Chúng tôi xin vô phép mượn câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Du trích trong bài thơ chữ Hán "Xuân dạ": "Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim" để làm nhan đề bài viết của mình. Nguyễn Du mất năm Canh Thìn 1820, vị chi đến tết Quý Mùi năm 2003 này là đúng 183 năm giỗ. Trong thiên niên kỷ thứ hai giành và giữ độc lập dân tộc, phục hưng văn hóa Đại Việt, nếu phải chọn một đỉnh cao nhất của văn học Việt Nam, chúng tôi không ngần ngại chọn đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới, niềm tự hào của dân tộc ta. Phải chăng, chính Nguyễn Du, bằng đại kiệt tác Truyện Kiều đã trở thành "tiếng sóng lạnh" đoạn trường tiễn đưa cũ và mới, xưa và nay, tiễn đưa hư vô và tồn tại, thậm chí đang cùng chúng ta tiễn đưa hai thời đại, hai thiên niên kỷ?
Nguyễn Du chính là nỗi tiễn đưa muôn năm
không chỉ của văn học mà còn của chính đời sống, của buồn vui, còn mất, sống chết,
ấm lạnh, là giao thừa của tâm hồn con người lúc nào cũng phải đưa đón, hợp tan
một nỗi niềm nào đó, một bi thương nào đó. Nguyễn Du - hay là "Một tiếng
sóng lạnh" còn vỗ bên trời, phải chăng chính là niềm u hoài, trầm mặc, buồn
thương, hiu quạnh đã trở thành định mệnh ám ảnh xuyên suốt nghìn năm thân phận
con người trong văn học cha ông. Hai đỉnh núi u buồn cũng là hai vị tổ của thi
ca Việt Nam: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du - hai đại buồn khúc chập chờn tiếp nối
"đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao" của một nghìn năm văn học dân tộc.
Chúng
ta mừng mùa xuân càng phải quay nhìn lại nghìn năm "tiếng sóng lạnh"
còn vỗ "ngoài thôn Nam Đài" dân tộc mà thương, mà chia sẻ với cha ông
nỗi sầu vạn kỷ, âu cũng là một nén hương tinh thần thắp trước vong hồn tiền
nhân. Trước khi vào hồn vía câu thơ, chúng tôi xin chép lại bài "Xuân Dạ"
của Nguyễn Du, (trang ï50 "Nguyễn Du toàn tập", tập 1, NXB Văn Học,
Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học 1996):
"Hắc
dạ thiều quang hà xứ tầm
Tiểu
song khai xứ liễu âm âm
Giang
hồ bệnh đáo kinh thời cửu
Phong
vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Ky
lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia
hương thiên lý nguyệt trung tâm
Nam
Đài thôn ngoại Long Giang thủy
Nhất
phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)
Dịch
nghĩa: Đêm Xuân
Đêm
tối đen, tìm đâu ánh sáng mùa xuân
Trước
song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u
Trong
chốn giang hồ bệnh đến đã lâu ngày
Mùa
xuân theo mưa gió mà chìm trong đêm sâu
Lâu
năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn
Nghìn
dặm nhớ quê, lòng gửi theo vầng trăng
Nước
sông Lam ở ngoài thôn Nam Đài
Một
tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ
Bài
thơ "Xuân dạ" rút trong "Thanh hiên thi tập", Nguyễn Du viết
từ năm 1786 đến năm 1804 là những năm tao loạn, bi hùng của lịch sử, đồng thời
là những năm lưu lạc, long đong, lận đận, khốn cùng nhất của nhà thơ về cả tinh
thần lẫn vật chất. Nỗi đau buồn mất cha hòa với nỗi buồn thương, tiếc nuối nhà
Lê bị diệt, khiến Nguyễn Du phải lánh nạn về Quỳnh Hải quê vợ. Nhà thơ bị dồn tới
chân tường, như bị bỏ vào cái rọ nghèo khó và bế tắc, như thể đôi mắt ông đã bị
món nhọ nồi thế cuộc bôi trét một màu than đêm. Cho dù mùa xuân có về, chim có
hót, nắng có hửng, hoa có thơm thì với ông, vẫn chỉ là cảnh "đêm trường dạ
tối tăm trời đất". Do vậy, trong bài thơ "Xuân dạ" ta chỉ thấy
"dạ", thấy đêm mà không thấy "xuân" đâu? Đêm đen quá tìm
đâu ra chút ánh sáng xuân. Đến khi mở cánh cửa sổ nhỏ ra nhòm, hình như thấy
"liễu âm âm", liễu đấy mà không phải liễu, hay chính bóng đêm đặc lại,
rủ xuống cõi âm u mà thành liễu, thành tóc đêm?
Nhà
thơ thấy mùa xuân trôi tuột theo mưa gió, trút hết vào ruột đêm nỗi u sầu vạn
thuở. Cũng như trong hai bài thơ xuân khác trong "Thanh Hiên thi tập",
nhà thơ từng hỏi: "Xuân ở Quỳnh Hải
từ đâu lại - Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai", "Người cứ tiêu điều xuân
vẫn tươi đẹp - Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân". Trở lại bài thơ
"Xuân dạ", ta biết Nguyễn Du đang đau ốm lâu ngày, lại trong thân phận
chạy loạn, trốn đời, ăn nhờ ở đậu bên nhà vợ ở một vùng quê hẻo lánh mù tăm tin
tức, như thể ông bị lưu đầy trên một hoang đảo, hay là chính ông đang bị mắc
ngón tay số phận trong kẽ kẹt của cánh cửa lịch sử? Nỗi cô đơn thấm vào ông,
loang tới cả vầng trăng, theo kiểu Lý Bạch: "Ngẩng đầu ngắm trăng sáng/
Cúi đầu nhớ cố hương- Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương":
"Lâu
năm làm khách xa nhà - Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Nghìn
dặm nhớ quê, lòng gởi theo vầng trăng
–
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm"
Thương
thay thời đại Nguyễn Du, trăng có vằng vặc giữa trời, lòng có gởi theo trăng vạn
dặm tới quê nhà thì trời vẫn cứ là thăm thẳm tối, vẫn cứ như nỗi nhân tình thế
thái đã tước đoạt đôi mắt tâm hồn nhà thơ, thành trăng đó cũng trăng vô cảm mà
suông cả một đời lữ thứ. Lý Bạch xưa suốt một đời dùng trăng sáng để giải sầu
mà không được. Cũng tội cho vầng trăng, nhận bao nhiêu nỗi niềm bi hận của thi
nhân mà vẫn cứ nằm trơ cổ độ, vẫn cứ đơn độc một mình cất giấu hồn vía muộn phiền
hết Lý Bạch đến Nguyễn Du. Có lẽ nhờ vầng trăng chia xẻ, đưa đường cho hồn nhà
thơ về lại bến Nam Đài mà hậu thế được thưởng thức một câu thơ chữ Hán thuộc
hàng hay nhất trong nền thơ chữ Hán Việt Nam từ độ Lý Trần:
"Nước
sông Lam ở ngoài thôn Nam Đài - Nam
Đài
thôn ngoại Long Giang Thủy"
Một
tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ - Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim"
Ta
hãy hình dung Nguyễn Du nửa phần ốm yếu, nửa phần chán đời, phẫn chí ngồi thui
thủi như một cái hạt cô đơn trong trái đêm khổng lồ "Xuân dạ", chịu cơ hàn tận tỉnh
Thái Bình, gửiø hồn vía, gửiø đôi tai theo trăng về tận bến Nam Đài Nghi Xuân,
lắng nghe từ vạn dặm tiếng sóng sông Lam vỗ nức nở canh trường. Khói sóng từng
nghi ngút suốt những dòng sông thi ca Đường, Tống niềm cố quận, dâng tận trời
xanh nỗi cảm hoài khôn nguôi của muôn trùng sông lạnh. Tiếng sóng từng thao thức
vỗ bạc đầu cha ông ta suốt những đêm trường u uẩn, làm mất ngủ cả câu thơ còn tức
tưởi sóng ngầm, đau nỗi đau bị dìm trong sách vở, dìm cả tiếng kêu sông nước
trong vần điệu: "Muôn trùng khói sóng, một tấm lòng son - Yên ba vạn lý
đan tâm thốn" (Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi một mình ngồi suông, một
mình ngồi chật cả thời đại hẹp hòi hiềm khích, nghe sông nổi da gà hoang lạnh
khói hoàng hôn: "Ngùn ngụt sông lạnh chiều hôm nổi khói - Nhiễm nhiễm hàn
thanh khỉ mộ yên". Thậm chí khi Ức Trai ngủ rồi, tiếng sóng vẫn không tha
giấc mộng, vẫn vỗ niềm xô dạt lưu lạc, làm lạnh toát cả niềm mơ: "Trên gối
tiếng thủy triều đập vào mộng nghe lạnh lùng - Chẩm thượng trào thanh nhập mộng
hàn". Cao Bá quát sau này nhìn sông Nhị Hà cũng ớn lạnh nỗi xưa nay:
"Quan hà lồng lộng gợi lên bao ý nghĩ cổ kim - Hạo hạo quan hà kim cổ
ý".
Nguyễn
Du ngồi tận Thái Bình mà nghe được tiếng sóng trên sông Lam quê hương, một tiếng
sóng tưởng vô tình mà không vô tình, tưởng lạnh mà không lạnh, tưởng tống biệt
mà không hề tống biệt: "Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim". Ngay cả Đường
thi cũng chưa chắc có một câu thơ nào hay đến như vậy viết về tiếng sóng. Nguyễn
Du cụ thể hóa, siêu hình hóa, thi ca hóa, triết học hóa, tâm linh hóa, thiền thức
hóa tiếng bước chân vô định thời gian qua một nhát sóng lạnh. Con sóng vừa sinh
ra đã bạc đầu, vừa kêu lên, ới lên một tiếng như gọi đò, như kẻ chết đuối chợt
nhô lên kêu cứu đã vội chìm nghỉm, đã mất hút, đã tan ra ngay trong một sát-
na.
Tiếng
sóng ấy vừa khóc chào đời vừa khóc lời vĩnh biệt thế gian. Nguyễn Du
thân phận hóa mình vào con sóng lạnh bên trời Nam Đài: sinh ra là để tiễn chính
mình, tiễn cả cái chợt có chợt không, tiễn cả hợp và tan cùng một lúc. Nhà thơ
nghe tiếng sóng ấy trong thì hiện tại, thực ra là một thì tống biệt. Cái ta tưởng
hiện hữu, hiện thời đó thực ra đang tự xé làm hai mảnh: quá vãng và vị lai. Thường
tình, khi nhắc đến tiễn đưa, ta thường nghĩ đến cái sắp qua, cái đã qua. Nhưng
Nguyễn Du cảm nhận niềm đưa tiễn ấy trong cả cái sắp tới. Bởi vì cái đang đến,
sắp đến kia sẽ chỉ một giây thôi, chưa kịp thành thực tại đã vụt biến ra quá khứ
mất rồi. Ba thì của thời gian trong tiếng sóng tâm linh Nguyễn Du sao giống kiếp
người, vừa thực vừa không thực, vừa hợp vừa tan, sinh mà diệt, diệt mà sinh.
Nhà thơ thấy trong quả vị lai kia đã có nhân quá khứ.
Tiếng sóng sinh ra là để đưa tiễn chính
mình cũng là để vừa tiễn cái "cổ", vừa tiễn cái "kim". Ôi
chao, thân phận tiếng sóng Nguyễn Du sao khắc nghiệt là vậy: vừa sinh ra đã hết
thời, chưa kịp thành "kim" đã hóa "cổ", chưa kịp thành nhân
đã vội vong thân. Tiếng sóng lấy quá khứ
làm tương lai, lấy cái đã thành làm cái sắp thành ? Chừng như với Nguyễn
Du, thời gian chẳng qua chỉ là một yếu tố ảo, ba thì là một, một là ba vừa có lại
vừa không. Nhưng tâm hồn ông, niềm thao thức với con người nơi ông còn vỗ mãi
trong lòng hậu thế những tiếng sóng vô cùng ấm lạnh của thi ca.
Chúng
ta trong mùa xuân này rất nên mượn câu thơ thần diệu Nguyễn Du "Nhất phiến
hành thanh tống cổ kim" mà tiễn đưa một năm cũ. Tiếng sóng lạnh Nguyễn Du
chừng như đã, đang và sẽ còn vỗ làm bồn chồn mọi cuộc tiễn đưa, dù là cuộc đưa
tiễn của thiên nhiên hay của con người. Thi ca nói cho cùng cũng chính là cuộc
tiễn đưa của xúc cảm tâm hồn con người thông qua ngôn từ vần điệu: chia tay với
cồn cào này để nhận lấy một cồn cào khác.
Chừng
như Nguyễn Du chính là tiếng kêu đoạn trường của con sóng thời gian, đang nghẹn
ngào vỗ nên lời đưa tiễn cái phút giây và cái nghìn năm về quá khứ? Đồng thời,
tiếng sóng thi ca "nhất phiến hàn thanh " ấy cũng đang tiễn hồn thơ
ông về lại phía tương lai, phía con người. Chừng như mỗi chúng ta cùng theo
Nguyễn Du mà tiễn mình về muôn phía, đặng tiếp tục tự vần vũ mình và vần vũ
nhau như sóng bập bùng trên dòng sông
sinh diệt. Chúng tôi xin mượn câu thơ Ngô Thì Nhậm mà ngậm ngùi thương một tiếng
sóng Nguyễn Du, cũng là để làm lời tiễn đưa tiếng con sóng nhất thời về sông
vĩnh cửu : "Nước vốn không tiếng mà lại có tiếng/ Vì ai mà kêu ầm ì mãi
trên sông kia - Thủy bản vô thanh, khước hữu thanh/ Tăng oanh giang thượng vị thùy
minh" .,.
T.M.H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét