Một
số bạn trên facebook lấy nick là “Khúc Thụy Du”. Ắt hẳn các bạn ấy yêu thích
bài hát “Khúc Thụy Du” do nhạc sĩ Anh Bằng phổ thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Bài hát
có nội dung như sau:
KHÚC THỤY DU
Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những gì
Về bên kia thế giới
Ngoài trống vắng mà thôi
Thụy ơi, và tình ơi
Như loài chim bói cá
Trên cọc nhọn trăm năm
Tôi tìm đời đánh mất
Trong vũng nước cuộc đời
Trong vũng nước cuộc đời
Thụy ơi, và tình ơi
Đừng bao giờ em hỏi
Vì sao ta yêu nhau
Vì sao môi anh nóng
Vì sao tay anh lạnh
Vì sao thân anh rung
Vì sao chân không vững
Vì sao, và vì sao
Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào
Cắt đứt cuộc tình đầu
Thụy bây giờ về đâu
Đừng bao giờ em hỏi
Vì sao ta yêu nhau
Vì sao môi anh nóng
Vì sao tay anh lạnh
Vì sao thân anh rung
Vì sao chân không vững
Vì sao, và vì sao
Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào
Cắt đứt cuộc tình đầu
Thụy bây giờ về đâu
Êm ái và ngọt ngào
Cắt đứt cuộc tình đầu
Thụy bây giờ về đâu
Anh Bằng
“Khúc
Thụy Du” qua lời nhạc của Anh Bằng là một khúc tình ca mà hình ảnh, ca từ cũng
như giai điệu đã chất chứa những nỗi buồn và tiếc nuối về một ân tình dĩ vãng,
và những cảm xúc đó trong bài hát dường như là ai cũng đã một lần trải qua.
Còn,“Khúc
Thụy Du”trong thơ Du Tử Lê như thế nào?
KHÚC THỤY DU
1.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình
trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi?
2.
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài
ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thuỵ ơi và thuỵ ơi
tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thuỵ ơi và thuỵ ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết
tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
thuỵ ơi và thuỵ ơi
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể
anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển
Du Tử Lê
(03-68)
1/ Ý nghĩa “thụy du” trong bài thơ của
Du Tử Lê:
Nhà
thơ Du Tử Lê cho biết:
“Khi
biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ
sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.
Đầu
tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả
khu Ngã tư Bảy Hiền.
Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn
còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị
Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền,
ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác
chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân
chúng, binh sĩ hay bộ đội CS.
Khi
tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt
người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất
nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm
chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt
tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.
Khi
tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ
Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học
của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai
bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi
nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh
mạng cho tôi, dù là bạn cũ….
Trên
đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp
nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại
gây chấn động dữ dội trong tôi…
Giữa
tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện
thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục
bản.
Gọi
là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng
xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như
đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng
ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại – – Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá
lâu.
Sau
khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.
Tôi
nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện
tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi
thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với
người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những
người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa…
Cuối
cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi
xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.
Viết
xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung!
Bài
thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của
tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ.
Thời
đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách,
tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.)
Tuy
còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài
thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại
cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ
– bày quả rỉa xác người – (của tươi đời nhượng lại) – bữa ăn nào ngon hơn – làm
sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan –
trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân…
Nói
cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những
người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những
tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?
Như
đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và
một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái
này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một
cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ.
Bài
thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972).
Cuối
năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 1973.
*
Sau
đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc
ngay ngã tư đường Trask vàFairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ
Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh:
“Tôi
có thể chỉ cho người đó hát…”
Thời
gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt
Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang
chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.
Khi
ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới
biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà,
không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết
chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.
Từ
đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội
dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca
khúc “Khúc Thuỵ Du”…
Nhưng,
hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…
(Du Tử Lê – 01/30/2010 – 06:34 PM)
http://www.dutule.com/D_1-2_2-99_4-325/ve-bai-tho-khuc-thuy-du.html
Qua
lời chính tác giả Du Tử Lê,chúng ta biết bài thơ không chỉ là một khúc tình ca
viết về tình yêu, mà còn là những suy tư trằn trọc về thời sự với những cảnh tượng
bi thương tang tóc do chiến tranh ụp xuống quê hương... “Khúc thụy du” được Du
Tử Lê viết vào tháng 3.1968, ông nói:
“Đó
là điều gì đó rất bấp bênh và chia ly gần như thường trực, có những cuộc tình đổ
vỡ, và như vậy thì làm sao nhìn về một hướng được. Thành ra, khi viết bài thơ
đó, tôi muốn nói: Yêu nhau không phải là nhìn về một hướng mà yêu nhau là nên
nhìn vào định mệnh, cuộc đời, hoàn cảnh của nhau, kể cả sự chia lìa trước sau
cũng sẽ đến, đó là ý niệm sâu xa của bài Khúc thụy du.Cảm hứng buồn thương là sợi
dây xuyên suốt tác phẩm: Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai họa, một tuyệt
lộ”
Nhà
phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét:
“Tác
phẩm thể hiện phong cách ngôn ngữ đặc trưng của Du Tử Lê, nhiều day dứt, tuyệt
vọng. Ngoài gửi gắm mong ước cuộc tình kéo dài mãi mãi kể cả khi chết đi, bài
thơ là tiếng cảm thán về số phận hữu hạn, mong manh của mỗi người. Khi được thổi
hồn bằng ngôn ngữ âm nhạc, tác phẩm có chiều sâu, dễ đi vào lòng người hơn”.
*
THỤY
DU đã được chính nhà thơ Du Tử Lê giải thích:
“Thụy
là tên lót của người con gái dược khoa ông theo đuổi lúc bấy giờ - bà Thụy
Châu, sau này là vợ đầu của ông. THỤY DU là tên ghép THỤY và DU (chữ đầu trong
bút danh Du Tử Lê).”
2/ Chuyện trên face về “khúc thụy du” và
“giấc thụy du”
“Khúc
Thụy Du” là nick name của một số bạn trên face. Đặc biệt có bạn đăng tập thơ
“Giấc thụy du” lên face để chia sẻ.
Thế
là các comments cùng rộ lên, bạn thì chúc mừng tập thơ vừa xuất bản, bạn thì nhận
xét khen ngợi tập thơ, có bạn đăng status giới thiệu tập thơ, có bạn đăng
status bình luận tập thơ về hình thức, và nghệ thuật văn chương. Nhưng cũng có
bạn đăng status phê phán cái tựa đề “Giấc thụy du”của tập thơ không hợp lý.
Trích
đoạn STT trên face của bạn ấy:
“THỤY DU, KHÚC THỤY DU, GIẤC THỤY
DU
Theo
nghĩa Hán Việt, Thụy 睡 : giấc
ngủ, thí dụ “thụy y” 睡衣 quần
áo ngủ. Du 遊: Đi.
Đi từ nơi này qua nơi khác
Vậy
"Thụy du" 睡遊: Đi
trong khi ngủ, mộng du. Mộng du là tình trạng đi trong giấc ngủ
(Sleepwalking). Đây là một loại rối loạn giấc ngủ có nhiều khi nguy hiểm,
nó là chứng bệnh somnambulism.
-
Khúc Thụy du là khúc hát khi mộng du.
-
Giấc thụy du? Thụy là giấc ngủ, dùng thêm chữ giấc - chữ Nôm - vào chi
vậy, cho ‘ba rọi’?
Về
cụm chữ ‘Giấc thụy du’ tôi nhớ đến những lời ‘ấn tượng’ này của
một nữ sĩ và của nhà bình thơ khen thơ bà:
-
‘Hãy nhớ đến cuộc tình của tôi nó là GIẤC THỤY DU có thật’- XYZ (xin được
giấu tên- NL)
-
‘Nữ sĩ XYZ viết về tình yêu, thì tình yêu như giấc thụy du nhưng không huyễn
hoặc, thắm thiết trong từng sát na và đẹp như trăng huyền ảo’ – ABC
Sự
nhận biết về 2 chữ Thụy Du làm tôi nhớ đến câu truyện 'Người mù sờ voi'
trong kinh Phật, mỗi người nhận biết khác nhau...”
Theo
bạn đăng STT ấy, “giấc” là từ thuần Việt, “thụy du” là từ Hán Việt. ghép từ thuần
Việt với từ Hán Việt là nửa nạc nửa mỡ như thịt “ba rọi”.
Thịt
ba rọi hay còn gọi là thịt ba chỉ (tiếng Anh gọi là Pork belly) là phần thịt nằm
ở bụng của con heo. Thịt ba rọi không có xương, khi cắt ngang miếng thịt sẽ thấy
các lớp thịt nạc, mỡ xen kẽ nhau và ngoài cùng là lớp da mỏng.
*
Bạn
đăng STT ấy đã đúng khi giải nghĩa về các từ ngữ “thụy du”, “khúc thụy du” và bạn
ấy cũng không sai khi cho rằng “giấc thụy du” là từ “ba rọi”, tuy nhiên bạn ấy
không xét đến tập quán ngôn ngữ khi việc “Hán Nôm đề huề” như thế đã trở thành
khá phổ biến, thông dụng trong văn học, ngôn ngữ Việt Nam.
Tôi
cũng tham gia trong cuộc bàn luận sôi nổi dưới dạng comment. Xin chép lại những
ý kiến của tôi lúc đó.
KHÚC
THỤY DU 曲睡游là một
từ Hán Việt.
Theo
nghĩa Hán Việt:
-
Khúc 曲: khúc nhạc, bài hát
-
Thụy 睡: Giấc ngủ (danh)
Thụy
睡: Ngủ gục, ngủ gật, buồn ngủ
(Động)
Thụy
睡: Thuộc về “ngủ”. Để dùng
khi ngủ. (Tính)
- Thuỵ ý 睡意: Cảm giác buồn ngủ
- Thụy y 睡衣 quần áo ngủ.
THỤY,
nghĩa là NGỦ, tuỳ theo từ loại nếu là danh từ (có chữ “giấc”), nếu là động từ
hoặc tính từ (không có chữ “giấc”)
Theo
từ điển Thiều Chửu, Thụy 睡 có
nghĩa là ngủ, lúc mỏi nhắm mắt gục xuống cho tinh thần yên lặng gọi là thuỵ.
-
Du 游: đi chơi. Du có cách viết khác (遊).
Thụy
Du 睡游 cùng nghĩa với mộng du 夢遊.
Thụy
du hay mộng du được biết đến như một rối loạn giấc ngủ(somnambulism). Người bị
mộng du có thể đi khi đang ngủ (Sleepwalking), hay thực hiện một số hành động
thông thường như: ăn uống, mặc quần áo, lái xe,...thường xuất hiện khoảng một đến
hai giờ sau khi ngủ và chúng thường kéo dài trong khoảng 30 phút.
-
KHÚC THỤY DU 曲睡游theo
nghĩa Hán Việt là một “khúc hát vềngười đi trong giấc ngủ mơ”, “khúc hát khi
mộng du”.
Còn
“GIẤC THỤY DU” là giấc mộng của những người lãng đãng trong cơn mê ngỡ như mình
đang mộng du, phiêu lãng...
“Giấc
thụy du” là một từ ghép dạng “Hán Việt đề huề” khá phổ biến trong văn học xưa
và trong ngôn ngữ chúng ta hôm nay
*
Có
một chữ gần nghĩa với Thụy 睡 (giấc ngủ) đó là Miên.
Chữ
Miên 眠 chỉ việc ngủ sâu và dài,
thường dùng trong các nghĩa: ngủ đông (冬眠 - đông miên), an giấc (安眠 - an miên), yên giấc nghìn thu (长眠 - trường miên), cô miên 孤眠 - ngủ một mình, cô đơn.
“Lạnh
lùng thay GIẤC CÔ MIÊN,
Mùi
hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.”
(Cung oán ngâm khúc)
Ôn
Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết GIẤC CÔ MIÊN, nhạc sĩ Nguyễn Hồng Hải đã sáng
tác nhạc phẩm CƠN MỘNG DU (ca từ của Ngô Duy Phương) do ca sĩ Trương Ngọc Ánh
trình bày trong phim Hương Ga OST.
Vậy
thì nhà thơ nữ XYZ nào đó dùng từ GIẤC THỤY DU thì cũng bình thường. Trong văn
học chữ Nôm, các bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, của Hồ Xuân Hương và những
nhà thơ nổi danh Việt Nam khác đầy dẫy những từ ngữ ‘ba rọi’ như bạn nói đấy,
tôi chỉ dẫn chứng một vài trường hợp thôi:
“cuộc
hý trường”, “bóng tịch dương”, “bóng ác tà”, “miền khoáng dã”, “bãi bình sa”,
“người lữ thứ”, “nỗi hàn ôn”, “mặt anh hùng”, “đầu quân tử”, “con Bạch Thố”,
“chị Hằng Nga”
Cuối
cùng bạn ấy trả lời:
Cám
ơn bạn nha, rất lý thú. Chắc tôi sẽ edit lại cho chính xác. Chúc an
lạc
Sau
đó bạn ấy đã xóa đoạn cho rằng “GIẤC THỤY DU là “ba rọi” trên STT.
Những
cuộc tranh luận trên face nhiều khi cũng rất vui và hữu ích.
La Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét