Thứ Tư, 8 tháng 9, 2021

NGUYỄN KHUYẾN "NẰM CHUNG VỚI KHÓI MÂY" - TRỜI SINH RA BÁC TẢN ĐÀ / Trần Mạnh Hảo.

 



       Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ hơn trăm của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh: "Ngọn gió không nhường tóc bạc a?".

       Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xã hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận mình: "Mua vui lắm lúc cười cười gượng/ Giả dại nhiều khi nói nói bông". Ngẫm xưa mà ngán cho hôm nay, thiên hạ đang phấn khởi nhập bao nhiêu vai tuồng, vai hề mua vui cho kẻ quyền quý kiếm chút cơm thừa canh cặn, vẫn không biết liêm sỉ ngượng ngùng, lại cứ dương dương tự đắc với vai hề văn nghệ múa may?...

       Chúng ta từng chứng kiến việc PGS. Nguyễn Lộc xuyên tạc văn bản thơ Nguyễn Khuyến trong sách giáo khoa Văn trung học bằng cách để nhà thơ ngồi ngắm hoa khô. (Sách giáo khoa văn lớp 10 từng dạy học sinh cả nước: “Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái” – Hoa đã nở từ năm ngoái khô đi và còn lại đến bây giờ. Đây là câu thơ tả thực). Không, Nguyễn Khuyến ngồi lẫn giữa trăng suông rượu lạt, lẫn trong hoa tươi, tre trúc, rơm rạ, ao chuôm, lẫn trong ếch nhái, đom đóm cùng thuyền thúng, lá thu rơi để trào lộng chua cay thời thế đảo điên, đoạn rút vào thui thủi, lẳng lặng cô đơn, cô độc, đêm đêm tự mài hồn mình thành máu mực đề thơ mà nhớ nước.

       Như thể nước lụt Hà Nam đã hóa giặc Lang Sa cuốn đi tất cả, chỉ mình ông sót lại cùng vài người bạn bơ vơ: "Nước non man mác về đâu tá/ Bè bạn lơ thơ sót mấy người/ Đời loạn đi về như hạc độc/ Tuổi già hình dáng tựa mây côi" (Cảm hứng). Có thể nói, Nguyễn Khuyến là bậc đại nho cuối cùng trăn trở tìm mùa thu ở ẩn, là con hạc thi ca cuối cùng của thời đại phong kiến Việt Nam còn giữ được cốt cách và tinh thần hạc vàng Thôi Hiệu, đã một mình lặng lẽ bay qua thế kỷ thứ XIX buồn đau, u uất, đặng tìm chỗ đậu trong 9 năm đầu của thế kỷ thứ XX, rồi đột ngột bay vào hư vô dịp tết âm lịch đầu năm 1909 khi vừa tròn 74 tuổi hạc. Thân phận "hạc độc" của Nguyễn Khuyến quả là cô đơn đến tột cùng, u uất, lủi thủi tới tận cùng thi tứ.

Vòm trời xưa của hoàng hạc thanh cao, tinh khiết là thế, nay diều quạ đen trời si sô đến cướp mất, nên: "Nước non man mác về đâu tá" và hồn thơ chừng cũng mất nẻo đi về. Con hạc này bị thời đại bỏ rơi, tưởng không còn một chỗ đậu trên chính quê hương mình. "Hạc độc" đành hóa đám "mây côi" mà lơ lửng như chính hồn thơ Nguyễn Khuyến còn lửng lơ bao nỗi niềm khôn khuây trên vòm trời văn học Việt Nam thuở nước nhà bị mất vào tay giặc Tây dương.

       Chao ôi, hơn một trăm năm trước, cả đám mây trong mắt thi hào cũng phải mồ côi vòm trời, như nhà nho mồ côi vua, dân mồ côi nước. Tinh thần "hạc độc" với " mây côi" bàng bạc, xuyên suốt thời đại và cuộc đời Nguyễn Khuyến, thành một phần tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ của hồn thơ ông.

       Những bài thơ tả cảnh quê hương Việt Nam hay nhất, đẹp nhất của ông cũng là cốt tả cái hay, cái đẹp của lẻ loi, cô quạnh, se sẽ đẹp, trong veo và xa vắng đẹp đến vô cùng khuất nẻo bơ vơ: "Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng/ Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi". Hồn thơ Nguyễn Khuyến chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi" dưới dòng lũ vô tình cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội nhân tình thế thái ngập tràn xứ sở.

       Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để: "Sửa sang việc nước cho yên ổn"... Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước"... có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi.

       Trong bài thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lõi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ: "Cờ đương giở cuộc không còn nước". Vì "Không còn nước" nên vua cũng không còn thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi: "Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề" (Lời vợ anh phường chèo).

       Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự tìm nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành trò hề như thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? Vì "Không còn nước" nên sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt lòa cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú.

       Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành "hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh, thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng mình...

       Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu cũng không còn là hoa hôm nay của mình nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng nước mình, chứ sao lại là ngỗng nước nào: "Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái/ Một tiếng trên không ngỗng nước nào"? (Thu vịnh). Khi "Không còn nước" nữa thì con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước nào" thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không còn giữ được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi?

       Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đã mất thì trời phỏng còn ư, mùa thu phỏng còn ư?

       Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia còn bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người!

       Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn, dù nới rộng đề tài ra từ bản thân mình đến xã hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non... hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm.

       Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ tình và ngược lại của Nguyễn Khuyến đã khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đã tưởng thấu vào gan ruột; ví như cách dạy văn rất phi văn học của nền giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam hôm nay hoàn toàn không hiểu nổi hồn thơ Nguyễn Khuyến. Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn thu Nguyễn Khuyến.

       Họ nhìn bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu bình lặng kia là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy...

       Không, Nguyễn Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm đáy lòng mình, đặng gọi hồn nước đã mất về thương hồn thu hiển hiện.

       Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả ruột gan.

       Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn mình, tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng tìm về, nên nhà thơ không đừng lòng được, đành rơm rớm khóc: "Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" vì say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng vì mùa thu chưa chiêu được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía "ngỗng nước nào"...?

       Cám cảnh thay nỗi "Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ; như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an ủi mình rằng còn cá tức nhiên còn nước...

       Vì vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè: "Năm canh máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ/ Có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ" (Cuốc kêu cảm hứng). Thương thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, còn kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm dù mùa thu đã chết. Con ngỗng vong thân, gãy cánh, đáp xuống trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc.

       Chúng ta thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay. Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ" len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ý diễu mình, nhà thơ vẫn xót xa hỏi: "Non nước đầy vơi có biết không?" Chính vì nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn: "Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già/ Xuân về ngày loạn càng lơ láo".

       Một người tài cao, học rộng, thương xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải đưa mình ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng mình thì hẳn là phải đau đớn lắm, khổ tâm lắm: "Mở miệng nói ra gàn bát sách/ Mềm môi chén mãi tít cung thang/ Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ" hoặc: "Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu/ Khi buồn ngâm láo một câu thơ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ mình trong, đành ngụ mình, nương mình làm "Anh giả điếc": "Trong thiên hạ có anh giả điếc/ Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây"... "Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc".

       Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xã hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận mình: "Mua vui lắm lúc cười cười gượng/ Giả dại nhiều khi nói nói bông". Ngẫm xưa mà ngán cho hôm nay, thiên hạ đang phấn khởi nhập bao nhiêu vai tuồng, vai hề mua vui cho kẻ quyền quý kiếm chút cơm thừa canh cặn, vẫn không biết liêm sỉ ngượng ngùng, lại cứ dương dương tự đắc với vai hề văn nghệ múa may?

       Mượn sự điên dại của "Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần mình để phơi bày "hình hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn: "Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa/ Làm thế để cho qua mắt tục". Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những "Đĩ cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây"... vẫn không chút bợn nhơ: "Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết/ Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ"...

       Nhà thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười thâm thuý: "Ba vuông phất phới cờ bay dọc/ Một bức tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con đĩ của thời: "Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đã được kéo lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm bình phong che mặt tham quan ô lại đục nước béo cò.

       Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng tiếng cười cay độc: "Có tiền việc ấy mà xong nhỉ/ Đời trước làm quan cũng thế a?" Phải sống trong thời "Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc" làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời: "Thử xem trời mãi thế này ư?". Tìm mùa thu ẩn mình không yên ổn, núp vào mình cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi trò đánh bùn sang ao bản thể, mà lẫn lộn bóng mình với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất hiện đại: "Bóng người ta nghĩ bóng ta/ Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người" (Bóng đè cô đầu).

       Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở hình lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như: "Quyên đã gọi hè quang quác quác/ Gà từng gáy sáng tẻ tè te... Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe", "Bán buôn gió chị với trăng dì"... Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập thò" trong câu thơ thần tình sau: "Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm/ Xanh xanh như sắp thập thò hoa".

       Câu thơ "sắp thập thò hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến.

       Từ đây, ta có thể thấy thi pháp "thập thò hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông: thập thò giữa tình và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập thò giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"... Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một tình yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ tình trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: "Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá/ Sư cụ nằm chung với khói mây".

       Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ hơn trăm của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh: "Ngọn gió không nhường tóc bạc a?".

       Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đã đành; mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả. Dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa gió cũng chẳng nhường đâu; huống gì những nhí nhố thời cuộc đang băm bổ hô hét muôn năm rồi cũng bị cuốn theo chiều gió, sẽ tan biến đi như chưa hề tồn tại...

...................................................................................




TRỜI SINH RA BÁC TẢN ĐÀ


         Trần Mạnh Hảo


       Dãy Hoàng Liên Sơn phóng một mũi lao từ trên trời xuống, xé rách các vỉa núi như xé vải, ngoằn ngoèo đổ thác qua vùng Tây Bắc, vút thẳng tới trung du thành sông Đà gầm thét. Núi Tản Viên - Sơn Tinh sừng sững làm cây cọc vĩ đại buộc dòng sông hung hãn này lại như buộc một dây diều, rồi đổ dòng mãnh giang vào sông Hồng như đổ một vò rượu nếp. Sông Đà gào rú mà Thủy tinh, cuồn cuộn mà phát điện, bập bùng mà thi hứng trời xanh. Nguyễn Khắc Hiếu đã lấy tên con sông và ngọn núi quê hương ghép lại thành bút hiệu thi ca mình: Tản Đà; để hai vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh nghìn đời xung khắc cùng ở trọ trong ngôi nhà bản thân mình, như nước phải đồng sàng cùng lửa trong cuộc đời 51 năm của mình mà không dị mộng thì quả là chuyện hi hữu.

Với sự nghiệp quá ư đồ sộ gồm thơ, văn, báo chí, dịch thuật... Tản Đà chính là ngọn núi Ba Vì của nền văn học Việt Nam sững sững suốt 30 năm từ 1915 đến 1935. Sau Nguyễn Khuyến, Tú Xương, nếu không có Tản Đà, nền thi ca Việt Nam sẽ có một khoảng trống lớn không gì bù đắp được. Nếu không có Tản Đà, dễ gì thơ mới 1932-1945 đạt được thành quả to lớn như nó từng có. Tản Đà, cột mốc lớn, gạch nối lớn, nhà ga lớn, trạm trung chuyển lớn giữa nền thơ xưa dân tộc và thơ mới. Ông cổ điển một cách lãng mạn, hiện đại một cách xa xưa, đốt lên ngọn khói nghìn năm thi sĩ ông cha bằng rơm rạ bây giờ. Nếu Nguyễn Khuyến giấu thi hứng trong niềm ở ẩn nơi vườn thu, ao thu, Tú Xương cười ra nước mắt nỗi làng quê hóa phố thì Tản Đà đưa thi ca Việt Nam vào hẳn thành phố  cùng thương trường, thị trường: "Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu/ Quanh năm những luống lo văn ế"... "Văn chương hạ giới rẻ như bèo".

       Ông là nhà thơ lớn đầu tiên thành công làm thơ bằng chữ quốc ngữ, rồi in thơ ra "đem bán phố phường", dùng nghề viết để kiếm sống. Suốt cuộc đời bèo giạt mây trôi với thân phận chữ nghĩa, nay đây mai đó như chim, nhưng là chim tu hú không có tổ, Tản Đà từng chua chát, đùa vui mà giới thiệu mình: "Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không". Sinh thời, nhà thi sĩ của giời đất này hầu như chỉ toàn ở nhà thuê, lấy nhà thiên hạ làm nhà mình, sống trên đời mà như sống trên mây. Hơn sáu mươi năm đã qua kể từ ngày nhắm mắt, Tản Đà vẫn nằm ngoài trời, trong nghĩa địa Quảng Thiện, lấy hư vô làm nhà, lấy nắng mưa làm cửa, lấy gió bão làm giường chiếu. Nhưng Tản Đà đã có hàng triệu mái nhà khác để linh hồn ông cư trú là trái tim những người Việt Nam yêu thơ ông. Hình như Tản Đà chọn cho mình ngày sinh và ngày chết trùng nhau: ngày 20 tháng tư âm lịch. Sinh ra và mất đi cùng một ngày ở khoảng giao thời giữa mùa xuân và mùa hè, cũng như vai trò của thơ văn ông là giai đoạn quá độ, giai đoạn chuyển tiếp của thi ca Việt Nam từ cũ sang mới, từ xưa đến nay.

       Tản Đà từng viết: "Có văn có ích, có văn chơi". Nhiều người lầm tưởng văn thơ Tản Đà chỉ là thứ "văn chơi", còn thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, Phan Bội Châu và nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục mới là "văn có ích", mới là văn yêu nước chống giặc ngoại xâm. Không, văn thơ Tản Đà vừa là "văn chơi" vừa là "văn có ích". Tản Đà yêu nước lắm, căm ghét bọn giặc và tay sai của chúng lắm. Có người cho thơ Tản Đà chỉ toàn thú ăn chơi, toàn có rượu, có say, có ngông, có sầu, cái sầu trích tiên bị đầy hạ giới. Vâng, có tất cả những điều ấy, nhưng còn có thêm một điều hệ trọng khác rằng Tản Đà cũng là một nhà thơ yêu nước như ai. Đất Nước của mọi người, nên mỗi người đều có cách yêu nước riêng của mình. Hãy đọc bài thơ tuyệt tác "Thề non nước" xem hồn vía Tản Đà ở đâu:

"Nước non nặng một lời thề/ Nước đi đi mãi không về cùng non...". Nước ở đây vừa là nước của sông suối, vừa là đất nước. Nước đã mất "Nước đi đi mãi không về cùng non" nên mới để non lại một mình trông ngóng. Cả bài thơ là tấm lòng thương nước, nhớ nước, mong lấy lại đất nước để cho trọn niềm Nước Non. Tình cảm non nước bàng bạc suốt trong thơ Tản Đà, như một vết thương, một niềm quan hoài khôn xiết, một ngóng vọng tưởng tuyệt vọng mà vẫn mong chờ.

       Ai cũng biết việc Tản Đà treo một bức địa đồ Việt Nam rách rưới trên chỗ làm việc, đi đâu vô Nam ra Bắc ông cũng mang theo: "Non sông thề với hai vai/ Quyết đem bút sắt mà mài lòng son/ Dư đồ rách, nước non tô lại/ Đồng bào xa trai gái kêu lên/ Doanh hoàn là cuộc đua chen/ Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam" (Xuân sầu). Những vần thơ in công khai, toát mồ hôi mới thoát khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt của thực dân Pháp, lại mang tính chiến đấu nhường ấy, ai bảo thơ Tản Đà không yêu nước? Nhà thơ vạch lá cờ quẻ li Nam triều  ra mà gói nỗi tủi nhục của vua hề: "Cờ vàng dấu đỏ đế vương suông". Ông dùng thơ văn công khai, báo chí công khai mà vạch mặt bọn tay sai bán nước theo voi Tây ăn bã mía: "Rón chân những chực khi voi nhả/ Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa/ Ấy đã theo đuôi thời phải hít/ Còn đâu nên tấm nữa mà vơ" (Theo voi ăn bã mía). Tản Đà cố gắng thức tỉnh bọn người trót dại làm tay sai cho ngoại bang trong bài "Chim họa mi trong lồng" như sau: "Lồng son cửa đỏ thảnh thơi/ Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi/ Nghĩ cho mi cũng gặp thì/ Rừng xanh mi có nhớ gì nữa không?". Là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, tuy ghét bọn họa mi hót trong lồng ngoại bang kiếm ăn này, song Tản Đà vẫn để ngỏ hi vọng vào nỗi nhớ "rừng xanh" trong chúng, nhắc chúng nhớ rằng mình là dân mất nước mà nuôi khát vọng tự do. Chúng ta còn có thể trích ra rất nhiều vần thơ yêu nước của Tản Đà trong việc đả kích chế độ thực dân phong kiến, trong việc nêu gương những anh hùng xưa còn sáng giữa trời tấm gương hi sinh cứu nước...

       Nhưng cái đáng qúy nhất, tinh thần yêu nước nhất, đóng góp riêng nhất của Tản Đà cho đất nước là công mở đầu nền thơ hiện đại Việt Nam. Ấy là việc suốt 30 năm, ông đã viết được rất nhiều bài thơ, câu thơ hay. Mà phàm thơ đã hay thì dứt khoát mới. Còn có khi thơ rất mới, rất hiện đại mà chưa chắc đã hay. Năm 1920, năm Tố Hữu, Chế Lan Viên ra đời, năm Huy Cận mới tuổi thôi nôi thì Tản Đà đã viết những vần thơ rất mới và rất hay trong bài "Cảm thu, tiễn thu": "Từ thu đến nay/ Gió thu hiu hắt/ Sương thu lạnh/ Trăng thu bạch/ Khói thu xây thành/ Lá thu rơi rụng đầu ghềnh/ Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly/ Nhạn về én lại bay đi/ Đêm thu vượn hót ngày thì ve ngâm/ Lá sen tàn tạ trong đầm/ Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa/ Sắc đâu nhuộm ố quan hà/ Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương...". Những dòng thơ này thật tuyệt vời, với hình thức diễn đạt trước Tản Đà chưa hề có trên thi đàn Việt Nam và sau ông, ngay cả những câu lục bát tài hoa nhất của Huy Cận cũng không thể vượt qua những câu lục bát trên của bậc tiền bối. Hồn thu trong thơ Tản Đà vừa mang mang hơi hướng Nguyễn Trãi, Nguyễn Du xưa, vừa có phong vị của các nhà thơ mới sau này. "Sắc đâu nhuộm ố quan hà", câu thơ tuyệt hay này đọc lên còn nghe buồn xưa xa lắm hiện về từ Đường thi, Tống thi... hay đấy là nghìn năm thi ca phương Đông mượn Tản Đà mà vẽ ra hồn thu muôn thuở? Nhưng đến hai câu thơ viết về lá sen khóc hoa, khóc mùa hè đã mất thì lại rất "thơ mới", rất hiện đại, rất lãng mạn và rất cá thể, cá nhân: "Lá sen tàn tạ trong đầm/ Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa". Cám ơn Tản Đà đã mang đến cho sự "tàn tạ" nơi lá sen của mùa thu xưa một vẻ đẹp mới, một giọt nước mắt mới, một tâm trạng mới của thời đại "gió Á, mưa Âu".

       Năm 1917, sau khi Tú Xương chết 10 năm, Nguyễn Khuyến chết 8 năm, thơ Việt Nam hầu như chỉ còn biết chui vào cái rọ sáo mòn thất ngôn bát cú luật Đường, thì đột nhiên Tản Đà xuất hiện bằng tuyệt tác "Tống Biệt" trích trong vở tuồng "Thiên Thai", báo hiệu một cuộc cách mạng thơ: "Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai/ Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi/ Nửa năm tiên cảnh/ Một phút trần ai/ Ước cũ duyên thừa có thế thôi/ Đá mòn rêu nhạt/ Nước chảy huê trôi/ Cái hạc bay lên vút tận trời/ Trời đất từ đây xa cách mãi/ Cửa động/ Đầu non/ Đường lối cũ/ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi..." Mượn nỗi niềm Lưu Nguyễn Thiên Thai xưa, Tản Đà ngậm ngùi tiễn đưa thi pháp cổ điển, thi pháp của "hạc vàng" khuê các về trời, để tiếp nhận thi pháp trần gian, thi pháp của cái tôi lãng mạn, cái tôi trữ tình, tách mình ra khỏi trời đất mà cảm thán nỗi riêng tư hun hút hồn mình.

       Cũng như cổ nhân, Tản Đà buồn lắm, day dứt lắm: "Một vừng trăng khuất đi mà đứng/ Một lá mành treo cuốn lại buông/ Ngồi hết đêm suông, suông chẳng hết/ Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông" (Đêm suông Phủ Vĩnh). Buồn đến suông hơn cả đêm suông, mới thấy ngày dài hơn thế kỷ. Tản Đà viết về nỗi buồn làm thời gian lỳ ra, dài ra vô tận, hay tới mức hiếm có: "Người đời thử ngắm mà hay/ Trăm năm thì ngắn một ngày dài ghê". Có lúc buồn quá, nhà thơ đành hóa thân vào con quay (con vụ) mà ngơ ngẩn tỉnh say phận mình: "Lăng nhăng thân thế đi đi đứng/ Nghiêng ngả quan hà tỉnh tỉnh say". Ông mượn chuyện Thúy Kiều mà giấu tâm trạng u uẩn, buồn đau mình vào câu chữ, đọc lên sao hay thế, buồn thế, đau thương thế, khiến lòng kẻ hậu sinh này cũng vương lụy cổ nhân: "Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy/ Một mối tơ tằm mấy đoạn vương". Nỗi buồn mất nước, nỗi buồn thời thế như keo vít mắt Tản Đà, khiến ông nhìn vào đâu cũng thấy tối, như thể thế giới cấu tạo nên mọi thứ trừ đôi mắt: "Ù, ù gió thổi Bắc, Tây, Đông/ Đêm tối trông ra tối lạ lùng/ Tạo vật không tay mà hóa có/ Phàm trần có mắt cũng như không" (Đêm tối). Tản Đà ví mình như con cuốc, tiếc xuân, núp trong bụi rậm cuộc đời còn í ới, sao chưa dám nhảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà kêu nỗi đau mất nước hồn Thục Đế: "Sao cứ co ro trong bụi rậm/ Lại còn eo óc với trời cao". Có khi nhà thơ ẩn hồn mình trong con ếch núp bờ ao mà "ì ộp" nỗi đợi mưa tội nghiệp: "Ì ộp hồ xa ếch đợi mưa". Nhà thơ diễu mình, nhưng là để nói lên nỗi nhục vong thân, vong quốc một cách đớn đau: "Văn có pha trò cho đủ lối/ Mực đem bôi nhọ khéo mua cười". Một người bên ngoài tưởng bông lơn, cười cợt, tưởng ngông lắm, ngang lắm, lại là người mau nước mắt nhất khi ngó tới, nghĩ tới giang san: "Lệ ai giàn giụa với giang san" (Cảm đề).

       Tản Đà buồn quá mà nói ngông ra vậy thôi, chứ thực tình, ông là người yếu đuối, rất mềm mỏng mà phải giả bộ cương, quặn thắt nhớ nước thương nòi mà giả bộ phỉ phui, vô tình, vô cảm: "Tài cao, phận thấp, chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương". Không, Tản Đà uất quá nói khống ra chơi thôi, chứ ông có phút nào nguôi chuyện quê hương đâu. Bởi vì trong tận cùng lận đận, nhà thơ vẫn thẹn cùng sông núi đó thôi: "Bước lận đận thẹn cùng sông núi/ Mớ văn chương tháng lụi năm tàn" (Đêm đông hoài cảm). Tản Đà hay viết ngông, nói ngông cho đỡ buồn, giang hồ vặt cho đỡ tẻ: "Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc/ Hết cả giang hồ, hết cả ngông". Tản Đà buồn qúa uống rượu tìm say chơi, chứ ông đâu có lấy rượu làm mục đích. Viết về rượu, nhà thơ có nhiều câu hay, chỉ xin chép ra mấy dòng lục bát: "Say sưa nghĩ cũng hư đời/ Hư thì hư vậy, say thời cứ say/ Đất say đất cũng lăn quay/ Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười". Người mang trái tim rún rẩy như Tản Đà chẳng cần uống rượu vẫn cứ say tít thò lò như quả đất suốt đêm ngày, tự mình lật đà lật đật quay quay...

       Trong bài "Còn chơi" Tản Đà viết: "Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ/ Nhớ đời nên tớ vội ra chơi". Thưa với Tản Đà tiên sinh, từ khi tiên sinh xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, lúc thi đàn quá ư trống vắng, quá ư heo hút, lập tức tiên sinh đã thành cây đại thụ thi ca mà toả bóng xuống trang thơ các nhà thơ mới sau này, đời chưa phút nào vắng bóng tiên sinh cả. Hơn sáu mươi năm từ thuở nằm xuống, nay Tản Đà vẫn "Nhớ đời" và ra chơi cùng kẻ yêu thơ ông. Thơ với Tản Đà là cuộc chơi lớn, là thú vui còn lại cả sau khi chết, nên sinh thời ông đã quyết chơi cho mãi mãi: "Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi"... "Nghĩ đi nghĩ lại, lại ra chơi".

       Trong cuộc chơi thi ca của Tản Đà, tâm hồn Việt Nam, văn học Việt Nam bỗng thêm sinh động và quyến rũ lên rất nhiều; như thể cuộc rong chơi của sông Đà khi qua Hoà Bình hiện nay, trước khi cuốn vào núi Tản cùng thơ Tản Đà, đã say nồng cuồn cuộn làm tuốc-bin cảm xúc Thủy Tinh quay tít, sinh ra bừng sáng muôn năm thủy điện. Phải chăng sự nghiệp thi ca đồ sộ của thi hào Tản Đà để lại cho dân tộc cũng là một nhà máy thủy điện lớn, sinh ra từ sông Đà tinh thần, đặng phát ra ánh sáng tâm hồn, ánh sáng của rung - động - Đẹp cho không chỉ của ngôn ngữ Việt Nam, mà còn  cho mỗi tấm lòng yêu thơ vậy?


        Trần Mạnh Hảo




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét