẹp của những cây lúa xanh uốn mình trong gió nhẹ. Nó đẹp vẻ đẹp của đống thóc mẩy vàng. Nó không phải là quả vải thiều của Hải Dương ai ăn cũng thấy ngon miệng. Nó là trái sầu riêng của Nam Bộ, với một số người không dễ gì quen, nhưng chính là “bậc vương giả”trong thế giới trái cây ở đây…” (SGK Văn 11- NXB GD 2000, trang 27, dòng thứ 10 kể từ trên xuống). GS viết như trên, vừa buồn cười, dung tục, lại vừa sai. Đa số người miền Bắc, miền Trung không ăn được trái sầu riêng Nam Bộ. Nói như GS, hoá ra chỉ có người Nam Bộ mới thưởng thức nổi văn Đồ Chiểu hay sao? Viết như vậy là ca ngợi hay hạ thấp Nguyễn Đình Chiểu?

       “Chuyện thật như đùa” 7:

       Ấy là chuyện GS giảng chưa đúng tinh thần bài thơ “Xúc cảnh”.

       Xin xem GS chú giải từ “Thánh đế” trong câu thơ: “Chừng nào Thánh đế soi ân thấu/ Một trận mưa nhuần rửa núi sông” như sau: “Thánh đế: vị vua đáng tôn kính. Trong điều kiện ý thức hệ phong kiến còn thống trị, Nguyễn Đình Chiểu không thể không nói đến Thánh đế nhưng đó là vị vua lí tưởng mà ông ước mơ” (SGK Văn 11 đã dẫn, trang 37, dòng thứ 15 kể từ trên xuống). Chúng tôi hiểu chữ “Thánh đế” trong câu thơ trên là triều đình nhà Nguyễn, mà cụ thể là vua Tự Đức. Lúc đang bị giặc Pháp cướp nước, giống như đang bị cháy nhà, người dân Nam kỳ qua thơ Đồ Chiểu kêu cứu vua cụ thể đến cứu dân chứ đâu có kêu cứu “ông vua lý tưởng trong ước mơ” xa xôi không có thực về cứu! Thời đó, phương thức lịch sử là trung quân ái quốc, người dân Nam Kỳ và cả Nguyễn Đình Chiểu, dù đôi lúc có trách triều đình, trách vua, nhưng vẫn hướng, vẫn dựa vào triều đình nhà Nguyễn và vua Tự Đức để tìm cách cứu nước. Chính người của triều đình đã cử Nguyễn Đình Chiểu víết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì  làm gì có chuyện lòng dân Nam kỳ và Nguyễn Đình Chiểu tuyệt đối chống triều đình nhà Nguyễn như GS viết!

       Nay, trong “ thư ngỏ”, GS để gần nửa bài báo để nói đại ý rằng lòng dân Nam kỳ mà cụ thể là Nguyễn Đình Chiểu căm ghét nhà Nguyễn cùng vua Tự Đức bán nước; GS viết như sau, ám chỉ Tự Đức là hôn quân: “Ở đây hoàn toàn không thể nói tư tưởng trung quân một cách chung chung, không phân biệt minh quân với hôn quân, không phân biệt minh trung và ngu trung. Đúng là nếu ông Hảo có hiểu biết về những điều trên đây thì dễ thường ông sẽ không thể viết về bài Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu như đã viết. Riêng với vua Tự Đức, dù là hôm nay đang cần có một sự nhìn nhận sao cho khách quan công bằng hơn, nhưng gì thì gì, chuyện nhà vua không kiên quyết chống Pháp chịu để mất nước do đó đã bị dư luận xưa nay chê trách, lên án là một sự thật không thể chối cãi. Việc ông Hảo cho rằng Nguyễn Đình Chiểu làm bài thơ Xúc cảnh là nhằm kêu cứu với vua Tự Đức vào cứu con dân Nam Bộ khỏi họa xâm lăng là một điều khó có thể đồng tình với ông được. Chưa kể nói như thế là vô tình hay hữu ý hạ thấp quá đáng tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu”

       Chúng tôi xin trích lời của chính GS. Nguyễn Đình Chú trong SGK VĂN 11 phần giới thiệu, gọi là tiểu dẫn bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để chống lại đoạn văn trên của GS, như sau: “Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế này. Vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến bài văn tế trong nhiều địa phương khác. Nhà thơ Miên Thẩm Tùng Thiện vương và Mai Am nữ sĩ đã có thơ ca ngợi bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (SGK Văn 11- đã dẫn, trang 31, dòng thứ 9 kể từ trên xuống)

       Kính thưa quý độc giả,

       Chúng tôi còn có thể kể ra rất nhiều “Chuyện thật như đùa” nơi các bài giảng về Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương, Phan Bội Châu do GS Nguyễn Đình Chú soạn trong SGK Văn 11, nhưng vì khuôn khổ bài viết có hạn, hẹn một dịp khác vậy. Qua đây, quý bạn đọc có thể biết ai là người đã “vẩy bùn lên người khác” và làm chuyện “đáng buồn cho đất nước, cho cõi nhân gian…”.,.

              Sài Gòn 19-7-2005

                     T.M.H.

Nguồn: báo “Văn Nghệ Trẻ” số 30 ( 452) ngày 21-7-2005

.

           MỘT CHỮ "TÀ" TRONG CÂU THƠ "ĐÂM MẤY THẰNG GIAN BÚT CHẲNG TÀ" MÀ GS. ĐẦU NGÀNH NGUYỄN ĐÌNH CHÚ CÒN HIỂU SAI LÀ CHÍNH TÀ, SAO VỊ GS. NÀY VẪN VIẾT SÁCH GIÁO KHOA VỀ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU VÀ HƯỚNG DẪN NHIỀU LUẬN ÁN TIẾN SĨ?

        Chiều nay, 18-5-2005, vài người bạn văn đến nhà chúng tôi chơi, hết  sức kinh ngạc về bài báo: “Bút chẳng “tà” là chẳng xấu”, in trên trang 11, báo “Người Lao Động” cùng ngày. Bài báo kể chuyện rằng trong kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 9, Sở GD & ĐT TP. HCM. ra đề thi về Nguyễn Đình Chiểu, bèn gửi tài liệu hướng dẫn chấm thi. Tài liệu cấp Sở ấy hướng dẫn hiểu hai câu thơ: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” như sau: “TÀ”: “xấu”, “KHẲM”: “chìm”. Than ôi! Người phụ trách môn văn cấp Sở GD & ĐT của một thành phố lớn nhất nước, dứt khoát phải là một (thầy, cô) giỏi văn nhất nhì, sao lại có thể tỏ ra không chút hiểu biết sơ đẳng về văn học đến thế! Ở Nam Bộ này, một đứa con nít cũng thuộc hai câu thơ trên của cụ Đồ Chiểu, không cần học văn một ngày nào, cũng hiểu được “TÀ” trong câu thơ kia là: “cùn/ mòn/ vẹt/ tù/ tày” và ‘KHẲM” là “đầy”…

       Nhân chuyện này, Trần Mạnh Hảo tôi bèn mở sách giáo khoa trung học Văn 11, trang 30, NXB Gáo Dục 1991, do GS. Nguyễn Đình Chú soạn, đã nhầm câu thơ hay nhất của Nguyễn Đ ình Chiểu: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” thành ra câu thơ của Xuân Diệu ngay trong bài giảng về Nguyễn Đ ình Chiểu. Lại mở sách giáo khoa Văn 11, in năm 2000, cũng của NXB Giáo Dục, cũng bài giảng về Nguyễn Đình Chiểu, cũng do GS. Nguyễn Đình Chú soạn, giảng chữ “TÀ” của câu thơ trên phải hiểu là CHÍNH – TÀ , rằng: “TÀ: xiên xẹo, không ngay thẳng”…” Viết văn là đâm mấy kẻ gian tà, đâm mấy cũng không xiên xẹo”… Chúng tôi lại mở sách giáo khoa Văn 11- dành cho giáo viên, đọc cho mọi nghe một đoạn GS. Chú bình bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” mà tất cả cùng bò ra cười vì lời bình quá ngô nghê, dung tục, tầm phào. Nếu có em học sinh nào viết bài luận như thế, chắc chắn thầy cô sẽ cho điểm kém ngay; đằng này, lại là văn mẫu của vị GS. đầu ngành soạn mẫu cho thầy cô giáo cả nước noi theo, thì than ôi, việc giảng văn trong nhà trường xuống cấp tới mức không còn giới hạn nữa. (Xem thêm bài: “Nhân chuyện em Nguyễn Phi Thanh phản ứng bài giảng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: NGHĨ VỀ VẤN NẠN CỦA MÔN VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY- báo Công An TP. HCM số 1343, thứ ba, ngày 17-5-2005).

       Như vậy, một vị GS. đầu ngành soạn SGK về Nguyễn Đ ình Chiểu còn hiểu sai đến thế, còn không hiểu nổi một từ của thơ Nguyễn Đình Chiểu, còn bình tào lao đến thế về bài văn tế kiệt tác kia, thì thử hỏi, một học sinh lớp 11 (dù là học sinh giỏi văn) làm sao có thể hiểu và thấy thơ Nguyễn Đình Chiểu hay được? Nên, việc em Nguyên Phi  Thanh nói thật trong “bài văn lạ” kia chính là một cơ hội may mắn để toàn xã hội cùng giật mình thấy sự khủng hoảng của việc dạy môn văn trong nhà trường đã tới mức không còn chấp nhận được nữa. Việc soạn SGK về Nguyễn Đình Chiểu sai lạc đến không ngờ như thế, tưởng khi các vị soạn SGK về các tác giả khác sẽ khá hơn. Không, các tác giả và tác phẩm khác được học trong sách giáo khoa văn đã soạn bởi các GS đầu ngành, vẫn để lộ hàng trăm sai lạc nghiêm trọng khác, hơn cả sự sai lạc của vị GS soạn về Nguyễn Đình Chiểu trên. Từ năm 1994, chúng tôi (TMH) đã viết hàng trăm bài báo chỉ ra rất nhiều sai trái của riêng SGK Văn trung học. Bộ GD & ĐT đã tiếp thu phê bình, cho sửa lại “SGK chỉnh lý hợp nhất” năm 2000 mà sai sót mới lại hiện ra không sao đếm xuể. Xin quý độc giả tìm cuốn sách “Văn học- phê bình-tranh luận” của chúng tôi (TMH) do NXB Lao Động ấn hành năm 2004 sẽ rõ; hoặc cuốn “Hầu chuyện các giáo sư” (TMH- NXB Văn Học- 1999)

       Khâu quan trọng nhất của việc dạy văn trong nhà trường là khâu sách giáo khoa. Mà sách giáo khoa thì KHỦNG HOẢNG trầm trọng đến như thế, làm sao có thể giảng dạy tốt môn văn cho được? Chương trình dạy văn bị nhồi nhét đến vô lý, xin dẫn lời của một em học sinh lớp 11: “Tại sao các thầy cô lại cam chịu cách dạy như thế bay lâu? Học 2 tiết 3 bài thơ Đường, 2 tiết là xong chuyện Chí Phèo, 1 tiết là xong 3 trích đoạn Truyện Kiều! Trời đất! Học mà không cảm được văn, học mà không hiểu về văn, học mà không có thời gian sống với tác phẩm thì làm sao có hiệu quả đây?...” (trích bài “Hệ thống giáo dục đừng làm uổng công học tập của chúng cháu” của Bùi Nghiêm Đắc Vinh lớp 11A1 trường THPT Củ Chi TP.HCM.)

       Khâu thứ 2 quan trọng không kém SGK là khâu các thầy cô giảng văn trên lớp. Chúng tôi thiết nghĩ, trên đất nước này, chắc chắn có hàng vạn thầy cô giỏi, nhưng với SGK ấy, với sự nhồi nhét chương trình ấy, với thời gian ấy, lối giảng dạy khô khan hình thức bấy lâu giảng dạy theo “văn mẫu” ấy, thì thầy cô có giỏi như trời cũng không sao làm cho trò mê văn chương hay giỏi văn được. Mặt khác, dạy văn là phải dạy bằng rung cảm, bằng nhiệt lượng tâm hồn, thầy có “lửa”, có rung động sâu xa thì mới truyền cho trò vẻ đẹp của tâm hồn tác phẩm được. Dạy văn cũng phải “mê” như khi yêu vậy! Mà các thầy cô một ngày, một tuần dạy nhiều giờ đến tối mặt tối mũi thế thì “mê” thế nào được, thì riết rồi sẽ như cái máy dạy văn, giống với rất nhiều “cái máy dạy văn” trên truyền hình. Và học trò sẽ thành những cái máy chép bài. Than ôi, khi dạy văn trở thành thứ công nghệ như thế, thì làm sao truyền cảm, làm sao có “lửa” được? Vì vậy, chất lượng dạy văn chắc chắn là không cao.

       Khâu quan trọng thứ 3 quyết định thành bại của việc dạy văn trong nhà trường là việc học của học sinh. Dạy văn, nói cho cùng là dạy người, dạy phương pháp thẩm mỹ, tiếp cận tác phẩm văn học; khơi sự sáng tạo cho học sinh, giúp chúng có cơ hội ngồi một mình trước tác phẩm để tự mình tìm ra con đường riêng, để trái tim người đọc gặp được trái tim người viết đang mã hoá dưới hình tượng và ngôn từ. Tâm hồn các em đang như tờ giấy trắng. Các em rất nhạy cảm, rất ngây thơ tin tưởng và cũng rất dễ nghi ngờ, dễ tuyệt vọng. Với những lời vàng ngọc, với lý tưởng tốt đẹp và những hình ảnh thiêng liêng cao quý trong sách vở, các em bước ra cuộc đời ở ngay ngoài đường phố và dễ bị choáng ngợp vì hàng loạt những vấn đề xã hội tiêu cực do những hành vi, những sự việc diễn ra rất phũ phàng, giả dối, ngược lại những điều các em vừa học trong nhà trường. Thầy giáo vừa dạy chỉ trong xã hội phong kiến của thời Thuý Kiều mới có cảnh vu oan giá họa cho người lương thiện thế, mới có cảnh nhà thổ trác táng như thế, cảnh bán người chuộc cha thế! Nhưng khi các em đọc báo thì than ôi, xã hội chúng ta còn đầy ra những thứ tiêu cực hơn cả thời Thuý Kiều! Làm sao giải thích?

       Những vấn nạn của xã hội, những gương xấu tràn ngập ngoài đời, những tiêu cực khắp nơi đang là những sức ép tâm lý, đè nặng lên tâm hồn các em học sinh, chính là những trở ngại không nhỏ chắn ngang con đường đến với môn văn, làm thương tổn thẩm mỹ văn chương, góp phần giải thiêng thế giới lý tưởng của chân thiện mỹ trong nhà trường. Ngoài ra, căn bệnh thực dụng, sự xâm chiếm toàn diện của công nghệ nghe nhìn… cũng chính là những yếu tố bất lợi cho việc tiếp nhận thẩm mỹ văn chương của các em trong nhà trường. Sức quyến rũ của đồng tiền, thói hào nhoáng của văn hoá hình thức, lối sống gấp chỉ biết hưởng thụ không nghĩ đến ngày mai, ti vi, internet, truyện tranh, tiếng Anh… choán hết thời gian… đang làm nghèo trí tưởng tượng của học sinh, khiến tâm hồn các em chai đá, thiếu không gian lãng mạn và một tình yêu thiên nhiên… chính là những yếu tố làm các em xa dần môn văn. Vì những nguyên nhân trên, chúng ta thấy việc dạy và học văn trong nhà trường hiện nay thật khó thay! Vấn nạn này là hậu quả của sự vô trách nhiệm lâu năm không chỉ của ngành giáo dục, mà còn của toàn xã hội với các thế hệ tương lai, cần được báo động gấp để cùng nhau tìm ra lối thoát cho nền giáo dục đang khủng hoảng toàn diện của đất nước ta hôm nay.,.

       Sài Gòn 18-5-2005

              T.M.H.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét