Thứ Hai, 16 tháng 8, 2021

PHÊ BÌNH GIÁO TRÌNH MỸ HỌC CỦA PGS.TS LÊ NGỌC TRÀ, PGS.TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG & NHÀ GIÁO DẠY ĐẠI HỌC LÂM VINH: ĐÔI ĐIỀU VỀ MỸ HỌC QUA MỘT CUỐN SÁCH / Trần Mạnh Hảo

        

         Mỹ học ( l’ Esthétique) là môn học nghiên cứu nguyên lý và tác dụng của cái đẹp (beau). Mỹ học vừa là khoa học về cái đẹp, vừa là triết học thẩm mỹ nói chung và thẩm mỹ nghệ thuật nói riêng. Con người trong quá trình hoàn thiện, mắt nhìn vào tự nhiên, xã hội, nhìn vào bản thân mình bao giờ cũng phải thông qua cái đẹp là mỹ quan như Marx nói : “Con người nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”. Việc nghiên cứu quy luật của cái đẹp một cách hệ thống, với phương pháp luận khoa học để tìm ra những nét đặc thù, bản chất, mang tính khái quát tới tầm triết học là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của Mỹ học. Việc giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, cụ thể hơn là việc dạy môn mỹ học trong nhà trường đang là sự quan tâm hàng đầu đối với nước ta. Vì vậy, việc NXB “Văn hóa thông tin năm 1994 cho in cuốn “Mỹ học đại cương” của các vị dạy môn mỹ học tại đại học là PGS.TS Lê Ngọc Trà, PGS TS Huỳnh Như Phương & ông Lâm Vinh quả là việc làm đáng biểu dương.

       NHỮNG KẾT LUẬN THIẾU NHẤT QUÁN

       Tính nhất quán là yếu tố rất quan trọng của khoa học.

       Sự tùy tiện, trắng đen bất phân minh, mâu thuẫn, lộn xộn bao giờ cũng là kẻ thù của luận lý. Người nghiên cứu khoa học đã để khả năng tự chống lại mình trở thành tai hại nếu anh ta từ bỏ linh hồn của logic là tính nhất quán. Trong cuốn “ mỹ học đại cương” này, rất nhiều đoạn cùng một sự vật, một khái niệm, lúc tác giả bảo đen, lúc bảo trắng, khiến người đọc không biết lấy gì làm tiêu chuẩn chân lý, không còn tin vào người viết nữa. Vì khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi chỉ lấy 5 thí dụ về sự thiếu nhất quán của cuốn sách. Trang 29, Huỳnh Như Phương viết : “Không phải ai khác mà chính những người nghệ sĩ tài năng là thầy dạy cho công chúng biết thế nào là giá trị thẩm mỹ”. Nhưng đến trang 33, tác giả viết viết ngược lại như sau : “Một con người bình thường vẫn có ý thức thẩm mỹ tốt dựa trên kinh nghiệm sống của người ấy”.

       Trang 66, Lê Ngọc Trà viết : “Bằng cớ là có những cái rất cân đối, hài hòa nhưng không gây nên cảm xúc thẩm mỹ”. Đến trang 68 ông Trà lại viết ngược lại : “Sự hài hòa thường được cho là đẹp. Cấu trúc về sự hài hòa chính là cấu trúc lý tưởng của tự nhiên và đời sống xã hội . Một sự vật có hình dáng hoặc tổ chức bên trong hài hòa thường khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ”.

       Trang 71, trong cùng một đoạn, câu đầu ông Trà cho rằng quan niệm về cái đẹp biến đổi theo thời đại không phải cái sau cao hơn, đẹp hơn cái có trước, thì đến câu sau ông lại cho rằng quan niệm kia : “mỗi ngày một đa dạng hơn, sâu sắc hơn”… “Sự biến đổi về quan niệm của cái đẹp không có nghĩa là cái đẹp sau cao hơn cái đẹp trước, cái đẹp hôm nay cao hơn cái đẹp hôm qua. Vấn đề tiến bộ của giá trị thẩm mỹ hết sức phức tạp…Trong quá trình đó, những năng lực bản chất, những mặt khác nhau của con người sẽ bộc lộ dần dần với tính chất độc đáo, không lặp lại nhưng đồng thời cũng mỗi ngày một đa dạng hơn, sâu sắc hơn”…

       Trang 91, 92 ông Trà nói ngược lại điều trên, nghĩa là cái đẹp của nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên  : “ Từ đời sống bước vào nghệ thuật, tất cả những gì được phản ánh trong tác phẩm đều đi qua khoảng cách ấy. Trong ý nghĩa này, có thể nói NGHỆ THUẬT ĐẸP HƠN HIỆN THỰC. Cái đẹp của cuộc đời đi vào nghệ thuật trở nên rực rỡ hơn và hấp dẫn hơn”…( chữ viết hoa do TMH nhấn mạnh)

       Mô Phật, chỗ này thì Lê Ngọc Trà sai quá, các nhà triết học cổ Hi Lạp đã biết CON NGƯỜI HAY NGHỆ THUẬT CỦA NÓ ĐỀU BẮT CHƯỚC TỰ NHIÊN.

       Bắt chước tự nhiên, mô phỏng tự nhiên là bản chất của đời sống và nghệ thuật của con người. Viết sách dạy mỹ học cho sinh viên đại học mà Lê Ngọc Trà dám phán : “NGHỆ THUẬT ĐẸP HƠN HIỆN THỰC” thì chỉ với quan niệm rất sai trái này đã tố cáo cả giáo trình mỹ học của các ông đều sai bét.

       Trang 83, Lê Ngọc Trà viết : “Cái hài không phải là một phạm trù thẩm mỹ phổ biến mà trước hết là một phạm trù thẩm mỹ của nghệ thuật”. Nhưng đến trang 85, ông Trà lại viết ngược lại : “ Cái hài vượt ra ngoài khuôn khổ của nghệ thuật. Nó thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần chung của con người”…v…v…và …v…v

       Thái độ tiền hậu bất nhất của các tác giả trên trước chân lý chứng tỏ các ông vừa thiếu tính hệ thống, vừa thiếu phương pháp luận khoa học. Chúng ta cần phải tìm hiểu xem việc trau dồi tri thức của các tác giả đã đủ tầm kích để bàn về mỹ học hay chưa !

       NHỮNG THIẾU SÓT KHÁ CĂN BẢN VỀ TRI THỨC

       Trang 100, Lê Ngọc Trà đã chứng tỏ mình không hiểu gì chính cái điều mình đang viết như sau : “Hài kịch không được công nhận trong chủ nghĩa cổ điển”. Qủa tình ông Trà không hề nghiên cứu chủ nghĩa cổ điển mới dám liều lĩnh viết như thế.  Cùng với hai nhà bi kịch vĩ đại là Cornelle và Racine, Molière ( 1622-1673) nhà hài kịch khổng lồ của chủ nghĩa cổ điển Pháp, với các vở kịch bất hủ như : “Kẻ đạo đức giả” ( Tartuffe), “Kẻ chán đời” ( Le Misanthrope), “Kẻ biển lận” (l’ Avare) nói về lão hà tiện Harpagon…và hơn mười vở kịch khác. Nói “HÀI  KỊCH KHÔNG ĐƯỢC CÔNG NHẬN TRONG CHỦ NGHĨA CỔ ĐIỂN” là một sự liều lĩnh hi hữu không thể tưởng tượng nổi lại xảy ra trong giới nghiên cứu mỹ học.  Một số người lầm lẫn cho rằng hài kịch của Molière không được chính Boileau – lý thuyết gia của chủ nghĩa cổ điển – công nhận. Cứ cho rằng nhà lý thuyết này không chấp nhận hài kịch đi nữa, thì chính đời sống văn học thế kỷ thứ 17 đương nhiên đã coi Molière là một trong ba chủ soái của chủ nghĩa cổ điển. Bởi cuộc đời cao hơn mọi lý thuyết như Goethe đa dạy.

       Nhưng Boilleau trong Art Poétique lại đánh giá rất cao thơ và hài kịch. Trong bức thư thứ bảy văn vần ( Epitres) gửi Racin, Boileau đã đề cao hài kịch của Moliére vào loại hàng đầu của chủ nghĩa cổ điển. Vả, trong tác phẩm thơ phúng thích ( Satires) của mình, Boileau đã sử dụng khá nhiều yếu tố trào lộng, hoạt kê. Lê Ngọc Trà còn có một số kết luận chứng tỏ sự nghiên cứu văn hóa phương Tây của ông không chỉ hời hợt mà còn chưa nghiêm túc khi ông viết : “ Trong lịch sử văn chương, tính bi kịch của lý tưởng nhân văn , sự khủng hoảng của cái đẹp và hài hòa chỉ mới bắt đầu diễn ra chủ yếu từ hậu kỳ phục hưng với những tác phẩm của Shakespeare ( tr.100). Không, những điều vừa trích không phải bắt đầu từ Shakespeare ( 1564-1616) mà nó đã được khởi đầu từ trên dưới hai nghìn năm với hai nhà bi kịch vĩ đại cổ Hi Lạp là Eschyle ( 525-456 tr.CN) , Sophocle ( 496-406) và nhà hài kịch lớn là Aristophane ( 445-385)… Bởi vì phục hưng có nghĩa là tìm về với nền văn hóa nhân bản cổ Hi-La. Ngay cả những người mở đầu thời đại Phục hưng là Dante và Cervantes đều là những người mang “tính bi kịch của lý tưởng nhân văn” chứ không phải chỉ có mình Shakespeare là đại biểu như Lê Ngọc Trà ngộ nhận.

       Trang 135, khi bàn về mối quan hệ giữa hội họa và điêu khắc, Lâm Vinh viết : “Khác hội họa, đề tài của điêu khắc hẹp hơn, thường tập trung vào việc xây dựng hình tượng về các nhân vật, nhất là nhân vật tích cực, lý tưởng hóa vẻ đẹp cơ thể và ngoại hình con người”. Không, đề tài của điêu khắc không thể hẹp hơn hội họa. Bằng chứng là điêu khắc chiếm lĩnh không gian, còn hội họa chiếm lĩnh mặt phẳng, tìm không gian trong mặt phẳng. Thể loại của điêu khắc quá phong phú gồm : tượng, phù điêu, chạm thủng và chìm hoặc tạo thành các mô-đun kiểu Điềm Phùng Thị…Điêu khắc đâu chỉ tượng người tốt đẹp như Lâm Vinh viết, mà nó còn tạc cả ma quỷ, tượng ác thú như tượng nhân sư Ai Cập, tượng vợ chồng Tần Cối Trung Hoa…Thử nhìn vào nền nghệ thuật điêu khắc vĩ đại có một không hai của Hi Lạp cổ đại, được cho là tuyệt mỹ hơn cả thần linh, ta mới thấy sự kỳ vĩ của nghệ thuật điêu khắc mà hội họa không sao sánh nổi. Đó là nền nghệ thuật Apollon tuyệt mỹ do điêu khắc tạo ra.

       Do sự giới hạn của tri thức, các tác giả của “Mỹ học đại cương”  thường dùng các cụm từ không chính xác để mô tả các khái niệm. Trang 46, Huỳnh Như Phương đưa ra cụm từ “văn hóa sâu”, nghĩa là sẽ có một khái niệm văn hóa nông đi kèm. Trang 95, Lê Ngọc Trà đưa ra một thuật ngữ làm giật thót mình thiên hạ : “RUNG ĐỘNG XẤU XA” . Con người rung động trước cái thiêng liêng cao cả, phi thường, tốt đẹp hoặc nỗi bi thương, tình yêu & cái chết, chứ ai lại đi rung động trước Hit le, Mao Trạch Đông, Pôn Pốt…Trang 122, Lâm Vinh còn đưa ra một khái niệm rất tức cười là “CẤU TRÚC CẢM TÍNH”. Cấu trúc là mối quan hệ bên trong của các thành phần tạo ra chỉnh thể. Còn cảm tính là trạng thái tình cảm mơ hồ , dựa trên cảm giác, là bước sơ khởi của quá trình nhận thức. Cảm tính chưa và không bao giờ là một chỉnh thể nên làm sao mà cấu trúc ?

       MỸ HỌC KHÔNG PHẢI LÀ CHỦ NGHĨA DUY MỸ

       Kết thúc chương một : “Mỹ học là gì”, trang 28, Huỳnh Như Phương cao giọng tuyên ngôn : “Những giá trị nói ở đây là những giá trị được hình thành và phát minh trên cơ sở của cái đẹp, tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cái nhìn, cách đánh giá, nghĩa là nói đến mối quan hệ. Chỉ có thể khám phá, phát minh ra những giá trị thẩm mỹ nếu xác lập được cái nhìn thẩm mỹ và mối quan hệ thẩm mỹ. Tư cách chủ  thể của con người với thế giới thể hiện ra trên nhiều mối quan hệ khác nhau : kinh tế, chính trị, đạo đức…Quan hệ thẩm mỹ không nhất thiết đối lập với các quan hệ đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản chất với các mối quan hệ đó. Quan hệ thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu lợi ích về chính trị hay chiều theo những quy luật đạo đức hiện hành. Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ làm thanh lọc con người, tách con người khỏi những ràng buộc có tính cách vật chất nhằm thiết lập một sợi dây tinh thần giữa con người với thế giới và đối với chính mình trên cơ sở của cái đẹp” ( hết trích)

       Quan niệm của Huỳnh Như Phương trên đây, quả đúng là tuyên ngôn duy mỹ, trái ngược với những quan niệm về mỹ học. Thuyết duy mỹ ( pancalisme) của Baldwin chủ trương chỉ có cái đẹp mới là quy luật tuyệt đối phải theo để khẳng định mọi giá trị của sự vật. Thuyết này chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật” ( I’art pour l’ art). Mỹ học là một hình thái ý thức xã hội của thượng tầng kiến trúc nằm trên hạ tầng cơ sở kinh tế. Huỳnh Như Phương muốn “Ý thức thẩm mỹ” phải “tách con người ra khỏi những mối ràng buộc có tính cách vật chất”. Tách ý thức thẩm mỹ ra khỏi vật chất, thậm chí ra khỏi đạo đức là khai tử môn mỹ học vậy. Huỳnh Như Phương coi quan hệ thẩm mỹ khác về bản chất với đạo đức và luân lý. Một sự vật chỉ được coi là MỸ khi nó mang trong mình cái CHÂN và cái THIỆN. Mỹ học nhập môn phương Tây coi bản chất của cái đẹp là CÁI ĐẸP LUÂN LÝ ( beau moral), chỉ khoái cảm thích thú làm việc thiện và CÁI ĐẸP TINH THẦN ( beau spituel). Tách Mỹ ra khỏi CHÂN THIỆN cũng có nghĩa là ông Phương không công nhận cái MỸ vậy. Về vấn đề này, nhà lý luận Đức thế kỷ thứ 18 là Herder viết : “Cái lõi của toàn bộ cái đẹp là chân lý, bất kỳ cái đẹp nào cũng dẫn tới chân lý và điều thiện”.

       MỘT SỐ PHẠM TRÙ MỸ HỌC CẦN NHẬN THỨC LẠI

Bàn về phạm trù bi hài của Mỹ học, trang 80 Lê Ngọc Trà viết : “Cái đẹp có trong cả tự nhiên và xã hội, cái bi như một phạm trù thẩm mỹ chủ yếu chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp thì vui, hào hứng, còn cái bi thì buồn, đau thương mất mát. Cái đẹp gắn với sự hài hòa, còn cái bi thì với sự xung đột.”. Những kết luận trên xem bên ngoài chừng có vẻ hợp lý nhưng về bản chất là sai. Hegel viết : “Mỹ học là triết học về cái đẹp của nghệ thuật”. Nhà biện chứng pháp duy tâm tuyệt đối hóa cái đẹp trong triết học và nghệ thuật. Ông coi cái đẹp vô cùng trong nghệ thuật là phương pháp suy tưởng triết học cao nhất để đạt tới chân lý tuyệt đối. Cái đẹp của Hegel là cái đẹp ý niệm, nhưng là một ý niệm cụ thể trong hình thức biểu hiện linh động, rực rỡ chứ không phải là cái đẹp siêu hình không có nơi trần gian của Platon. Bác bỏ cái đẹp thực dụng Socrate và cái đẹp ý niệm của Platon, Hegel quy cái đẹp vào thế giới tinh thần là tâm linh nghệ thuật : “ Cái đẹp tâm linh ở tại nơi sâu thẳm linh hồn, ở tận trong thân mật của bản tính vô hạn của nhân loại”. Nhà triết học của cái đẹp này quan niệm : “chân lý chỉ tồn tại trong khả năng suy tưởng về cái đẹp tối thượng”.

       Các nhà triết học Mác xít đã kéo cái đẹp từ cây thánh giá của tâm linh nghệ thuật, của suy tưởng vô cùng xuống trần gian hữu hạn, xuống đời sống con người. Mỹ học không chỉ nghiên cứu hay triết lý về cái đẹp mà quan trọng hơn là còn cải tạo cái đẹp, khác với các người thầy Platon, Aristote chỉ mới bàn về cái đẹp. Quan niệm này vẫn coi cái đẹp là do con người mô phỏng tự nhiên, coi cái đẹp vừa là cái đẹp chủ quan ( beau subjectif) vừa là cái đẹp khách quan ( beau objectif). Sau quan niệm của mỹ học duy vật sơ khai của Socrate, triết học từ trời cao tâm linh suy tưởng đã hạ sơn. Đó là những quan niệm cho phạm trù cái bi trong mỹ học chỉ tồn tại trong nghệ thuật của ông Trà như vừa dẫn là quan niệm duy tâm. Khoa học thẩm mỹ đã thành hành động thẩm mỹ của con người trong mối quan hệ biện chứng với tự nhiên. Chưa nắm vững các phạm trù mỹ học, nên ông Trà đã viết : “Cái đẹp thì vui, hào hứng, còn cái bi thì buồn, đau thương mất mát”. Trong tự nhiên, trong đời sống con người và nghệ thuật đâu phải cái đẹp nào cũng vui, cũng hào hứng, đâu phải cái bi nào cũng buồn, cũng đau thương mất mát? Cái đẹp trong bản chất của mình thường tồn tại nơi nỗi buồn hơn là nơi niềm vui. Kiệt tác “Bữa tiệc ly” ( La Cène) và kiệt tác La Joconde của Léonard de Vin ci có buồn không ? Các kiệt tác “ Oedipe làm vua” của Sophocle, Hamlet của Shakespeare hay “Anh em nhà Karamazov của Dostoievsky có buồn không ? Tranh của Levitan có buồn không ? Tất cả đều buồn lắm chứ nhưng cũng đẹp lắm chứ. Bản chất của cái đẹp trong nghệ thuật chừng như đều phải thông qua nỗi cô đơn, nỗi buồn đau của con người để tiếp nhận thế giới. Với cách hiểu hình thức, Lê Ngọc Trà đã đồng nhất cái bi với cái buồn với đau thương mất mát  là chưa đúng. Đi tận cùng cái BI ta sẽ gặp cái HÀI.

       Trang 100, ông Trà viết : “Suốt mười mấy thế kỷ liên tục, nghệ thuật của thế giới chủ yếu hướng vào miêu tả cái đẹp, cái cao thượng. Truyền thống đó bắt nguồn của nghệ thuật Hi Lạp, được tái sinh trong thời Phục Hưng, xuyên suốt chủ nghĩa cổ điển và tiếp tục phát huy với chủ nghĩa lãng mạn. Trong giai đoạn này, đôi khi việc miêu tả cái xấu trở thành điều cấm kị với nghệ thuật”. ( hết trích).

       Ông Trà đã nhầm lẫn đồng nhất chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn trong cái mà ông gọi là “miêu tả cái đẹp cái cao cả”, “theo thời phục hưng”. Không, chủ nghĩa lãng mạn sinh ra để chối bỏ chủ nghĩa cổ điển cũng như chối bỏ nghệ thuật Hi Lạp, chứ không phải đồng nhất với chúng về phương pháp sáng tác. Nếu thời đại Phục Hưng là giấc mơ về vẻ đẹp Apollon, Venus và Eros, thì chủ nghĩa cổ điển là sự mô phỏng nghệ thuật Hi Lạp, lấy cái đẹp thân thể làm lý tưởng, với triết học duy lý của Descartes làm cơ sở lý luận. Cũng như nghệ thuật Hi Lạp, chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ thứ 18 xa lánh cái xấu xa, cốt đề cao vẻ đẹp sang trọng, quý phái, lấy sự mực thước, quy củ, phục tùng và hài hòa hợp lý làm tiêu chí.

       Chủ nghĩa lãng mạn đối lập và phá bỏ những mẫu mực Hi Lạp của chủ nghĩa cổ điển. Thẩm mỹ của trào lưu này ngược hẳn với thời kỳ trước là dám tiếp nhận cái xấu xa, sự đê tiện hay nỗi đau khổ và cái chết. Hình tượng nghệ thuật của nó không còn là những nhân vật lý tưởng hào hoa phong nhã mà là con người bình thường, thậm chí xấu xí như anh gù Quasimodo trong Notre Dame de Paris của V. Hugo…

       Trang 78, bàn về phạm trù cái cao cả, ông Trà viết : “Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ của nó đối với con người. Cái cao cả là cái có tầm vóc lớn lao, phi thường, có thể gây ra ở con người cảm giác choáng ngợp, chiêm ngưỡng, kính phục đôi khi pha lẫn chút bối rối sợ hãi”.

Cái đẹp cao cả  ( beau sublime) do Immanuel ( 1724-1804) để xướng như một phạm trù của cái đẹp. Rằng cái cao cả là một cái đẹp gây nên thích thú do cái nhìn về vô cùng, vô biên. . Thí dụ nhìn cảnh trời đầy sao, cảnh đại dương vô tận gây nên những hứng thú cao siêu. Tuy nhiên, trong cảm giác vui thích đầy tính thiên giới ấy có thể hàm chứa cả sự đớn đau. Cái đẹp theo quan điểm của Kant mang tính cứu cánh, như một mệnh lệnh tuyệt đối ( l’ imperative catégirique ) làm căn bản chung cho tất cả, không phụ thuộc vào mục đích cụ thể hay điều kiện vật chất thực tiễn nào. Ông tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và cảm thụ thẩm mỹ để phủ định vai trò khách thể của mỹ học.Nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò của khách thể nhằm thoát khỏi mỹ học Kant, coi “ Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ của nó với con người” như Lê Ngọc Trà viết là không đúng, là duy vật chủ quan. Nếu con người không phổ ý thức chủ quan vào thế giới khách quan của trời cao, bể rộng, sông dài, núi lớn… thì không sinh ra cái đẹp cao cả được. Do vậy, cái đẹp cao cả là sự hôn phối giữa chủ thể và khách thể chứ không phải chỉ ở phía khách quan như ông Trà lầm tưởng. Nếu không có cái tâm con người tác động vào, vật chỉ thuần túy là vật, bản thân nó vốn trung tính, nên cái cao cả không phải là cái “ đặc tính của các sự vật, hiện tượng như ông Trà ngộ nhận. Ông Trà cho rằng cái cao cả là cái có tầm vóc lớn lao phi thường chỉ đúng một nửa. Bởi cái cao cả còn thể hiện một cách vi mô trong thế giới tâm hồn trước tình yêu, trước Thượng Đế, trước những cảm xúc hữu hình và vô hình trong tâm linh con người. Không nắm bắt đầy đủ hiện tượng và bản chất của phạm trù này, không thể chạm tới cái cao cả của mỹ học Kant.

       Tóm lại, với những dẫn chứng và phân tích trên, các tác giả của “Mỹ học đại cương” đã mắc khá nhiều sai lầm khi viết về mỹ học. Rằng mỹ học không phải là chủ nghĩa duy mỹ để tách khỏi cái chân và cái thiện được. Chúng tôi mong giáo trình mỹ học này cần phải soạn lại cho đúng mới có thể dùng giảng dạy trong nhà trường bậc đại học, huống hồ nó lại được dùng cho sinh viên làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ thì tác hại lắm thay.,.

       Sài Gòn 20-5-1996

              T.M.H.

       (Nguồn:  báo “Văn Nghệ số 29 năm 1996 và in trong cuốn “Hầu chuyện giáo sư” của TMH ấn hành năm 1999)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét