Thứ Hai, 4 tháng 12, 2023

LAN MAN CHUYỆN TRÊN FACEBOOK TỪ “KHÚC THỤY DU” ĐẾN “GIẤC THỤY DU” / La Thụy

 



       Một số bạn trên facebook lấy nick là “Khúc Thụy Du”. Ắt hẳn các bạn ấy yêu thích bài hát “Khúc Thụy Du” do nhạc sĩ Anh Bằng phổ thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Bài hát có nội dung như sau:

 

       KHÚC THỤY DU

 

Hãy nói về cuộc đời

Khi tôi không còn nữa

Sẽ lấy được những gì

Về bên kia thế giới

Ngoài trống vắng mà thôi

Thụy ơi, và tình ơi

Như loài chim bói cá

Trên cọc nhọn trăm năm

Tôi tìm đời đánh mất

Trong vũng nước cuộc đời

Trong vũng nước cuộc đời

Thụy ơi, và tình ơi

Đừng bao giờ em hỏi

Vì sao ta yêu nhau

Vì sao môi anh nóng

Vì sao tay anh lạnh

Vì sao thân anh rung

Vì sao chân không vững

Vì sao, và vì sao

Hãy nói về cuộc đời

Tình yêu như lưỡi dao

Tình yêu như mũi nhọn

Êm ái và ngọt ngào

Cắt đứt cuộc tình đầu

Thụy bây giờ về đâu

Đừng bao giờ em hỏi

Vì sao ta yêu nhau

Vì sao môi anh nóng

Vì sao tay anh lạnh

Vì sao thân anh rung

Vì sao chân không vững

Vì sao, và vì sao

Hãy nói về cuộc đời

Tình yêu như lưỡi dao

Tình yêu như mũi nhọn

Êm ái và ngọt ngào

Cắt đứt cuộc tình đầu

Thụy bây giờ về đâu

Êm ái và ngọt ngào

Cắt đứt cuộc tình đầu

Thụy bây giờ về đâu

                Anh Bằng

 

“Khúc Thụy Du” qua lời nhạc của Anh Bằng là một khúc tình ca mà hình ảnh, ca từ cũng như giai điệu đã chất chứa những nỗi buồn và tiếc nuối về một ân tình dĩ vãng, và những cảm xúc đó trong bài hát dường như là ai cũng đã một lần trải qua.

Còn,“Khúc Thụy Du”trong thơ Du Tử Lê như thế nào? 

 

KHÚC THỤY DU

 

1.

như con chim bói cá

trên cọc nhọn trăm năm

tôi tìm đời đánh mất

trong vụng nước cuộc đời

 

như con chim bói cá

tôi thường ngừng cánh bay

ngước nhìn lên huyệt lộ

bầy quạ rỉa xác người

(của tươi đời nhượng lại)

bữa ăn nào ngon hơn

làm sao tôi nói được

 

như con chim bói cá

tôi lặn sâu trong bùn

hoài công tìm ý nghĩa

cho cảnh tình hôm nay

 

trên xác người chưa rữa

trên thịt người chưa tan

trên cánh tay chó gặm

trên chiếc đầu lợn tha

tôi sống như người mù

tôi sống như người điên

tôi làm chim bói cá

lặn tìm vuông đời mình

 

trên mặt đất nhiên lặng

không tăm nào sủi lên

 

đời sống như thân nấm

mỗi ngày một lùn đi

tâm hồn ta cọc lại

ai làm người như tôi?

 

2.

mịn màng như nỗi chết

hoang đường như tuổi thơ

chưa một lần hé nở

trên ngọn cờ không bay

đôi mắt nàng không khép

bàn tay nàng không thưa

lọn tóc nàng đêm tối

khư khư ôm tình dài

 

ngực tôi đầy nắng lửa

hãy nói về cuộc đời

tôi còn gì để sống

hãy nói về cuộc đời

khi tôi không còn nữa

sẽ mang được những gì

về bên kia thế giới

thuỵ ơi và thuỵ ơi

 

tôi làm ma không đầu

tôi làm ma không bụng

tôi chỉ còn đôi chân

hay chỉ còn đôi tay

sờ soạng tìm thi thể

quờ quạng tìm trái tim

lẫn tan cùng vỏ đạn

dính văng cùng mảnh bom

thuỵ ơi và thuỵ ơi

đừng bao giờ em hỏi

vì sao mình yêu nhau

vì sao môi anh nóng

vì sao tay anh lạnh

vì sao thân anh rung

vì sao chân không vững

vì sao anh van em

hãy cho anh được thở

bằng ngực em rũ buồn

hãy cho anh được ôm

em, ngang bằng sự chết

 

tình yêu như ngọn dao

anh đâm mình, lút cán

thuỵ ơi và thuỵ ơi

 

không còn gì có nghĩa

ngoài tình anh tình em

đã ướt đầm thân thể

 

anh ru anh ngủ mùi

đợi một giờ linh hiển

 

Du Tử Lê

(03-68)

 

1/ Ý nghĩa “thụy du” trong bài thơ của Du Tử Lê:

 

Nhà thơ Du Tử Lê cho biết:

“Khi biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.

Đầu tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả khu Ngã tư Bảy Hiền.

Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền, ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân chúng, binh sĩ hay bộ đội CS.

Khi tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.

Khi tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh mạng cho tôi, dù là bạn cũ….

Trên đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại gây chấn động dữ dội trong tôi…

Giữa tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục bản.

Gọi là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại – – Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá lâu.

Sau khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.

Tôi nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa…

Cuối cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.

Viết xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung!

Bài thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ.

Thời đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách, tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.)

Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ – bày quả rỉa xác người – (của tươi đời nhượng lại) – bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân…

Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?

Như đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ.

Bài thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972).

Cuối năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 1973.

*

Sau đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc ngay ngã tư đường Trask vàFairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh:

“Tôi có thể chỉ cho người đó hát…”

Thời gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.

Khi ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà, không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.

Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca khúc “Khúc Thuỵ Du”…

Nhưng, hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…

(Du Tử Lê – 01/30/2010 – 06:34 PM)

http://www.dutule.com/D_1-2_2-99_4-325/ve-bai-tho-khuc-thuy-du.html

Qua lời chính tác giả Du Tử Lê,chúng ta biết bài thơ không chỉ là một khúc tình ca viết về tình yêu, mà còn là những suy tư trằn trọc về thời sự với những cảnh tượng bi thương tang tóc do chiến tranh ụp xuống quê hương... “Khúc thụy du” được Du Tử Lê viết vào tháng 3.1968, ông nói:

“Đó là điều gì đó rất bấp bênh và chia ly gần như thường trực, có những cuộc tình đổ vỡ, và như vậy thì làm sao nhìn về một hướng được. Thành ra, khi viết bài thơ đó, tôi muốn nói: Yêu nhau không phải là nhìn về một hướng mà yêu nhau là nên nhìn vào định mệnh, cuộc đời, hoàn cảnh của nhau, kể cả sự chia lìa trước sau cũng sẽ đến, đó là ý niệm sâu xa của bài Khúc thụy du.Cảm hứng buồn thương là sợi dây xuyên suốt tác phẩm: Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai họa, một tuyệt lộ”

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét:

“Tác phẩm thể hiện phong cách ngôn ngữ đặc trưng của Du Tử Lê, nhiều day dứt, tuyệt vọng. Ngoài gửi gắm mong ước cuộc tình kéo dài mãi mãi kể cả khi chết đi, bài thơ là tiếng cảm thán về số phận hữu hạn, mong manh của mỗi người. Khi được thổi hồn bằng ngôn ngữ âm nhạc, tác phẩm có chiều sâu, dễ đi vào lòng người hơn”.

*

THỤY DU đã được chính nhà thơ Du Tử Lê giải thích:

“Thụy là tên lót của người con gái dược khoa ông theo đuổi lúc bấy giờ - bà Thụy Châu, sau này là vợ đầu của ông. THỤY DU là tên ghép THỤY và DU (chữ đầu trong bút danh Du Tử Lê).”

 

2/ Chuyện trên face về “khúc thụy du” và “giấc thụy du”

 

“Khúc Thụy Du” là nick name của một số bạn trên face. Đặc biệt có bạn đăng tập thơ “Giấc thụy du” lên face để chia sẻ.

Thế là các comments cùng rộ lên, bạn thì chúc mừng tập thơ vừa xuất bản, bạn thì nhận xét khen ngợi tập thơ, có bạn đăng status giới thiệu tập thơ, có bạn đăng status bình luận tập thơ về hình thức, và nghệ thuật văn chương. Nhưng cũng có bạn đăng status phê phán cái tựa đề “Giấc thụy du”của tập thơ không hợp lý.

       Trích đoạn STT trên face của bạn ấy:

 

“THỤY DU, KHÚC THỤY DU, GIẤC THỤY DU

 

       Theo nghĩa Hán Việt, Thụy : giấc ngủ, thí dụ “thụy y” 睡衣 quần áo ngủ. Du : Đi. Đi từ nơi này qua nơi khác

Vậy "Thụy du" 睡遊: Đi trong khi ngủ, mộng du. Mộng du là tình trạng đi trong giấc ngủ (Sleepwalking). Đây là một loại rối loạn giấc ngủ có nhiều khi nguy hiểm, nó là chứng bệnh somnambulism.

- Khúc Thụy du là khúc hát khi mộng du.

- Giấc thụy du? Thụy là giấc ngủ, dùng thêm chữ giấc - chữ Nôm - vào chi vậy, cho ‘ba rọi’?

Về cụm chữ ‘Giấc thụy du’ tôi nhớ đến những lời ‘ấn tượng’ này của một nữ sĩ và của nhà bình thơ khen thơ bà:

- ‘Hãy nhớ đến cuộc tình của tôi nó là GIẤC THỤY DU có thật’- XYZ (xin được giấu tên- NL)

- ‘Nữ sĩ XYZ viết về tình yêu, thì tình yêu như giấc thụy du nhưng không huyễn hoặc, thắm thiết trong từng sát na và đẹp như trăng huyền ảo’ – ABC

Sự nhận biết về 2 chữ Thụy Du làm tôi nhớ đến câu truyện 'Người mù sờ voi' trong kinh Phật, mỗi người nhận biết khác nhau...”

Theo bạn đăng STT ấy, “giấc” là từ thuần Việt, “thụy du” là từ Hán Việt. ghép từ thuần Việt với từ Hán Việt là nửa nạc nửa mỡ như thịt “ba rọi”.

Thịt ba rọi hay còn gọi là thịt ba chỉ (tiếng Anh gọi là Pork belly) là phần thịt nằm ở bụng của con heo. Thịt ba rọi không có xương, khi cắt ngang miếng thịt sẽ thấy các lớp thịt nạc, mỡ xen kẽ nhau và ngoài cùng là lớp da mỏng.

*

Bạn đăng STT ấy đã đúng khi giải nghĩa về các từ ngữ “thụy du”, “khúc thụy du” và bạn ấy cũng không sai khi cho rằng “giấc thụy du” là từ “ba rọi”, tuy nhiên bạn ấy không xét đến tập quán ngôn ngữ khi việc “Hán Nôm đề huề” như thế đã trở thành khá phổ biến, thông dụng trong văn học, ngôn ngữ Việt Nam.

Tôi cũng tham gia trong cuộc bàn luận sôi nổi dưới dạng comment. Xin chép lại những ý kiến của tôi lúc đó.

KHÚC THỤY DU 曲睡游là một từ Hán Việt.

Theo nghĩa Hán Việt:

- Khúc : khúc nhạc, bài hát

- Thụy : Giấc ngủ (danh)                 

       Thụy : Ngủ gục, ngủ gật, buồn ngủ (Động)

       Thụy : Thuộc về “ngủ”. Để dùng khi ngủ. (Tính)

                 - Thuỵ ý 睡意: Cảm giác buồn ngủ

                 - Thụy y 睡衣 quần áo ngủ.

THỤY, nghĩa là NGỦ, tuỳ theo từ loại nếu là danh từ (có chữ “giấc”), nếu là động từ hoặc tính từ (không có chữ “giấc”)

Theo từ điển Thiều Chửu, Thụy có nghĩa là ngủ, lúc mỏi nhắm mắt gục xuống cho tinh thần yên lặng gọi là thuỵ.

- Du  : đi chơi. Du có cách viết khác ().

 

Thụy Du 睡游 cùng nghĩa với mộng du 夢遊.

Thụy du hay mộng du được biết đến như một rối loạn giấc ngủ(somnambulism). Người bị mộng du có thể đi khi đang ngủ (Sleepwalking), hay thực hiện một số hành động thông thường như: ăn uống, mặc quần áo, lái xe,...thường xuất hiện khoảng một đến hai giờ sau khi ngủ và chúng thường kéo dài trong khoảng 30 phút.

       - KHÚC THỤY DU 曲睡游theo nghĩa Hán Việt là một “khúc hát vềngười đi trong giấc ngủ mơ”, “khúc hát khi mộng du”.

Còn “GIẤC THỤY DU” là giấc mộng của những người lãng đãng trong cơn mê ngỡ như mình đang mộng du, phiêu lãng...

Giấc thụy du” là một từ ghép dạng “Hán Việt đề huề” khá phổ biến trong văn học xưa và trong ngôn ngữ chúng ta hôm nay

*

Có một chữ gần nghĩa với Thụy (giấc ngủ) đó là Miên.

Chữ Miên chỉ việc ngủ sâu và dài, thường dùng trong các nghĩa: ngủ đông (冬眠 - đông miên), an giấc (安眠 - an miên), yên giấc nghìn thu (长眠 - trường miên), cô miên 孤眠 - ngủ một mình, cô đơn.

Lạnh lùng thay GIẤC CÔ MIÊN,

Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.”

                         (Cung oán ngâm khúc)

Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết GIẤC CÔ MIÊN, nhạc sĩ Nguyễn Hồng Hải đã sáng tác nhạc phẩm CƠN MỘNG DU (ca từ của Ngô Duy Phương) do ca sĩ Trương Ngọc Ánh trình bày trong phim Hương Ga OST.

Vậy thì nhà thơ nữ XYZ nào đó dùng từ GIẤC THỤY DU thì cũng bình thường. Trong văn học chữ Nôm, các bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, của Hồ Xuân Hương và những nhà thơ nổi danh Việt Nam khác đầy dẫy những từ ngữ ‘ba rọi’ như bạn nói đấy, tôi chỉ dẫn chứng một vài trường hợp thôi:

cuộc hý trường”, “bóng tịch dương”, “bóng ác tà”, “miền khoáng dã”, “bãi bình sa”, “người lữ thứ”, “nỗi hàn ôn”, “mặt anh hùng”, “đầu quân tử”, “con Bạch Thố”, “chị Hằng Nga”

Cuối cùng bạn ấy trả lời:

Cám ơn bạn nha, rất lý thú. Chắc tôi sẽ edit lại cho chính xác. Chúc an lạc

Sau đó bạn ấy đã xóa đoạn cho rằng “GIẤC THỤY DU là “ba rọi” trên STT.

Những cuộc tranh luận trên face nhiều khi cũng rất vui và hữu ích.

 

La Thụy

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét