VỀ BÀI THƠ “MỜI TRẦU" CỦA HỒ XUÂN
HƯƠNG TRONG BÀI VĂN MẪU DO GS. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH SOẠN
Trần
Mạnh Hảo.
Trên báo GĐ&XH số 100, trong bài “ Những phát hiện của Trần Mạnh Hảo chỉ đáng tầm dọn vườn” GS. Nguyễn Đăng Mạnh bảo chúng tôi là “con khỉ” mượn “oai hùm”. Trong báo GĐ&XH số 107, ngày 6-9-2003 , TS. Đỗ Ngọc Thống học trò của GS. Mạnh, bắt chước GS, lại gọi chúng tôi là “con gà” trong bài “Có con gà cứ tưởng tiếng gáy của mình làm trời sáng”. Trên báo “Ngày Nay”, số 17, ngày 5-9-2003, ông Văn Giá gọi chúng tôi là diều, là quạ...Cứ đà này, cuộc tranh luận giữa chúng tôi và các GS, GS.TS có thể còn biến Trần Mạnh Hảo thành những con bò con trâu, thậm chí chó, mèo, dê, ngựa, rắn, thỏ, ngan, ngỗng... không chừng. Thảo nào, trên báo “Văn Nghệ Trẻ”số 23, ngày 7-6-2003, ông Đỗ Ngọc Thống với tư duy coi người khác là “con gà” con qué, đã ví văn Nguyễn Tuân là loại văn cao sang với món thịt chó ! Chính vì để giúp ông GS. Mạnh và ông TS.Thống ( nghe nói ông này đã được phong hàm GS.) khỏi phải tranh luận với “con khỉ”, “con gà”, chúng tôi gửi đăng báo bài phê bình cách bình văn còn nhiều sai sót của hai ông GS. Mạnh và ông TS.Thống, mong hai vị trao đổi lại; một là để thay đổi không khí, hai là để chứng minh rằng chân lý bao giờ cũng cụ thể; xin mời hai ông trở lại với học thuật, thay vì cứ phải mắng người khác là khỉ, là gà, làm độc giả nghĩ không hay về giới cầm bút, về cách ăn nói hàm hồ tầm bậy của các vị GS.TS trong ngành giáo dục đang bị mất giáo dục nhất.
Đây
là tập văn mẫu dùng cho học sinh trung học : "217 ĐỀ VÀ BÀI VĂN " của
4 đồng tác giả do GS. Nguyễn Đăng Mạnh ( chủ biên), TS. Đỗ Ngọc Thống, TS. Hà
Bình Trị, Chu Văn Sơn, dày 627 trang, do NXB Đại học quốc gia Hà Nội tái bản với
số lượng lớn năm 2000, là một cuốn sách còn quá nhiều vấn đề phải bàn lại. Ngay
việc tung ra hàng trăm bài văn mẫu cho học sinh, liệu có khiến triệt tiêu hết
khả năng sáng tạo độc lập của các em khi tiếp nhận thẩm mỹ văn chương hay
không, cũng là điều cần phải làm cho rõ. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
muốn trao đổi với GS. Nguyễn Đăng Mạnh cùng các tác giả tập văn mẫu về bài :
" Phân tích bài thơ mời trầu của Hồ Xuân Hương" từ trang 53 đến trang
59 ( sách đã dẫn).
MỜI TRẦU
Quả cau nho nhỏ miếng trầu
hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Trước
khi phân tích bài thơ, tác giả bài văn mẫu mở bài quá dài, với một số khái quát
về thơ Hồ Xuân Hương chưa chuẩn xác. Khi tác giả nói Hồ Xuân Hương tuyên chiến
với thói trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến thì đúng. Nhưng khi tác giả
bài văn mẫu viết như thế này về thơ Hồ Xuân Hương thì chưa đúng, không đúng :
"... Hồ Xuân Hương tuyên chiến với một thứ khuôn phép, chuẩn mực của xã hội
đẳng cấp phong kiến đã trở thành trái tự nhiên, phi đạo lý, bằng những vần thơ
ngang ngược, oái oăm, bằng cái tôi ngông nghênh kiêu ngạo của mình :" Khéo
khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ - Lại đây cho chị dạy làm thơ "; "Ghé mắt
trông sang thấy bảng treo - Kìa đền thái thú đứng cheo leo - Ví đây đổi phận
làm trai được - Thì sự anh hùng há bấy nhiêu " ( chữ nghiêng đậm trong bài
do TMH nhấn mạnh )...
Mấy
câu thơ trích dẫn trên không dính dáng gì đến kết luận của tác giả . Hai câu đầu
là bài thơ nữ sĩ diễu đám học trò nhỏ học hành không ra sao, lại hay ghẹo gái;
tuy là diễu nhưng vẫn thông cảm, ưu ái. Bốn câu thơ sau là bài thơ chê bai, thậm
chí chửi xéo Sầm Nghi Đống, thái thú của quân xâm lược nhà Thanh là quân hèn
nhát.
Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh khái
quát thơ Hồ Xuân Hương là "ngang ngược, oái oăm, ngông nghênh kiêu ngạo
" là áp đặt, là chưa hiểu thơ bà. Ngay khi dẫn câu thơ trong bài "Dỗ
người đàn bà khóc chồng " : " Nín đi kẻo thẹn với non sông", tác
giả bài văn mẫu tỏ ra không hiểu chính bài thơ và câu thơ này bằng một lời bình
lạc lõng : "... Thậm chí thách thức với cả vũ trụ càn khôn".
Do
chưa nắm được bản chất nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương như những đánh giá vừa dẫn,
tác giả lại đưa ra những kết luận vừa suy diễn, vừa theo kiểu phê bình xã hội học
dung tục, nâng tiếng thơ trào lộng trữ tình bi hài của cá nhân bà thành phong
trào quần chúng và những ấm ức cần giải toả của lịch sử dân tộc, của xã hội
theo quan niệm vô thức xã hội của Carl Jung, bằng những lời đao to búa lớn như
sau : " Tuy nhiên, nếu Hồ Xuân Hương là tiếng nói đanh thép, dõng dạc của
phong trào quần chúng hùng mạnh, quyết liệt nhất thì đồng thời cũng là sự thể hiện
nỗi ấm ức, bực bội không giải toả được của lịch sử một dân tộc tuy khủng hoảng
sâu sắc nhưng chưa tìm ra lối thoát ". Viết như thế, hoá ra Hồ Xuân Hương
bỗng trở thành biểu tượng giải phóng xã hội và dân tộc, thành nhà cải cách của
quần chúng (!)
Phần
mở bài đã được tác giả viết quá dài, quá linh tinh, gần một nửa bài viết, toàn
đưa ra những kết luận không đúng về thơ Hồ Xuân Hương. Khi vào thân bài, tác giả
lại lạc đề gần hết một trang, đưa ra nhiều nhận định không đúng khác , ví như kết
luận rất sai về Thơ Đuờng như sau : " Thơ Đường thường thiên về tính trừu
tượng khái quát, ít khi miêu tả chi tiết cụ thể. Do đó Thơ Đường cũng ít dùng đến
những màu sắc cụ thể đập mạnh vào cảm giác người đọc. Thơ Đường thiên về trí tuệ
nên thường chỉ gợi liên tưởng chứ ít miêu tả trực tiếp".
Chỉ
cần đọc ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng đủ thấy kết luận trên về Thơ Đường
của tác giả bài văn mẫu này là một kết luận không đúng.
Khi
tác giả viết như dưới đây thì có vẻ như đã thẩm được bài thơ "Mời trầu
" : " Cho nên đọc kỹ, lắng kỹ từng câu thơ Mời trầu mà xem, có phải đằng
sau cái đanh đá, đáo để, vẫn còn một tấm lòng khát khao tha thiết và một giọng
khiêm tốn nhún nhường ( Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi - Này của Xuân Hương mới
quệt rồi ) và không phải không có một cái gì như xót xa cay đắng mà nhà thơ
không hoàn toàn che dấu nổi ( Có phải duyên nhau thì thắm lại - Đừng xanh như
lá bạc như vôi)..
Bài
thơ "Mời trầu" khá dễ hiểu, tình cảm và ý tưởng của nữ sĩ hầu như đã
là một vỉa quặng lộ thiên. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi tác giả bài văn mẫu này
là các ông GS. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Chu Văn Sơn tỏ ra không muốn hiểu
bài thơ, lại đưa ra những lời phân tích áp đặt, sai lạc tinh thần bài thơ đến cỡ
thế này là cùng : "... Mời trầu người ta, lẽ ra thì phải mềm mỏng, dịu
dàng và phải bẽn lẽn một chút, Xuân Hương không thế, cái tôi dõng dạc xưng tên
:" Này của Xuân Hương mới quệt rồi..."..."...Vậy mà nhà thơ nữ của
chúng ta dõng dạc :" Này của Xuân Hương". Rõ ràng là một sự thách thức
táo bạo trước dư luận xã hội. Đã thế lại còn đóng dấu ấn cá nhân vào miếng trầu
đưa cho người một cách rất ít mềm mỏng : " Này của Xuân Hương mới quệt rồi".
Quệt cũng như têm thôi (têm trầu), nhưng quệt tỏ ra suồng sã hơn, bướng bỉnh và
ngang ngược hơn, không muốn khiêm tốn một chút nào. "Có phải duyên nhau
thì thắm lại". Nhau tuy có giọng thân mật đấy nhưng hoàn toàn bình đẳng. Đến
câu tiếp theo không còn là giọng mời chào nữa, mà là một lời mắng hẳn hoi. Mời
ăn trầu mà cứ như mắng người ta, dù là mắng yêu đi nữa, thì cũng chỉ có Xuân
Hương thôi :" "đừng xanh như lá bạc như vôi !" ( hết trích)
Tác
giả bài văn mẫu sợ người đọc chưa tiếp nhận được "phát kiến" mới của
mình trong việc giải mã câu cuối bài thơ, bèn tuyên bố một lần nữa, như muốn
khép lại bài phân tích thơ một cách hùng hồn rằng :" "Đừng xanh như
lá bạc như vôi " . Đúng thế, mời mà như mắng người ta ".
Viết
như thế, các tác giả bài luận văn trên quả là không hiểu bài thơ "Mời trầu",
một bài thơ trữ tình dịu dàng và tình cảm nhất của Hồ Xuân Hương. Từ "Mời
trầu", tác giả bài văn mẫu đã chuyển hệ cho Hồ Xuân Hương sang kênh
"mắng trầu", có thể biến nữ sĩ trở thành hình ảnh của kẻ vô duyên, bỗ
bã, nhố nhăng ? Bình thơ như trên, phải chăng là mẫu mực của nghệ thuật giảng
văn trong nhà trường trung học, nơi "các ông vua" soạn văn mẫu là
Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Chu Văn Sơn sinh ra để làm hỏng môn văn, nhồi
nhét vào đầu học sinh cả nước những "kiến văn" bậy bạ, láo lếu, cốt
bán sách văn mẫu lấy tiền. Riêng việc các ông thầy phản văn, phản giáo dục này
sinh ra thứ VĂN MẪU đã là một đòn chí mạng đánh vào việc dạy văn vậy !
Chúng
tôi xin mượn lời của GSTS Trần Đình Sử in trên trang 8, cột 1, dòng thứ 18 đến
dòng thứ 22 viết trong bài “Chúng ta đang tụt hậu” trên tờ “An Ninh thế giới cuối
tháng 8-2003” nói về cách làm văn phản văn như kiểu GS. Mạnh, TS. Thống và 2 đồng
tác giả khác bình bài thơ “Mời trầu” trên, như sau :” Tôi nói không thể chấp nhận
chương trình làm văn như thế. Bởi vì việc làm văn như thế khác nào bắt các em
quay mặt vào văn học, quay lưng lại với đời sống...”.,.
T.M.H.
………………….
GS. HÀ MINH ĐỨC SẮP ĐƯỢC HAI GIẢI THƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ MỘT CÔNG TRÌNH KHÔNG PHẢI KHOA HỌC, CŨNG KHÔNG PHẢI VĂN HỌC
Trần
Mạnh Hảo
Trong
danh sách các tác giả được giải thưởng văn học Hồ Chí Minh năm 2011 (HCM), do http://lethieunhon.com đưa, thấy giới
thiệu về GS. Hà Minh Đức như sau: “Cụm tác phẩm thơ văn báo chí Hà Minh Đức, cụm
tác phẩm văn hóa nghệ thuật”. Như vậy, G.S. Hà Minh Đức sẽ được giải thưởng văn
học Hồ Chí Minh toàn bộ tác phẩm của mình.
Nếu
thơ của GS. Hà Minh Đức được giải thưởng văn học HCM thì đấy là một cách tốt nhất
để hạ bệ các nhà thơ từng được giải này như: Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Nguyễn Bính… Vả, nếu thơ của GS. Hà Minh Đức được giải văn học HCM,
chắc chắn sẽ tạo tiền đề cho thơ của các ông Hồng Vinh, Trần Gia Thái giật giải
văn học HCM đợt sau (vì thơ hai ông Vinh và Thái đều đã được ông Hữu Thỉnh bốc
thơm)
Trong
bài viết này, chúng tôi xin phê bình cuốn giáo trình của GS. Hà Minh Đức: “Một
nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình phong phú” để
chứng minh nó không phải là tác phẩm văn học, cũng không phải là tác phẩm mang
tính khoa học, sao lại được hai giải thưởng văn học HCM, khoa học công nghệ
HCM?
Trước
khi vào bài viết, xin quý bạn đọc tham khảo tin GS. Hà Minh Đức sẽ được hai giải
thưởng HCM trong năm 2011 này: giải văn học và giải khoa học công nghệ cho cùng
một công trình ( cùng những cuốn sách). Đây là thông tin của báo Văn hóa
online:
Về
thông tin: “Một tác giả được đề nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh ở cả hai
lĩnh vực VHNT và KHCN” (17/10/2011)
VH-
Sau khi Báo Văn Hoá số 2063 ra ngày 7.10.2011 đăng tin: “Một tác giả được đề
nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh ở cả hai lĩnh vực VHNT và KHCN”, nhiều bạn
đọc đã gọi điện về toà soạn đề nghị cho biết rõ hơn về trường hợp của GS Hà
Minh Đức như tin đã đưa.
Đa
số các câu hỏi xoay quanh vấn đề: “Cùng một tác giả có 3 công trình trùng nhau
trong đề cử giải thưởng ở 2 lĩnh vực khác nhau như vậy có đúng với quy định hay
không?...”.
Để
có cơ sở trả lời bạn đọc, phóng viên Văn Hoá đã liên lạc với đại diện Bộ KHCN-
cơ quan thường trực của Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh
và Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2010.
Trả
lời về vấn đề này, ngày 15.10.2011, đại diện Vụ Khoa học Xã hội và Tự nhiên- Bộ
KHCN cho biết đã báo cáo về trường hợp của GS Hà Minh Đức lên Chủ tịch Hội đồng
cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về Khoa học
và Công nghệ năm 2010 là TS Nguyễn Quân- Bộ trưởng Bộ KHCN.
Những
công trình của GS Hà Minh Đức được đề cử ở cả hai lĩnh vực.
Vị
đại diện này cho biết, sau khi đối chiếu, so sánh danh mục các công trình được
đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh ở 2 lĩnh vực công bố công khai theo quy định,
đúng là có một số công trình của GS Hà Minh Đức được đề cử ở cả 2 lĩnh vực (đó
là các công trình Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh; Báo chí Hồ Chí Minh, chuyên luận
và tuyển chọn; Một nền văn hóa, văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại
hình nghệ thuật phong phú- P.V).
Dự
kiến, tuần này Hội đồng sẽ có cuộc họp xem xét về trường hợp này- vị đại diện
này cho biết.
P.V
http://www.baovanhoa.vn/VANHOAVANNGHE/39917.vho
Cùng
những cuốn sách (công trình), sao tác giả Hà Minh Đức lại xin xét giải thưởng ở
hai nơi, ở hai hội đồng: khoa học công nghệ và văn học để xin được giải thưởng
HCM?
Một
tác phẩm mang tính khoa học công nghệ, hầu như không phải là tác phẩm văn học
và ngược lại. Trừ những công trình, những cuốn sách có tính cắm mốc về giáo
khoa văn học, về lý luận và phê bình văn học không chỉ thuần mang tính phổ biến
kiến thức mà còn hấp dẫn với tính thẩm mỹ cao, đưa ra những phát hiện mới mẻ
mang tính sáng tạo mới, khái quát cao có thể vừa là khoa học vừa là văn học. Những
cuốn sách như vậy ở nước ta hơi bị hiếm, trừ một số công trình của GS. Dương Quảng
Hàm, Hoài Thanh, Nguyễn Hiến Lê…
Xin
quý bạn đọc cùng chúng tôi khảo sát cuốn giáo trình “Một nền văn hóa văn nghệ đậm
đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú” (NXB Khoa học xã hội
-2005)
Tiêu
đề cuốn sách này của GS. Hà Minh Đức là một mệnh đề của nghị quyết, được lặp đi
lặp lại trong các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam: “Xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”:
“16.
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA VIII) VỀ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Số
03/NQ-TW ngày 16/7/1998”
http://www.na.gov.vn/sach_qh/chinhsachpl/phan1/p1_iv_16.html
Cuốn
sách 277 trang, gồm năm chương và một số bài báo lẻ của GS. Hà Minh Đức này nhằm
triển khai tinh thần nghị quyết đảng trong văn hóa văn nghệ, chứng minh cho nghị
quyết đảng về văn hóa là hết sức đúng đắn và sáng suốt vô cùng. Hầu như trong
toàn bộ cuốn sách, GS. Hà Minh Đức chưa có một sự sáng tạo cá nhân, phát hiện
những yếu tố mới mang tầm khái quát mới về văn hóa văn nghệ, mà toàn lặp lại những
ý có sẵn trong nghị quyết, hoặc nhắc lại ý kiến những tác giả khác. Lối hành
văn là lối viết giáo trình, khô khan, buồn tẻ, thậm chí nhạt nhẽo, viết ra cốt
chỉ nhằm minh họa nghị quyết; ví dụ:
“Điều
quan trọng nhất đối với một nền văn hóa là hai yếu tố TIÊN TIẾN và ĐẬM DÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC (chữ in hoa là chữ của nghị quyết đảng- TMH nhấn mạnh).Tiên tiến nói
lên trình độ cập nhật, tiêu biểu, định hướng đúng đắn về tương lai, chất lượng
hoàn thiện và cao đẹp của một nền văn hóa, cái thế chiếm lĩnh, vươn tới của văn
hóa. Đậm đà bản sắc dân tộc nói lên đặc điểm bản chất của một nền văn hóa dân tộc,
cái tương đồng và khác biệt đối với một nền văn hóa khác, tinh hoa và sự quy tụ
của văn hóa dân tộc, sự tồn tại bền vững những giá trị riêng, không thể pha trộn,
hòa lẫn với các cộng đồng khác. Nền văn hóa Việt Nam được xem là nền văn hóa có
bản sắc. Ở một tiểu vùng mà văn hóa của một vài nước lớn dễ chi phối, o ép ảnh
hưởng, và có xu thế đồng hóa bộc lộ rõ các quan hệ giao lưu ở các thời kỳ lịch
sử, nhưng văn hóa Việt Nam vẫn tồn tại bền vững và có bản sắc”… (trang 11)… ”Từ
sau cách mạng tháng tám, khi nhân dân đã có ý thức sâu sắc về quyền làm chủ vận
mệnh của mình và từng năm tháng thoát dần khỏi cảnh đói nghèo, thì cái tâm, cái
thiện, cái mỹ ngày càng nảy nở trong cuộc sống. Người tốt việc tốt trở thành
quen thuộc, phổ biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhạy cảm và sớm chỉ ra hướng động
viên và giáo dục mọi người bằng những tấm gương người tốt việc tốt là có cơ sở
xã hội và có căn cứ thuyết phục về đạo lý” (trang 63)….” Đường lối văn nghệ của
đảng đã chỉ rõ phương hướng khai thác và tiếp nhận di sản văn hóa văn nghệ. Từ
sau cách mạng, chúng ta bước đầu luận bàn vấn đề này. Hòa bình lập lại, những
hình thái khai thác, phục hồi, cải biên vốn cổ được tiến hành với tinh thần
nghiêm túc, khoa học. Tuy nhiên, nhiều vấn đề vẫn đang còn ở phía trước. Khôi
phục truyền thống, nhưng khôi phục xong rồi sẽ phát triển chúng theo hướng nào,
phát huy những giá trị truyền thống với thời hiện đại như thế nào? Không tránh
khỏi nhiều giá trị văn hóa truyền thống như bị đóng băng không phát huy được
vào việc nâng cao nhận thức và cảm hóa người đọc hôm nay” (trang 215)…
(hết trích)
Có
thể nói, lối hành văn trong cuốn sách này của GS. Hà Minh Đức là lối hành văn
báo chí, văn nghị quyết… không phải lối viết mỹ cảm đầy chất văn của một nhà lý
luận phê bình văn học đúng nghĩa.
Nếu “công trình” “Một nền văn
hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú”
mà được giải HCM về văn học, thì tất cả các nghị quyết đảng đều xứng đáng nhận
giải văn học HCM.
Chúng
ta thử tìm coi, nếu cuốn sách này của GS.Hà Minh Đức được giải HCM về khoa học
công nghệ, liệu có xứng đáng không?
Xét
về khía cạnh khoa học nghĩa là ta cần xem xét những kết luận của tác giả có
đúng không, có logic không?
Ở
trang 17 và 18, tác giả viết: “Trên thế giới có những dân tộc hình thành từ nhiều
ngàn năm lịch sử như Hi Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. Có dân tộc lịch
sử chỉ mới hình thành vài trăm năm như Mỹ, Canada” .
Kiến
thức sơ đẳng của GS. Hà Minh Đức ở chỗ này không ổn, khi GS. cho dân tộc Mỹ và
Canada mới có lịch sử vài trăm năm nay. Nước Mỹ lập quốc vào ngày 4-7-1776 và
nước Canada tuy lập quốc vào ngày 01-7-1867 nhưng người châu Âu: Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Anh, Ý… đã di dân từ châu Âu qua châu Mỹ từ đầu thế kỷ thứ 17. Như vậy
là văn hóa châu Âu đã theo những người dân châu Âu đổ bộ qua lục địa mới này tới
ngót 400 năm. Nói “lịch sử dân tộc Mỹ, Canada mới có 200 năm” là sai; vì rằng
hai nước này là hai nước di dân, đa sắc tộc, lịch sử, văn hóa của họ phải tính
từ thời Hi Lạp, La Mã mới đúng.
Trang
30, sách của GS. Hà Minh Đức nêu ra một mệnh đề theo chúng tôi là rất thiếu
tính khoa học, khi ông viết: “Văn hóa phải có ích, phục vụ cho đất nước, cho
nhân dân. Văn hóa văn nghệ không thể ở ngoài chính trị”
Chính
những quan niệm ấu trĩ này đã phần nào làm hỏng nền văn hóa văn nghệ Việt Nam
đương đại.
Về
những quan niệm Mao-ít sai lầm: “Chính trị là thống soái”… ”Súng đẻ ra chính
quyền”, “mâu thuẫn luận”, “Trí thức không bằng cục phân”… “Văn nghệ phục vụ
chính trị” của Mao Trạch Đông thời “văn nghệ Diên An” đã từng du nhập vào nước
ta sau chiến dịch biên giới thu đông 1949-1950… đã dần dần làm tha hóa nền văn
hóa văn nghệ nước nhà.
Trước
hết, theo quan điểm Mác-xít, quan niệm “văn nghệ phục vụ chính trị” của Mao Trạch
Đông là một quan điểm phản động. Theo triết học Mác, văn hóa, văn nghệ, triết học,
sử học, chính trị, khoa học, tôn giáo, đạo đức… đều là những hình thái ý thức
xã hội, cùng nằm trên một mặt bằng có tên là thượng tầng kiến trúc. Những hình
thái ý thức xã hội trên tuy có tương tác, tương hỗ với nhau, nhưng không phủ nhận
nhau, không nuốt chửng hay bắt cóc nhau làm nô lệ. Bản thân văn học đã là một
hình thái ý thức xã hội độc lập, sao lại bắt nó làm tôi đòi cho một hình thái ý
thức xã hội khác là chính trị?
Việc
một số nhà cầm quyền bắt cóc hình thái ý thức xã hội có tên văn học nghệ thuật
về làm tôi tớ cho nền chính trị chuyên chế của mình là một hành vi phản phản
Mác-xít.
Cuốn
sách này của GS. Hà Minh Đức in năm 2005, sau nền văn nghệ được ông tổng bí thứ
Nguyễn Văn Linh cởi trói (1986) mười chín năm, mà sao giáo sư vẫn giữ quan niệm
phi khoa học xưa cũ? Thiết tưởng, chỉ cần quan điểm này làm tư tưởng chi phối
cuốn sách của GS.Hà Minh Đức, thì việc người ta sắp trao cho giáo sư giải thưởng
HCM về khoa học công nghệ sẽ càng chứng tỏ sự phản tác dụng của giải thưởng
này.
Chính
ra nên trao giải thưởng khoa học công nghệ Mao Trạch Đông cho GS. Hà Minh Đức
vì giáo sư đã có công tôn vinh những luận điểm rất phản Mác-xít của Mao là khẩu
hiệu trong Mao tuyển: “Chính trị là thống soái”… ”Văn nghệ phục vụ chính trị”.
Ngay cả ở Trung Quốc lục địa, người ta đã dùng thực tế bác bỏ các tư tưởng Mao
như vừa nêu trên. Chỉ còn mình GS. Hà Minh Đức và một vài vị khác “bảo hoàng
hơn vua” ở Việt Nam, ở Bắc Triều Tiên là vẫn còn tôn sùng tư tưởng Mao Trạch
Đông mà thôi.
Khi
GS.Hà Minh Đức viết: “Văn hóa văn nghệ không thể ở ngoài chính trị”… là một mệnh
đề phi khoa học, sao lại được trao giải thưởng HCM về khoa học công nghệ. Chúng
tôi xin chứng minh.
Văn
hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần của con người sáng tạo ra trong
hành trình lịch sử. Chính trị hóa toàn bộ sản phẩm vật chất và tinh thần của
nhân loại, của dân tộc là một sự phỉ báng văn hóa. Nếu chính trị thò bàn tay cơ
hội vào tôn giáo ngay từ thời khai sinh ra mỗi tôn giáo, thì nó đã đưa vua La
Mã lên thờ chứ không phải thờ một người thợ mộc nghèo khổ, ít học đòi giải
phóng nô lệ bằng tình thương là Chúa Jesus như bây giờ; thì nó đã đưa vua Ấn Độ
lên thờ, chứ không phải đưa một người hành khất đi tìm chân lý là Đức Phật lên
thờ như hôm nay; thì nó đã đưa vua nước Sở lên thờ chứ không phải đưa Lão tử cưỡi
trâu ngao du thiên hạ lên thờ như Đạo giáo… bên Trung Hoa…
Nếu
triết học bị chính trị hóa từ thời cổ đại thì nhân loại không còn triết học nữa.
Nếu
nhân loại bị chính trị hóa đạo đức từ thời cổ đại thì không còn đạo đức nữa.
Nếu
sử học bị chính trị hóa thì không còn lịch sử nữa.
Nếu
tôn giáo bị chính trị hóa thì không còn tôn giáo nữa.
Nếu
các tập tục, thuần phong mỹ tục của dân tộc bị chính trị hóa thì không còn tập
tục, không còn thuần phong mỹ tục nữa.
Nếu
nền giáo dục bị chính trị hóa thì không còn giáo dục nữa.
Nếu
pháp luật (hiến pháp) bị chính trị hóa thì không còn pháp luật (hiến pháp) nữa.
Nếu
tòa án bị chính trị hóa thì không còn tòa án nữa.
Nếu
nền báo chí bị chính trị hóa thì không còn nền báo chí chân chính nữa.
Nếu
luật sư bị chính trị hóa thì không còn luật sư nữa.
Nếu
đêm tân hôn bị chính trị hóa thì không còn đêm tân hôn nữa.
Nếu
đám ma bị chính trị hóa thì không còn đám ma nữa.
Nếu
đám giỗ bị chính trị hóa thì không còn đám giỗ nữa.
Nếu
thi ca bị chính trị hóa thì không còn thi ca nữa.
Nếu
đám cưới bị chính trị hóa thì không còn đám cưới nữa.
Nếu
tình yêu bị chính trị hóa thì không còn tình yêu nữa.
Nếu
một tâm hồn bị chính trị hóa thì không còn tâm hồn nữa.
Nếu
hành vi chăn gối bị chính trị hóa thì không còn chuyện chăn gối nữa…
Nói
tóm lại, theo mỹ học Mác-xít, nếu CÁI ĐẸP bị chính trị hóa thì đó là CÁI ĐẸP
VONG THÂN, tức không còn CÁI ĐẸP nữa.
Điều
quan trọng nhất cho nước ta hiện nay là:
NẾU
CHÍNH TRỊ HÓA KINH TẾ THÌ KHÔNG CÒN KINH TẾ NỮA…
Thưa
GS. Hà Minh Đức, chính nền kinh tế bị chính trị hóa toàn phần thời bao cấp đã
đưa nước ta, dân tộc ta vào thời kỳ sắp chết đói. Từ năm 1986, đảng cộng sản Việt
Nam phần nào cởi trói cho kinh tế, xóa bỏ dần khái niệm chính trị hóa kinh tế để
cho nhân dân tự do làm kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường (kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản) nên dân ta mới thoát chết đói mà có tí cơm ăn, tí áo mặc,
tí ô tôi đi, tí du lịch nước ngoài, tí cao ốc, tí ngân hàng, tí chứng khoán… đó
thưa giáo sư…
Công
cuộc giải phóng con người của chúng ta hôm nay chính là công cuộc giải phóng
các giá trị tinh thần & vật chất thoát ra khỏi dây lòi tói chính trị mà học
thuyết Mao-ít đã trói buộc bao năm.
Khái
niệm “Văn hóa… không thể ở ngoài chính trị” của giáo sư quả là đang chống lại
con người đó thưa giáo sư. Chúng tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ: sinh hoạt đi tắm,
đi toilet của con người vốn là một hành vi văn hóa. Thế thì thưa GS. Hà Minh Đức,
xin giáo sư thử giải thích dùm thế nào là kiểu đi tắm, đi toilet chính trị và
kiểu đi tắm, đi toilet phi chính trị ạ?
Chao
ôi, viết đến đây, chúng tôi mới nhớ đến và thương cho nhà thơ Tế Hanh thời Nhân
văn giai phẩm; ông chỉ nói rằng thưa các đồng chí kính mến, theo Tế Hanh tôi
thì cái bông hoa đẹp kia, ánh trăng rằm đẹp kia nằm ngoài chính trị ạ; rằng ai
ngắm hoa, ngắm trăng cũng thấy thoải mái và nhẹ cả mình vì được cái đẹp làm sảng
khoái ạ. Lập tức nhà thơ Tế Hanh bị đấu tố trong chi bộ toàn những trí thức lớn,
nhà văn lớn như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Đấu
tố rằng, đồng chí Tế Hanh phát ngôn như vậy mà phi chính trị, phi giai cấp. Chỉ
có bọn nhà giàu, bọn tư sản địa chủ bóc lột, bọn rửng mỡ như đám giòi bọ nhân
văn giai phẩm kiểu Phan Khôi, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Thụy
An, Phùng Quán, Sĩ Ngọc, Trần Duy… mới thấy hoa kia đẹp, trăng kia đẹp. Còn bần
cố nông, còn giai cấp vô sản đang đói khổ thì căm thù hoa, căm thù ánh trăng vì
nó không thể ăn cho đỡ đói được. Các đồng chí phải lên án bọn duy mỹ, bọn Nhân
tính chung chung (tính người chung chung)… đều là bọn phản động…
Việc
tuyệt đối hóa tính hữu ích của văn hóa văn nghệ như giáo sư đã viết: “Văn hóa
phải có ích…” là một nhận định chưa thể tất, nếu như giáo sư nghiên cứ kỹ mỹ học
và mỹ học Mác-xít. Nói chung, trong phạm trù CÁI ĐẸP, thường hàm chứa cái có
ích. Nhưng thái độ thực dụng quá mức trước cái đẹp là một thái độ làm tổn
thương chính CÁI ĐẸP BẤT VỤ LỢI. Con người không phải khi nào thưởng thức cái đẹp
cũng chỉ nhăm nhăm tìm cái có lợi. Người ta đọc một cuốn sách văn học không nhằm
tìm một chân lý, tìm một nhận thức mới hay để được dạy bảo, được giáo dục mà cốt
để giải trí. Một lối sống vu lợi, vị lợi là một lối sống khó tìm ra CÁI ĐẸP
trong đời.
Trang
70, sách của GS. Hà Minh Đức có đoạn viết: “Cái đẹp cũng phù hợp với lợi ích của
dân tộc, lợi ích của cộng đồng và những người thân thuộc. Cái đẹp thoát ly, viển
vông, mang tính chất nghệ thuật vị nghệ thuật cũng là xa lạ với tâm lý thưởng
thức quen thuộc”.
Thưa
GS. Hà Minh Đức, khái niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” và khái niệm “nghệ thuật
vị nhân sinh” là những khái niệm phi khoa học, xa lạ với mỹ học Mác-xít. Văn học
nghệ thuật vốn là một hình thái ý thức xã hội do con người sáng tạo ra để phục
vụ chính nó; nên nghệ thuật từ trong bản chất chẳng vị nghệ thuật, cũng chẳng vị
nhân sinh. Việc dùng những nội hàm ảo tạo ra những khái niệm không có thật “nghệ
thuật vị nghệ thuật”, “nghệ thuật vị nhân sinh” chính là phương cách hữu hiệu
nhất đuổi nghệ thuật ra khỏi hiện tồn con người vậy.
Trang
94, sách của GS. Hà Minh Đức, có đoạn viết: “Những tác giả văn xuôi tiêu biểu
như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi vẫn tỏ ra sung sức, dồi dào bút lực
khi trở về với mảng đề tài trước cách mạng tháng tám. Với cách suy nghĩ và nhận
thức mới về cuộc sống của một thời kỳ lịch sử đã qua nhiều tiểu thuyết với kích
cỡ lớn đã được xây dựng. Nguyên Hồng với bộ Cửa Biển, Nguyễn Đình Thi với Vỡ Bờ,
Tô Hoài với Mười Năm đã đóng góp vào sự phát triển của tiểu thuyết những giá trị
mới”
Phải
nghiêm túc mà nói với nhau rằng, ba cuốn sách của ba tác giả Nguyên Hồng, Nguyễn
Đình Thi, Tô Hoài được GS. Hà Minh Đức ca ngợi trên đều là những cuốn sách minh
họa chính trị thô thiển, thiếu hẳn tính hấp dẫn tức tính nghệ thuật. Những sáng
tác của ba nhà văn lớn kể trên ra đời trước và sau năm sáu mươi thế kỷ trước, tức
sau vụ “đánh” nhân văn giai phẩm. Quan niệm văn nghệ chính thống lúc đó được
ông Hà Huy Giáp, Hà Xuân Trường, Hồng Chương, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức…cổ xúy là
quan niệm nền văn học ta phải tuyệt đối mang tính đảng, tính giai cấp, tính
nhân dân nên VĂN NGHỆ TA PHẢI TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ TÍNH BI KỊCH.
Khi
xóa sổ bi kịch, xóa sổ nỗi buồn niềm đau, những quan niệm văn nghệ tả khuynh, ấu
trĩ thời đó đã giết chết chính văn học nghệ thuật. Cho nên, khi những tác phẩm
có nội dung bi kịch tí ti, có tố chất văn học hồi đầu những năm sáu mươi như “Sắp
cưới” của Vũ Bão, “Vào Đời” của Hà Minh Tuân, “Mùa hoa dẻ” của Văn Linh, “Cái gốc”
của Nguyễn Thành Long, “Mái nhà ấm” & “Con nhện vàng” của Châu Diên, “Trăng
Sáng” & “Đôi Bạn” của Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi)… bị phê bình là tàn dư của
nhân văn giai phẩm, bị tịch thu không cho phát hành… chính là cách để goodbye
văn học đi chơi chỗ khác.
Việc
GS. Hà Minh Đức đến thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn giữ nguyên xi quan niệm “văn nghệ
phi bi kịch Mao-ít Hà Huy Giáp” để ca ngợi những cuốn sách thiếu tính nghệ thuật
trên là một quan niệm vừa phi khoa học vừa phi văn học vậy.
Nói
tóm lại, cuốn sách “Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại
hình nghệ thuật phong phú” của GS. Hà Minh Đức là một tác phẩm vừa thiếu tính
khoa học vừa thiếu tính văn học. Trao giải thưởng văn học HCM, giải thường khoa
học công nghệ HCM cho cuốn sách này thì giải thưởng danh giá kia sẽ không còn
mang tính chính danh nữa.,.
Sài Gòn ngày 20-10-2011
TMH
……………………………..
SAO LẠI RƯỚC “ĐẠO DUY ÁC” VÀO
CHÙA THỜ CHUNG VỚI ĐẠO TỪ BI, THƯA CÁC NHÀ SƯ?
Trần
Mạnh Hảo
“Chao
ôi thành Phật rồi sao nhỉ ?”
(thơ
T.M.H.)
(Viết
nhân ngày Phật đản : (15 - 04 âm lịch )
Chúng
tôi viết bài báo này trước hết để mừng lễ Phật Đản. Nhân đây cũng xin thỉnh các
thầy của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, một giáo hội của “Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”, một nhà nước vô thần, theo thuyết Marx-Lenine chủ
trương diệt tôn giáo, rằng với tiêu chí: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM - Đạo
pháp - Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” liệu có đúng với tôn chỉ đạo cứu khổ, đạo từ
bi của Phật Tổ hay không?
Đạo
Phật chủ trương duy thiện, chủ nghĩa Marx – Lenin chủ trương duy ác (xin xem
thêm hai bài viết của chúng tôi: “Bàn qua về hội chứng tuyệt đối trong chủ
nghĩa duy ác của Marx” và bài “Karl Marx ông là ai mà đầy đọa dân tộc tôi mãi
thế?” – quý vị chỉ cần đánh tên hai bài viết này vào công cụ tìm kiếm http://google.com là có thể đọc
được). Cũng xin quý bạn đọc xem qua tiêu chí của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”,
một giáo hội chủ trương hòa trộn Phật vào Marx, hòa trộn thiện vào ác, hòa trộn
từ bi vào chủ trương bạo lực (giết người) của thuyết đấu tranh giai cấp, hòa trộn
việc tôn nghiêm phát triển chùa chiền vào hành vi phá chùa, ném trôi sông tượng
Phật (sẽ dẫn chứng sau):
Giáo
hội Phật giáo Việt Nam là giáo hội Phật giáo duy nhất được chính phủ Việt Nam
công nhận hiện nay[1] và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giáo hội
được thành lập sau Đại hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại tùng lâm Quán Sứ, Hà
Nội vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 nhằm thống nhất tất cả sinh hoạt Phật giáo của
tăng ni, phật tử Việt Nam. Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VI
(2007-2012) là đại lão hòa thượng Thích Phổ Tuệ.
Phương
châm của Giáo hội là: "Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội."”
http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_h%E1%BB%99i_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3
%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
Trên
báo “Văn Nghệ” của Hội nhà văn Việt Nam số mừng tết Qúy Tỵ 2013 vừa qua, trong
bài: ”Năm tháng gọi về” của nhà văn Đỗ Chu (người vừa được giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật), có đoạn viết về việc các nhà lãnh đạo của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam hồi năm 1955, 1956 mở chiến dịch triệt phá
chùa chiền tàn khốc, cụ thể là việc phá chùa ở vùng núi Yên tử, nơi Phật hoàng
Trần Nhân Tông khai mở thiền phái Trúc Lâm của Phật giáo Đại Việt, như sau:
“Hỏi
các vị bô lão trong vùng mới biết có chùa là do Tây đốt, có chùa là do ta đốt,
ta đốt phá mới nhiều mới dữ. Một cụ chống gậy lọm khọm bước đến trước tôi kể,
chính tôi hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá cả chục ngôi chùa, tượng lớn
tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ tặc lưỡi cười rất thành thực, thì cái
thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang hăng lắm, được phong làm trưởng ban phá hoại
huyện.”
(trích
bài “ NĂM THÁNG GỌI VỀ” –ĐỖ CHU)
http://www.vanvn.net/news/9/3118-nam-thang-goi-ve.html
“Ở
làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá
trụi, không còn gì để phục hồi nữa”
(Trích
trong tác phẩn “Chuyện Làng Ngày Ấy” của nhà văn Võ Văn Trực” do NXB Lao Động ấn
hành tháng 6 năm 1993)
Người
viết bài này do trình độ yếu kém nên chưa hiểu được chuyện uyên thâm của các
quý thầy lãnh đạo “ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam” ngoài việc thờ Phật, các vị
còn thờ cả học thuyết duy ác của Marx-Lênine trong hệ thống hàng nghìn (có khi
hàng vạn?) ngôi chùa trên khắp đất nước ta là sao? Kính xin chư thầy chỉ giáo
cho kẻ vô minh này, xin cám ơn quý thầy(!)
Ngài
(Đức Thế Tôn) đến thế giới này không để làm vua, mặc dù Ngài là thế tử sẽ nối
ngôi vua cha. Ngài đến thế giới này không để làm thần linh nắm cả trời đất
trong lòng bàn tay, đặng ban phát chân lý cho mọi người. Ngài đến thế giới này
không để làm một tiên tri biết trước mọi sự, hay làm một anh hùng cứu thế, làm
một thánh nhân ngụ trong linh hồn trường tồn bất diệt.
Vâng,
Ngài đến thế giới này chỉ để làm một con người, hơn nữa là một con người nghèo
khổ, một con người bình thường như mọi con người vô danh ẩn mình trong thế giới
khổ đau. Có điều, con người mà Ngài đạt tới là một con người được tu luyện bằng
thiền định vươn tới một trí tuệ trác việt, vươn tới sự giác ngộ vượt thoát mọi
khổ đau sinh diệt vô thường. Từ con người bình thường đến Phật chừng như chỉ cần
vượt qua lằn ranh của một sợi tóc, hay một khoảng thời gian nhỏ nhất gọi là
sát-na… Dường như Ngài ( tồn tại trong phần thiện căn của Tâm tha nhân) dẫn dắt
chúng sinh đến bờ của sợi tóc ấy, sát na ấy để chúng sinh tự mình vượt qua bản
ngã (ảo ngã, hư ngã), giữ lấy chân ngã
mà thành Phật. Ngài đã vượt qua trùng trùng trở ngại để tự mình đến tới
bờ của sợi tóc ấy bằng 35 năm trầm tư mặc tưởng, khổ luyện tu hành; và trong một
sát na lóe sáng đốn ngộ, Ngài thăng hoa giác ngộ, bước qua sợi tóc kia mà thành
Phật. Sợi tóc mà Ngài đã vượt qua sau 49 ngày thiền định dưới gốc bồ đề kia, với
chúng sinh có khi là nghìn trùng sông núi…
Phật
chỉ cho ta con đường đến cõi giác ngộ nằm ở chính trong ta mà sao ta không tìm
thấy? Khi tâm ta và thân ta lạc mất nhau thì sao ta ngộ được điều kỳ diệu: “Phật
tại tâm”? Hãy ngồi xuống trong tĩnh lặng, quên đi mọi khổ đau dục vọng muộn phiền
tìm lại tâm mình đang trôi dạt ngoài cõi ta bà, để tâm nhập làm một với thân ta
mà thiền định, sẽ thấy Phật trong từ bi hỉ xả nơi chính tâm hồn mình…
Không
có môi trường đa nguyên tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do chính trị của thời
đại Ngài- tiểu vương quốc Kapilavatsu, tuyệt nhiên không thể có Phật giáo. Ngày
ấy, khi Ngài trốn (cùng đệ tử Xa-nặc) khỏi
lầu son gác tía đi tìm con đường giải thoát khỏi bể khổ trần gian vô thường, ở
thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, ngoài tư tưởng chính thống của Bà-la-môn, còn
có hai trào lưu tư tưởng khác không chính thống nhưng không bị chính quyền xua
đuổi hay cấm cản là các hiền giả không theo thuyết chân lý tuyệt đối Bà-la-môn
mà tu theo trường phái khổ hạnh hành xác; ngoài ra, một số hiền giả còn chủ
trương duy vật vô thần, chỉ tin vào chủ nghĩa khoái lạc gọi là học phái
Carvaka/Lokoyata…
Năm
35 tuổi sau 49 ngày thiền định đạt tới sự giác ngộ triệt để để thành Phật, Ngài
trả lời Bà Tất Tra trong kinh Trường A Hàm, quyển 16 như sau:
“Nếu Bà La Môn thông Tam Minh kia không
thấy Thượng Đế (Brahman), tiên sư của Bà La Môn thông Tam Minh cũng không thấy
Brahman, các Bà La Môn thông Tam Minh, những cựu tiên nhân như A Tra Ma… cũng
không một ai thấy Brahman. Thế thì biết rằng nhũng điều Bà La Môn thông Tam
Minh nói không phải sự thật”.
Ngài
thiền định để phá bỏ tiểu ngã (Atman) và đại ngã (Brahman) của Bà La Môn, phá bỏ
những gì bất biến trường tồn để thành Phật, lẽ nào khi vừa sinh ra, Ngài đã tự
phụ trỏ vào ngực mình mà nói một câu không hề có tính Phật: “Thiên thượng thiên
hạ duy ngã độc tôn” như người đời tôn sùng Ngài quá mà gán cho Ngài lời nói của
phàm phu tục tử tự cao tự đại dường ấy?
Không,
Phật không hề lộng ngôn như thế: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” là ai
đó ngụy tạo gán cho Ngài, đi ngược lại bản chất từ bi hỉ xả khiêm cung giản dị
của Ngài. Trong bài: “Thiên thượng,
thiên hạ duy ngã độc tôn ám chỉ điều gì?” của tác giả Master Duy Tuệ viết trên
Internet ngày 24/01/2010 lại xuyên tạc câu nói kia mà có ai đó từ xa xưa đã gán
cho Đức Phật, bằng cách giải thích không đúng rằng:
“Thiên
thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là câu nói của con người. Câu nói này nhằm
mang lại lợi ích cho người nghe, để cho người nghe thức tỉnh về giá trị làm người
của họ. Cho nên câu nói trên có thể giải thích rằng là: Trên trời dưới đất này,
đời sống của con người là đặc biệt có giá trị, là đặc biệt hay! Hãy tìm hiểu
giá trị đặc biệt của mình chứ đừng tìm hiểu giá trị đặc biệt nào nằm ngoài con
người của mình, trước nhất là cần tìm giá trị đặc biệt nơi chính mình trước.
Khi mình đã tìm thấy giá trị đặc biệt nơi chính mình rồi thì hãy đem giá trị đặc
biệt ấy để ứng dụng vào cuộc sống mà chúng ta đang hiện hữu. Nếu chúng ta không
hiểu được giá trị đặc biệt của chính mình thì mình sẽ bị lầm lạc trong cuộc sống,
mình sẽ rắc rối trong cuộc đời.”
http://duytuequote.blogspot.com/.../140-thien-thuong...
Thần
thánh hóa Ngài đến mức hoang đường như bịa chuyện bà mẹ Ngài mộng thấy một con
voi trắng từ trời chui vào bụng bà thành sự hoài thai thái tử Tất -Đạt - Đa là
không đúng bản chất và giáo lý của Ngài, rằng: ”Hoàng hậu Ma Da (Maya), vợ của
vua Tịnh Phạn (Suddhodana), trong lúc ngủ đã có một giấc mơ tuyệt diệu. Bà mơ
thấy một luồng ánh sáng trắng từ bầu trời chiếu xuống thân thể mình, theo luồng
ánh sáng này là một con voi chiến, thân hình trắng xóa với sáu chiếc ngà.
Luồng
ánh sáng và con voi này bay càng lúc càng gần và cuối cùng nhập vào thân bà.
Lúc ấy Hoàng hậu Ma Da tỉnh dậy với một niềm hoan hỷ tràn đầy, chưa từng có trước
đây...
Sau
đó vào đêm trăng tròn tháng tư, năm 625 trước Tây lịch, Ðức Phật ra đời tại vườn
Lâm-tì-ni. Sau khi sinh ra, Ngài bước bảy bước, mỗi bước có hiện ra một hoa sen
nâng đở chân Ngài. Ngài tuyên bố là Ngài là người đáng tôn thờ nhất (duy ngã độc
tôn).”
Phật
không công nhận Phạm Thiên (Brahman), Ngài coi đấng Đại Ngã này là sự bịa đặt
như vừa dẫn trên, lẽ nào chúng sinh sau này lại hoang đường nói chính Brahman
và Tứ đại Thiên vương (mà Ngài không cộng nhận) đã nhờ Ngài giáng trần như quan
niệm thiếu Phật tính sau đây:
“Trước
khi giáng trần, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhattha) đã trải qua nhiều kiếp tu hành
chứng quả vị Bồ-tát, hiệu là Hộ Minh, an trú tại cung trời Đâu-suất. Theo lời
thỉnh cầu của Phạm Thiên và Tứ Đại Thiên Vương, Bồ-tát giáng trần”
http://tongiaovadantoc.com/.../chiem-nguong-hinh-anh-cuoc...
Chúng
tôi xin quý Phật tử và qúy Tăng Ni: “Cái gì của Phật hãy trả về cho Phật, cái
gì của Bà La Môn ( đạo hữu thần) hãy trả về cho Bà La môn”; rằng nếu chúng ta cứ
tiếp tục thần thánh hóa Đức Phật, chúng ta sẽ không thể nào tới được cõi GIÁC
NGỘ của Ngài. Xin dẫn ra đây mấy lời Phật dạy:
"Hỡi
các Tỳ Kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm
tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu,
tồn tại, vĩnh viễn bất biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian
- quan điểm ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?" (Trung Bộ Kinh)
-
"Hết thảy các hành là vô thường và khổ đau".
"Hết
thảy các Pháp là vô ngã"
Ngay
cả khi cúng bái niệm Phật, hay trong những lúc nguy nan, người Việt hay khấn,
ví dụ: “Cầu xin Trời Phật độ trì cứu giúp”, hoặc: “Cầu xin Thần Phật độ trì
chúng sinh”… Đức Phật, hay đạo Phật không công nhận có Thượng Đế (Trời), không
công nhận có thần linh, sao lại ghép cái không có làm một với Phật như thế?
Nên
nhớ, khi thái tử Tất Đạt Đa đi tìm sự giải thoát, Ngài đã thử tìm trong một số
lối hành đạo cực đoan, ví dụ việc suốt 06 năm ngài tu theo phái hành xác của
trường phái khổ hạnh nhưng không đạt đạo; Ngài bèn tìm ra con đường trung đạo
(xóa cực đoan) để tìm giải thoát đích thực sau này.
Đọc
kinh Phật ta thấy một số điều cực đoan, quá trớn được cho là lời Phật dạy, thậm
chí có những điều trái ngược nhau được chép trong cùng một pho kinh cũng được
cho là lời Phật. Có lẽ còn khá nhiều bộ kinh do các tổ đời sau trước tác, viết
ý chủ quan, thiếu tính Phật của mình để lộng giả thành chân biến thành lời Phật
dạy chăng? Ví dụ như câu nói về diệt dục rất cực đoan, rất dung tục sau đây lại
được gán cho lời Phật dạy:
Ký
giả Mỹ Simon Alex hỏi vị sư Tích Lan Bhante Gunaratana câu nói dưới đây có phải
lời Phật dạy không: “Thà rằng đưa dương
vật vào miệng một con rắn độc hay một con rắn hổ mang kinh tởm có lẽ còn tốt
hơn là đưa nó vào một người đàn bà". Nhà sư thường đi giảng kinh Phật trên
khắp các đại học danh tiếng trên thế giới thừa nhận rằng đúng là lời này có ghi
trong kinh Phật.
(Trích
bài: 'Thời Đức Phật, nhiều người tin rằng tình dục rất thánh thiện (http://www.nguoiduatin.vn/thoi-duc-phat-nhieu-nguoi-tin...) (Ký giả Simon Alev của tờ "Giác ngộ là
gì" (What is Enlightenment) của Hoa Kỳ phỏng vấn một nhà sư Tích Lan, ngài
Bhante Gunaratana về chủ đề Phật giáo và tình dục.)
Dục
nghĩa là ham muốn, mà ham muốn lớn nhất trong dục là ái dục, tức tình yêu trai
gái. Dục (ham muốn) là bản năng của sinh vật nói chung, con người nói riêng.
Khát nước đòi uống là dục, đói đòi ăn là dục, ham muốn ái tình là dục, thở khí
oxy vào để sống là dục, tham giàu là dục, tham chức quyền là dục (nằm trong bản
năng thống trị kẻ khác của sinh vật), tham sống sợ chết là dục, ham muốn được
giải thoát, được giác ngộ cũng có thể được coi là dục…
Nói
tóm lại, DỤC phần lớn là bản năng tự nhiên, sinh ra đã có trong con người. Cho
nên về nguyên tắc DỤC KHÔNG THỂ DIỆT vì DỤC là bản năng con người, chỉ có thể
TIẾT DỤC mà thôi. Ngay đến cả Đức Thích Ca Màu Ni sau khi giác ngộ thành Phật
lúc 35 tuổi, cho tới khi Ngài viên tịch năm 80 tuổi vẫn còn bị DỤC đeo đẳng; vì
Ngài vẫn chưa thoát khỏi vô thường đói ăn khát uống, còn phụ thuộc vào các hành
như phải thở, phải ăn, phải uống, phải làm các hành vi trao đổi chất của con
người, thì sao lại đề ra tiêu chí DIỆT DỤC cực đoan như thế? Nên nhớ là Đức Phật
tổ năm 80 tuổi đã viên tịch vì ngộ độc thức ăn; chính Ngài khi tại thế cũng
chưa thoát khỏi vô thường…Sau khi viên tịch, Ngài nhập Niết Bàn. Còn Niết Bàn
là gì, ở đâu, tồn tại trong dạng thức nào thì Phật không nói. Chúng sinh phải tự
tìm ra Niết Bàn trong tâm mình khi đã giác ngộ thoát khỏi tham, sân, si, đạt tới
cõi từ bi hỉ xả…
Việc
một số kinh sách được gán cho là lời Phật dậy( ngụy tạo) có thái độ lên án gay
gắt, thậm chí phỉ nhổ, nguyên rủa hành vi tính giao của con người là một sự vô
lối, một ứng xử thiếu văn hóa người, mà thiếu văn hóa người thì cũng thiếu văn
hóa Phật… Thử hỏi ai trong chúng ta, kể cả Đức Thế Tôn không được sinh ra bởi
hành vi giao phối giữa cha và mẹ mình ? Nên nhớ là từ thời Đức Phật còn theo đạo
Bà La Môn, Ngài cũng từng qùy lạy hiện thân của thần Siva là Linga ( dương vật)
và Yoni (âm vật)? Một số chi nhánh của đạo Bà La Môn (Ấn độ giáo sau này) còn
coi hành vi tính giao là hành vi giúp con người được giải thoát, là hành vi đạt
đến cõi thần Siva, biểu hiện của nhập thể Atman vào đại thể Brahman. Người viết
bài này từng được chiêm ngưỡng nhiều phù điêu đắp nổi trong các đền thờ Ấn độ
giáo mô tả cảnh thần Siva trần truồng làm tình với vợ mình là thần Uma trong rất
nhiểu kiểu dáng giao hợp khác nhau, một biểu tượng giải thoát hữu hiệu giúp tiểu
ngã (linh hồn cá nhân) nhập vào đại ngã là linh hồn vũ trụ (Brahman)… Ngay cả Đức
Phật ngày còn trong cung điện chưa đi tìm đạo giải thoát cũng có vợ (nàng
Da-đu-đà) có con (La-hầu-la), có cung tần mỹ nữ hầu xung quanh Ngài…
Nếu
hành vi tính dục phải bị triệt tiêu trong chúng sinh như nhiều ngụy thư mạo lời
Phật dạy thì than ôi, ngày nay làm gì còn chùa chiền, làm gì còn đạo Phật, làm
gì còn PHẬT PHÁP TĂNG? Vì ngụy thư kia
cho hành vi truyền giống là nhơ bẩn nên con người đã bị tuyệt diệt từ ngót hai
nghìn năm nay rồi? Phật không cấm hành vi tính dục trong hôn nhân. Phật chỉ dạy
con người cần tiết dục và không được hoang dâm vô độ, không được ngoại tình.
Chuyện một số kinh sách ngụy tạo lời Phật dạy cho rằng chỉ có các vị chân tu
trong chùa, không có hành vi tính giao mới có thể giác ngộ, còn những người tu
tại gia có vợ có chồng thì không thể giác ngộ, không thể thành Phật là những lời
sàm tấu thiếu tính Phật…
Không
phải bỗng dưng mà nhà bác học Albert Eienstein đã vinh danh đạo Phật như sau:
“Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ.
Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng
lý thuyết thần học. Bao trùm cả tự nhiên
và tâm linh, nó phải được căn cứ trên cảm nhận phát sinh từ kinh nghiệm của tất
cả mọi thứ tự nhiên và tâm linh như một sự hợp nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với
những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật. (Albert Einstein)
(Albert
Einstein, 1954) From Albert Einstein: The Human Side, edited by Helen Dukas and
Banesh Hoffman, Princeton University Press) (http://www.daophatngaynay.com/.../5136-Albert-Einstein...)
Khoa
học càng phát triển càng gần với Phật giáo về vũ trụ luận, về thuyết nhân quả,
về tính không của vạn vật, về sự không thể cắt rời của vạn pháp, về sự vô thường
của tự nhiên và con người… Khoa học lấy sự hiểu biết làm mục đích. Phật giáo lấy
sự giác ngộ, sự giải thoát của con người làm mục đích. Đạo Phật nói cho cùng là
một liệu pháp tâm lý để giúp con người diệt khổ. Còn khoa học dùng tư duy để
tìm kiếm chân lý của thế giới vật chất.
Hãy
nhìn Đức Phật như nhìn một con người, một con người đã giác ngộ, đã bỏ được
tham sân si, chứ đừng nhìn Ngài như nhìn một vị thần linh hay một đấng cứu nhân
độ thế.
Nhận
thức đầu tiên của thái tử Tất Đạt Đa về thực tại khi Ngài có dịp ra ngoài cung
điện của vua cha là thế giới này là một thế giới khổ đau. Càng tiếp xúc với
chúng sinh, Ngài càng cảm thấy trần gian này là bể khổ. Con người từ sinh, lão,
bệnh, tử… cái nào cũng khổ. Làm sao tìm ra một con đường cứu khổ cho chính Ngài
và cho chúng sinh? Một vị thái tử sống trong cung vàng điện ngọc, sống với cung
tần mỹ nữ, với vợ đẹp con khôn như Ngài làm sao lại có thể gọi là khổ ? Vâng, nỗi
khổ tinh thần dày vò Ngài khi Ngài nhìn thấy chúng sinh khổ đau. Lấy nỗi đau khổ
của tha nhân làm nỗi đau khổ của bản thân mình, thái tử Tất Đạt Đa, một tín đồ
Bà La Môn chỉ còn biết trầm tư mặc tưởng đắm mình vào bản thể tuyệt đối của vị
thần tối cao (Thượng Đế) Brahman để cầu cứu đấng toàn năng giúp Ngài và chúng
sinh thoát khỏi bể khổ…
Với
trí thông minh trác việt, Ngài hầu như đã thuộc lòng bộ kinh Vệ Đà, kinh “Áo
nghĩa thư- Upanisad” khởi nguồn cho thần học Bà La Môn. Thế giới trong kinh Vệ
Đà là một thế giới thần linh ở lẫn giữa con người, thực hư lẫn lộn, đàn bò thì
bay như mây còn mây thì gặm cỏ như bò, các vị thần cũng hoan lạc, yêu đương,
làm tình như chim muông, các đạo sĩ hóa phép thần thông trong sự biến hóa của
Atman như những con sứa bay nhảy trong biển cả Brahman vô tận vô cùng… Nơi khổ
đau và khoái lạc thay đổi cho nhau như thần linh thay áo… Nơi sống chết hoán vị
cho nhau trong hòa điệu tuyệt đối của các linh hồn (Atman) trường cửu li ti như
sao trời trong vòng tay các thiên hà vũ trụ Brahman…
Thái
tử Tất Đạt Đa ngồi kiết già kiểu Bà La Môn để thoát khỏi ý thức, đặng nhập tiểu
ngã (Atman) là linh hồn mình vào làm một với Đại ngã tuyệt đối Brahman. Nhưng
sau hàng nghìn buổi kiết già kia, thái tử Tất Đạt Đa vẫn thấy mình cô đơn ngồi
giữa vũ trụ vô cùng, vẫn thấy nỗi sợ, nỗi khổ vây bủa Ngài như giặc. Và cái
quan trọng nhất, Ngài buồn vì đấng Thượng Đế toàn năng Brahman đã bỏ rơi Ngài,
bỏ rơi chúng sinh trong bể khổ mà không hề đưa tay cứu vớt…
Ngài đã cầu nguyện, nhập thiền, đã hòa tan
linh hồn mình (Atman) vào linh hồn tuyệt đối Brahman như giọt nước hòa vào biển
cả. Nhưng tiếng cầu xin, tiếng kêu thương của Ngài xin Thượng Đế tam vị nhất thể
Brahman -Shiva- Vishnu cứu khổ chúng sinh vẫn chừng như vô vọng…
May
mà truyền thống Vệ Đà là một truyền thống mở, khá tự do cho người ta lựa chọn
tín ngưỡng, chấp nhận trong niềm tin tuyệt đối vẫn còn sự hoài nghi.
Ngay
cả trong kinh Rig - Veda ca ngợi tuyệt đối thần sáng tạo vũ trụ Brahman vẫn thấy
nỗi hoài nghi day dứt con người về sự tồn tại của vị Chúa tể của Bà La Môn giáo:
Buổi đó, hoàn toàn chẳng có gì cả, mặt
trời rực rỡ kia không có,
Mà
vòm trời là cái khăn phủ mênh mang kia, cũng không có.
Vậy
thì cái gì trùm lên, che phủ, chứa chất vạn vật?
Phải
chăng là vực nước sâu thẳm?
Thời
đó không có chết - vậy mà không có gì là bất tử,
Không
phân biệt ngày và đêm,
Cái
Nhất, cái Ðộc Nhất, không có hơi mà tự thở lấy được.
Ngoài
Cái đó ra không có cái gì khác nữa.
Tối
tăm, và hồi đầu cái gì cũng chìm trong cảnh tối tăm mù mịt - như biển không ánh
sáng - Cái mầm khuất trong cái vỏ
Bỗng
nẩy ra, duy nhất, dưới sức nóng nung nấu.
Thế
là lần đầu tiên, lòng thương yêu xuất hiện, nó là dòng suối mới
Của
tinh thần, các thi sĩ suy tư và thấy được trong lòng mình
Mối
liên lạc giữa cái không được tạo ra với những vật được tạo ra.
Tia
sáng đó chiếu ra, xâm chiếm hết, nó phát xuất từ trời hay từ đất?
Giống
đã gieo và người ta thấy các năng lực cao cả xuất hiện
Ở
dưới thấp là thiên nhiên, ở trên cao là quyền năng và ý lực.
Ai
là người vén được màn bí mật? Ai là người cho ta biết
Sự
sáng tạo muôn vật đó từ đâu mà có?
Chính
các thần linh cũng chỉ xuất hiện sau này.
Vậy
thì ai là người biết được sự sáng tạo mầu nhiệm đó từ đâu mà có?
Ðấng
nào đã gây ra sự sáng tạo đẹp đẽ đó.
Là
do vô tình hay hữu ý?
Ðấng
Tối Cao trên tầng trời cao nhất kia
Biết
được - nhưng biết đâu chừng, có thể chính Ngài cũng không biết nốt."
(Lịch
sử văn minh Ấn Ðộ, NXB Văn Hóa, năm 1996, tt 58- 59 phần thơ trên do Nguyễn Hiến
Lê dịch)
Từ khi
biết chúng sinh ngoài cung điện của vua cha đều chìm trong bể khổ, thái tử Tất
Đạt Đa đã cầu nguyện Thượng Đế Brahman cứu giúp, rằng chỉ cần đấng tuyệt đối
búng ngón tay là chúng sinh thoát khổ liền. Chẳng lẽ đấng tuyệt đối của vũ trụ
này không biết thương xót con người ư? Nỗi hoài nghi về sự tồn tại của Brahman
trong lòng thái tử Tất Đạt Đa mỗi ngày mỗi lớn; cho đến lúc Ngài kết luận dứt
khoát : không hề có Thượng Đế, không hề có thần linh, chỉ có con người đau khổ
phải tự cứu mình và cứu đồng loại cùng thoát khổ, đặng tìm ra niềm vui sống bằng
sự giác ngộ của tâm thức mà thôi.
Trong
quyết định lìa bỏ tất cả để theo con đường khổ hạnh tìm chân lý giải thoát thì
sự từ bỏ Thượng Đế nơi thái tử Tất Đạt Đa là sự từ bỏ khó khăn nhất, đau khổ nhất,
quằn quại nhất. Barhman đã bao nhiêu năm là máu thịt, là khát vọng của Ngài về
một sự bất tử của linh hồn (tiểu ngã) hòa cùng tuyệt đối đại ngã Thượng Đế…
Vĩnh
biệt Thượng Đế, vĩnh biệt ngai vàng mà vua cha đã dành cho Ngài, vĩnh biết cha
mẹ, vĩnh biệt vợ con, vĩnh biệt cung vàng điện ngọc… thái tử Tất Đạt Đa cùng với
đệ tử Xa-Nặc nửa đêm trốn khỏi cung điện để làm một nhà tu khổ hạnh, chân đất,
áo vải gai, không nhà không cửa, một mình khất thực đi tìm con đường giải thoát
cho chính Ngài và cho chúng sinh…
Mỗi
chúng sinh cần phải đi lại con đường gian khó chông gai tìm đạo của Ngài không
phải trên trần gian mà chính ở ngay trong tâm mình. Ngài đã dùng 80 năm trong
cuộc tại thế của mình để mở cho chúng sinh con đường tìm ra Niết Bàn ngay chính
trong lòng mình. Con đường ấy Ngài đã phải đi qua 06 năm tu hành theo phái khổ
hạnh, hành hạ thân xác mình đến tàn tạ, héo khô như rơm rạ, xuýt đã mất mạng nếu
không có một người con gái dâng cho Ngài bát cơm trộn sữa.
Ngài
đã đi qua con đường của vua chúa để chuẩn bị làm vua mà vẫn không thoát khổ
Ngài
đã đi qua con đường xa hoa khoái lạc với cung tần mỹ nữ mà vẫn không thoát khổ.
Ngài
đã đi qua con đường hôn nhân của một gia đình tuyệt mỹ với vợ đẹp con khôn,
giàu sang không ai sánh mà vẫn không thoát khổ
Ngài
đã tin tưởng tuyệt đối vào Thượng Đế Brahman mà Thượng Đế vì không có thật nên
vẫn không thoát khổ
Ngài
đã bỏ cung điện ra đi làm người hành khất để tìm chân lý qua sự hành xác là con
đường tu khổ hạnh mà vẫn không thoát khổ
Ngài
bèn ngồi dưới gốc bồ đề để từ bỏ mọi con đường trên mặt đất, đặng ngồi kiết
già, dùng tâm chiếu rọi vào bên trong, tìm ra con đường vào chính mình bằng sự
thiền định suốt 49 ngày đặng thoát khỏi vọng ngã, thoát khỏi mê lầm vọng tưởng…
Và
Ngài đã giác ngộ, đóa sen đốn ngộ đã xòe nở dưới chân Ngài. Ngài đã vượt qua
sinh diệt, vượt qua sắc không, vượt qua mọi giới hạn vô thường…mà thành Phật…
Đức
Thích Ca Mầu Ni một con người vĩ đại nhất nhưng khiêm cung giản dị nhất trần
gian đã đến thế giới khổ đau này để ban tặng chúng sinh niềm vui. Đạo từ bi của
Ngài là từ bi trong hỉ xả, trong niềm vui sống trút hết lòng ta vào với lòng
người. Trong toàn cõi Ấn Độ cách đây hơn 2600 năm, sự phân biệt giai cấp còn rất
kinh khủng và tàn khốc. Đa số dân nghèo ở đẳng cấp nô lệ còn khổ hơn súc vật.
Ngài đã đến thế giới này để xóa bỏ mọi rào
ngăn giai cấp, chẳng lẽ lại để một giai cấp vô sản (không có thật) giết hại các
giai cấp khác để độc tôn cầm quyền như lý thuyết Marx –Lenine đang được các vị
thầy chùa của “Phật giáo quốc doanh” có tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”
đưa vào thờ chung với Phật bằng tiêu chí: “Đạo pháp- Dân tộc- chủ nghĩa xã hội”
hay sao? Ngài đã đến thế giới này để xóa bỏ cái ác, xác lập chân thiện mỹ trong
loài người, lẽ nào lại để các để tử của Ngài rước chủ nghĩa duy ác Marx -
Lenine vào chùa hòa cùng tiêu chí diệt ác của Ngài sao?
Trong
bài: “Một nơi an lành cho Bác” của Tưởng Năng Tiến in trên website Dân Làm báo,
viết về chiến dịch thần thánh hóa ông Hồ Chí Minh theo kiểu Dũng Lò Vôi đưa tượng
ông Hồ vào chùa của “Lạc cảnh Đại Nam quốc tự” để thờ như một ông Phật, tác giả
viết:
“Sự
kiện này được phóng viên của Đàn Chim Việt, thường trú tại Varsovie, tường thuật
như sau:
“Trong
phần nghi lễ chính, đại sứ Nguyễn Hoằng và phu nhân đã cùng làm lễ hô thần nhập
tượng chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong nghi lễ, việc ‘mời’ linh hồn Hồ Chí Minh để
nhập vào tượng trực tiếp từ Lăng trên quảng trường Ba Đình hay từ hang Pác bó,
và Bác sang Ba Lan bằng phương tiện giao thông nào là một điều bí hiểm thuộc
‘bí mật ngoại giao’ mà ông Hoằng đại sứ giữ kín không tiết lộ.”
Ông
đại sứ và phu nhân trong nghi lễ nhập hồn vào tượng. Ảnh: ĐCV.
http://danlambaovn.blogspot.fr/.../mot-noi-lanh-cho-bac...
Cũng
theo bài báo trên, quận ủy quận Tây Hồ Hà Nội đã chỉ thị cho các làng xã đưa tượng
ông Hồ Chí Minh vào các đình làng thờ như thành hoàng của các làng trong toàn
quận, như sau:
“Thiên
hạ đang xôn xao về việc “Hồ Chí Minh sẽ làm thành hoàng tại các đình làng. Theo
chỉ đạo của Quận ủy & UBND quận Tây Hồ, Ban Quản lý đình làng Phú Xá (làng
Sù – phường Phú Thượng, Tây Hồ, HN) đưa tượng Hồ Chí Minh vào đình làng này để
thờ cùng thành hoàng làng (vốn ngự ở đình đã gần 300 năm). Cũng theo chỉ đạo, 3
nhà sư trong trang phục Phật giáo đã sử dụng 1 đầu trâu và 3 bát máu tươi để
cúng cho hồn tượng thêm ‘linh.’
“Dự
buổi lễ khánh thành tượng Hồ Chí Minh ở đình làng vào sáng hôm sau có các quan
chức: Bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận Tây Hồ, đại diện các ban ngành đoàn thể
của quận, phường. Tổng giám đốc Khu đô thị Nam Thăng Long, Tổng giám đốc Tổng
công ty Cổ phần Bao bì xuất khẩu (hai đơn vị tài trợ chính) đã tham dự. Giá trị
bức tượng khoảng hơn 2 tỉ đồng.Tới đây, quận sẽ chỉ đạo các Ban quản lý đình
làng trên địa bàn quận học tập và làm theo để phấn đấu mọi đình làng đều phải
có tượng Hồ Chí Minh được thờ cùng thành hoàng làng.”
http://danlambaovn.blogspot.fr/.../mot-noi-lanh-cho-bac...
Cứ
đà này, chẳng mấy chốc, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” với tiêu chí: “ĐẠO PHÁP -
DÂN TỘC – CHỦ NGHĨA XÃ HỘI” nhất định sẽ đưa tượng ông Hồ Chí Minh vào các chùa
quốc doanh để thờ như thờ một vị Bồ Tát; lấy đà đưa tượng các ông Marx, Lenine,
Stalin, Mao Trạch Đông, Pôn-Pốt, Kim Nhật Thành… vào chùa để thờ như những vị
Phật cộng sản, những vị “Phật” đã từng ra lệnh giết chết hàng trăm triệu người
dân vô tội mà thế giới văn minh đã từng lên án.
Nhân
dịp mừng ngày Phật đản năm nay, kẻ viết bài này xin thỉnh các thầy của “Giáo hội
Phật giáo Việt Nam” rằng có phải nền Phật học Việt Nam vốn nhân đạo thâm sâu,
cao vời thánh thiện, siêu việt viên mãn đức từ bi hỉ xả từ độ Lý Trần, liệu có
phải đang đến thời kỳ mạt pháp? A Di đà Phật, xin cám ơn các quý thầy và chờ sự
thỉnh giáo của các quý thầy trên Internet.,.
Trần Mạnh Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét