BÀI THƠ TRÊN VÁY
Tưởng nhớ nữ sỹ Hồ Xuân Hương
Mở
ra một cái váy trời
Qụat cho thế sự tơi bời lá
hoa
Chành
ra ba góc dư ba
Hỏm hòm hom thế mới là văn
chương
Giời
ghen ông phủ Vĩnh Tường
Đứt đuôi nòng nọc tình dường
bôi vôi
Xót
thân quả mít nằm phơi
Miệng càn khôn ghẹo cọc trời
tùm hum
Trách
Chiêu Hổ sợ hang hùm
Bao nhiêu quân tử khuất lùm
rêu con
Cái
khuôn tạo hoá méo tròn
Để cho hậu thế mãi còn ngẩn
ngơ?
Hồng
nhan từ độ trơ trơ
Nước non một bánh trôi bờ dại
khôn
Mắt
dao cau liếc rách hồn
Ốc nhồi xưa vẫn phơi trôn lên
trời
Bao
nhiêu vua chúa qua rồi
Chỉ còn chiếc váy tốc trời
thi ca
Hà
Nội 1980
CÀNG
Càng
đi càng thấy càng cần
Càng quên càng nhớ càng gần
càng xa
Càng
sông càng biển càng nhà
Càng em càng mộng càng ta
càng mình
Càng
cười càng Phật càng kinh
Càng không càng có càng xinh
càng buồn
THƯƠNG NHỚ TRUNG THU
Xưa từng ước trăng rằm mùi
bánh nướng
Đón trung thu trái bưởi xuống
trăng tròn
Lá chuối khô mẹ bó thành trái
bóng
Bánh đa giòn trăng vỡ tuổi
thơ con
Gió mùa thu thổi mòn tháng
tám
Trăng lấm bùn trâu đợi Cuội
vòm đa
Tháng giáp hạt mây vàng cơm độn
cám
Áo vá sờn vai mẹ rám phù sa
Mẹ nuôi lớn trăng sao mùa
khoai sắn
Mồ hôi nào rơm rớm giọt trăng
rơi
Mơ cỗ trung thu thương mời
bánh rán
Sao hôm khoe nắm xôi gấc bên
trời…
Sài
Gòn mùa trung thu 2016
CỨU RỖI
Lời Kinh Thánh: “Bằng tình
thương yêu Người cứu rỗi anh em”
Biến cọng bún thành cột buồm
căng gió
Toàn năng em phép lạ có hồng
ân
Ánh sáng tên em thành lửa
thánh thần
Tình yêu lớn xin rất cần cứu
rỗi
Mang ân sủng hoa hồng thơm
quá đỗi
Chữa lành người từng lỗi nhịp
phù sinh
Chiến tranh xưa hay kẻ cướp
đa tình
Kìa chăn gối cũng tưởng mình bị
giết
Em là gió thổi anh vào truyền
thuyết
Yêu người còn được biết cái
vô biên
Anh thương binh của nỗi muộn
phiền
Chợt đứng dậy phóng vào miền
mê sảng
Như Chúa biến anh thành tên
loạn đảng
Khỏe như voi em hốt hoảng yêu
bù
Cứu rỗi nào vàng rực một trời
thu
Xa cách hỡi có chim cu làm chứng
Tưởng ta đến thế giới này chết
đứng
Có ai ngờ em cao hứng trời
xanh
Kìa mũi tên thần Eros chiến
tranh *
Vừa bắn trúng một tình nhân
rên xiết…
Sài Gòn 17-10-2018
* chú thích: Eros trong thần
thoại Hi Lạp là thần tình yêu.
.
CƯỠI TRÂU VỀ NIÊN THIẾU
Đêm mơ được cưỡi trâu về tuổi
nhỏ
Con đường làng mê mẩn cỏ đời
tôi
Nghe gió gặm vạt sương chiều
nghé ọ
Tuổi thiếu niên theo chú Cuội
lên trời
Mặt trăng ấy có còn trâu gặm
cỏ?
Mục đồng mây nghe sáo gió
thay mùa
Ai mơ phất cờ lau thành lịch
sử
Cưỡi trâu về con trẻ hóa
thành vua
Mặt trời cũ trên lưng trâu
nhún nhảy
Ngoan nhé trâu ơi ta bảo trâu
này
Trâu ra ruộng kéo cày nuôi hết
thảy
Trăng hóa liềm tôi cắt cỏ heo
may
Tôi đã lấy lưng trâu làm chiếc
ghế
Học vỡ lòng với sáo sậu chân
quê
Tuổi thơ hóa thiên đường trâu
biết thế
Nghểnh trâu cười làm nắng
cũng ngô nghê
Tôi đã đánh trâu lồng như ngựa
vậy
Buổi cha cày, ngủ muộn, toát
mồ hôi
Roi nỡ quất mình trâu hằn đỏ
tấy
Hình như trâu cũng biết khóc
như người?
Nghé tơ gọi may ra về bé dại
Xin mục đồng trở lại sáo
thiên thai
Mùa xuân được cưỡi trâu về đồng
bãi
Tìm lại hồn tôi trong cỏ rả
dông dài...
T.M.H.
ĐÊM VIẾT KIỀU
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(thơ Nguyễn Du)
Đêm đặc thành thỏi mực
Tiếng vạc mài nghiên
Từng giọt, từng giọt máu đêm
Nhỏ xuống Thúy Kiều
Bút ta nào phải mũi giáo
Cớ sao từng chữ bị thương?
Ta đâu nỡ làm đau tờ giấy bản
Huống hồ em tài sắc
Thương em mà bút đọa đầy em
Phải ta đã cùng em mười lăm
năm đất Bắc?
Gió bấc ăn dần từng mái tranh
Đêm mọt kêu rụng tóc
Sợi rau muống buộc đôi ta bền
chặt
Pho sách thánh hiền không đổi
được miếng ăn
Trang giấy lặng như đồng
chiêm trắng
Câu thơ ta bắt ốc mò cua
Củ khoai không vùi trong bếp
Củ khoai vùi trong giấc ta
mơ.
Phải ta từng dắt em đi hành
khất?
Xòe tay ăn mày núi vòm trời
Ăn mày phù sa hạt gạo
Ăn mày dòng sông biển khơi
Ăn mày con người lòng nhân
ái.
Đêm nay em theo ta về Phú
Xuân
Lưu lạc trên trang sách
Em đừng chết đuối trên dòng
sông xoáy nước
Như thuở Tiền Đường
Ta nhờ vãi Giác Duyên ngồi
gác
Đón em về từ cuối màn sương.
Ta ngồi viết
Trời đêm Phú Xuân như ao nước
đục
Phải em là hồn con cò không
siêu thoát được
Đòi thơ người trong
những câu hát tha phương cầu
thực
Cùng em đòi một tấm lòng.
Ta ném mọi giáo điều lên mặt
thần mày trắng
Để lấy tình yêu Thúc Sinh
Ta trả mũ cánh chuồn cho Hồ
Tôn Hiến
Để làm Từ Hải
Ta là anh chài lưới lặn xuống
dòng đêm
Tìm lại cho em chàng Kim thuở
ấy.
Ta ngồi viết
Sông Hương bay thành nét thảo
câu thơ
Núi Ngự Bình như anh sẩm ngồi
hát
Biển ngoài kia lục bát tràn bờ.
Kiều ơi
Thôi em đừng khóc
Tiếng vạc đã mài hết một thỏi
đêm
Cuộc đời dồn chúng ta vào
trang giấy trắng
Như dồn tới chân tường định mệnh
Từng đêm ta đập bức tường
Vầng trăng vỡ lúc ta căm giận
Lại nguyên lành khi cất tiếng
kêu thương...
Sài Gòn 1980
T.M.H.
Phụ:
NGUYỄN VŨ TIỀM BÌNH BÀI “ĐÊM VIẾT
KIỀU” CỦA TRẦN MẠNH HẢO
Mở đầu bài thơ, ta đã gặp những câu thơ
mới lạ đầy sáng tạo:
“Đêm đặc thành thỏi mực
Tiếng
vạc mài nghiên
Từng
giọt từng giọt máu đêm
Nhỏ
xuống Thúy Kiều”
“Đêm”
và “thỏi mực” chỉ giống nhau cùng có màu đen còn là hai thực thể rất khác nhau.
Một đằng thuộc lĩnh vực thời gian luôn chuyển động, một đằng thuộc vật chất cụ
thể nhưng tác giả đã khéo kết hợp hai tương quan này thành một qua liên từ “đặc
thành” tạo nên cho những chữ vốn quen thuộc trở thành câu có chất thơ đặc sắc.
Câu
sau cũng có tương quan khác lạ: “Tiếng vạc mài nghiên”. Tôi đã từng có thời
gian mài nghiên mực hàng ngày, nhiều khi gặp thỏi mực cứng quá, mài không dễ
chút nào. Ở đây là “tiếng vạc mài…” có vẻ phi lý, nhưng là phi lý hình thức để
nói lên nhà thơ Nguyễn Du từng thức nhiều đêm và thức khuya lắm, kiên nhẫn mài
mực để viết, đó là hợp lý nội dung.
“Từng
giọt, từng giọt máu đêm/ nhỏ xuống Thúy Kiều”, lại một phi lý hình thức nữa để
nói lên nhà thơ đã viết với tất cả tâm huyết của mình đối với nàng Kiều, đó là
hợp lý nội dung. Đã có nhà thơ viết rằng “thơ hay thường chạm đến sự phi lý, đó
là phi lý hình thức trong hợp lý nội dung”. Khúc mở đầu của bài thơ đã đạt tới
điều đó, quả là những câu thơ sử dụng thủ pháp “độc chiêu” trong thi pháp thi
ca, là sáng tạo đặc sắc thu hút người đọc ngay từ khúc mở đầu.
“Huống
hồ em tài sắc
Thương
em mà bút đọa đày em”
Ngọn
bút Nguyễn Du đầy thương cảm với nàng Kiều, điều đó thể hiện trong từng trang,
từng dòng, ai cũng thấy. Nhưng có điều ít người thấy được đó là “bút đọa đày
em”. Đừng nghĩ cứ viết nên những điều đau khổ của con người là sự cảm thông mà
mặt khác lại chính là “đọa đày” con người bởi chính con người ấy lại bị đau khổ,
bị “hành hình” lần nữa trên trang giấy. Đây là một phát hiện riêng của Trần Mạnh
Hảo sâu đậm tính nhân văn.
“Cọng rau muống buộc đôi ta bền chặt”
Ca
dao có câu: “Đôi ta ở đất làm thừng/ Trăm chắp ngàn nối xin đừng quên nhau”. Buộc
bằng dây thừng, là một ẩn dụ hay. Nhưng vào thơ của mình, nhà thơ Trần Mạnh Hảo
nâng cấp lên một bậc mới, buộc bằng dây thừng thì chặt rồi và rất hợp lý, nhưng
buộc bằng “cọng rau muống” thì chắc là không được nhưng lại “bền chặt” hơn. ấy
là điều phi lý. Nhưng lại đúng với những hoàn cảnh: trong gian khó thiếu thốn
nhọc nhằn, chia sẻ nhau bằng “cọng rau muống” lúc đói lòng, với những kỷ niệm
thời hàn vi như thế, người ta không dễ quên. Đó là hợp lý nội dung.
Và ở đoạn thơ thứ tư: “Củ khoai không vùi trong bếp
Củ
khoai vùi trong giấc ta mơ”.
Củ
khoai “vùi trong bếp” là hợp lý, nhưng vùi trong “giấc mơ” thì phi lý. Nhưng Trần
Mạnh Hỏa viết ngược lại, tưởng khó chấp nhận, nhưng lại rất đúng với người
trong gia cảnh nghèo nàn, không có củ khoai nướng mà ăn chỉ trong giấc ngủ mới
gặp mà thôi, tỉnh dậy chắc là thèm chảy nước miếng. Thật tội nghiệp quá chừng.
Nguyễn
Du là dòng dõi quan đại thần, chắc không đến nỗi thiếu thốn như thế, nhưng tấm
lòng nhà thơ luôn thương cảm gần gũi với đời sống người dân cần lao nghèo khó,
nên ông đã cảm thông sâu sắc với họ và viết nên những trang tuyệt bút để lại đời
sau. Và tất nhiên ông không “ăn mày”, nhưng Trần Mạnh Hảo đã không dùng chữ
sang trọng, quý phái như: ước mơ, hoài bão, lý tưởng... mà dùng chữ “ăn mày” rất
dân dã:
“Ăn mày dòng sông biển khơi
Ăn
mày con người lòng nhân ái”
Tức
là ông cầu xin có được những khát vọng lớn lao và lòng nhân ái. Chỉ có tâm hồn
luôn gắn bó cảm thông với nhân dân cần lao mới có được những rung động thi ca đẹp
đẽ như thế.
Hai
câu cuối ở khúc thứ sáu:
“Ta nhờ vãi Giác duyên ngồi gác
Đón
em về từ cuối màn sương”
Lại
nhớ Truyện Kiều: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, Trần Mạnh Hảo viết: “Đón em
về từ cuối màn sương”, đúng là đón một linh hồn, không thể hiện diện trên cõi
trần, nhưng cùng với Thi hào Nguyễn Du, nàng rất hình tượng, rất máu thịt trong
bài thơ của Trần Mạnh Hảo.
“Trời Phú Xuân như ao nước đục
Phải
em là hồn con cò không siêu thoát được
Đòi
thơ người trong
Những
câu hát tha phương cầu thực
Cùng
em đòi một tấm lòng”
Một
dòng thơ mà vẽ nên cả một thiên nhiên và xã hội: “Trời Phú Xuân như ao nước đục”
trong đó “em là hồn con có không siêu thoát được”. Ở hoàn cảnh “ao nước đục”,
con cò “đòi thơ người trong”, câu này nói về Nguyễn Du. Ông tự nhủ lòng mình là
tâm hồn thơ phải trong veo mới xứng với trang văn mình viết. Và hậu thế chúng
ta mãi mãi tin ở tâm hồn trong sáng như băng tuyết của ông.
Ở
ba khúc cuối có những câu thơ đẹp và rất xúc động:
“Ta
là anh chài lưới lặn xuống dòng đêm
Tìm
lại cho em chàng Kim thuở ấy”
Lại thêm lần nữa, quan đại thần Nguyễn Du dấn thân vào chốn cần lao
nghèo khó. Lần này “làm anh chài lưới lặn xuống dòng đêm”. Cực nhọc như thế để
làm gì? “Tìm lại cho em chàng Kim thuở ấy”. Chàng Kim là biểu tượng của cái đẹp
trong mắt nàng Kiều.
“Núi
Ngự Bình như anh xẩm ngồi hát
Biển
ngoài kia lục bát tràn bờ”.
Ta hình dung tác phẩm Truyện Kiều đồ sộ có 3254 câu thơ. Đúng là một biển
thơ lục bát tràn đầy trong đêm viết Kiều đang ào ạt triều dâng trong tâm hồn Đại
thi Hào Nguyễn Du. Hình ảnh núi và biển rất hiện thực, lãng mạn và nên thơ.
Và hai câu cuối bài:
“Vầng trăng vỡ lúc ta căm giận
Lại nguyên lành khi cất tiếng kêu thương”.
Trần Mạnh Hảo đã dùng hình tượng “Vầng trăng” để ẩn dụ về những điều
tròn đầy, sáng láng, tốt đẹp nhất về con người. Khi “căm giận” thì “trăng vỡ”
khi cất tiếng “kêu thương” thì “vầng trăng” lại “nguyên lành”.Trước những oan
trái bất công trong xã hội, niềm tin ở con ngươi có lúc rạn nứt, nhưng nhờ có
tình thương mà con người đã gắn kết với nhau bằng sự xác tín kỳ diệu. Tình yêu
thương đã cứu rỗi nhân loại thoát khỏi những hiểm họa do chính con người gây ra
và thiên nhiên gây ra đặng mà tồn tại và phát triển.
Tôi thích bình thơ theo hướng thi pháp học hơn là xã hội học, bài bình
thơ “Đêm viết Kiều” đã thể hiện điều này. Thi pháp học ở thơ Trần Mạnh Hảo có
nét đặc biệt đó là yếu tố phi lý và nghịch lý, hai yếu tố này thể hiện rất rõ
trong bài thơ “Đêm viết Kiều”. Vận dụng yếu tố này nói chung rất khó, phải có
thi tài nhất định nào đó mới viết được, hai yếu tố ấy tạo cho thơ có nhiều va đập
trong ngôn từ, hình ảnh, khiến mỗi từ ngữ, hình ảnh được cọ xát, chuyển động, mới
mẻ và lóe sáng. Những câu trích và bình trên đây là những ví dụ. Một vài ví dụ
khác:
“Bút ta không phải mũi dáo
Cớ sao từng chữ bị thương”
Hay: “Tiếng vạc đã mài hết một thỏi đêm”…
“Sông Hương bay thành nét thảo câu thơ”
Bài thơ trên đây in báo Văn nghệ (HNV VN) từ lâu lắm, cái thời báo còn
in bằng giấy bổi, thỉnh thoảng lại gặp cọng rơm làm mất mấy chữ, tôi đã cắt bài
thơ lưu lại. Nếu kể từ trường ca “Mặt trời trong lòng đất” xuất bản năm 1981 và
một số bài thơ trước đó thì Trần Mạnh Hảo đã chuyển đổi bút pháp từ hiện đại
truyền thống sang hiện đại cách tân (đổi mới) từ rất sớm.
Đây là một trong số rất ít những bài thơ hay nhất viết về Nguyễn Du.
NGUYỄN VŨ TIỀM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét