Nguyễn Thanh Lâm |
Tôi có thói quen mỗi
lần đọc thơ, khi gặp một câu hay, ý lạ thường tự thưởng cho mình một ly rượu -
thắp lửa ở lòng mình, thả hồn lang thang trên ngọn nguồn, bến bờ say của câu
chữ. Và hôm nay đọc tập: Cưỡng Xuân của Đặng
Xuân Xuyến, không cưỡng nổi lòng mình, không thể hoãn cái sự sướng, tôi nhắm rượu
với thơ.
Sao lại Cưỡng Xuân? Người
ta thường nói đón xuân, khao khát mùa xuân về, có người rẽ lá vàng chặn lối
xuân đi và chặn nẻo xuân về; có thể yêu xuân và thù hận mùa xuân, nhưng Cưỡng Xuân thì chưa
có ai dám “liều” như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Mùa xuân như thiếu nữ huyền
bí trong vẻ non tơ mà nhà thơ dám cưỡng xuân sao? Không thể! Nhưng nhan đề tập
thơ là “Cưỡng Xuân”
rất lạ, gợi trí tưởng tượng, hoang mang, mời gọi tìm hiểu. Ôi “Cưỡng Xuân”! Mới
nghĩ đến thôi đã thấy lạ và không khỏi giật mình.
Và tôi như kẻ vụng trộm
lắng nghe tiếng nói thì thầm của đôi trai gái: “Em gạ một đêm chồng vợ/
Cho mùi da thịt thơm hương”, và tiếng chàng trai” “Ừ thì, một đêm thôi
nhé/ Mai đừng nữa gạ một đêm.”
Gạ thôi, rủ yêu thôi,
có cưỡng gì đâu! Nhưng tình yêu đến với tình yêu, thực sự như lửa gặp lửa sẽ
hòa đồng cùng cháy sáng. Không mặc cả, không gạ gẫm, chàng trai bằng lòng một
đêm mà vẫn lo xa: “Kẻo
trời cao mà ngẫu hứng/ Trói đời anh vào với em”.
Thì ra là vậy. Sự lo lắng
của chàng trai đã vén màn bí mật của “Cưỡng Xuân”. Là
sự lạ trong tình yêu mà cũng rất đời thường.
Cái sự lạ trong đời thường
không khoác áo đạo đức, mà lại rất hồn nhiên: “Rỉ rắc mưa/ Rét ngọt
trở mùa/ Em vê tròn ném tôi vào cơn lốc... / Vít cổ xuống/ Cong người/ Em rướn…
/ Em…”
Cưỡng xuân ở đây là sự cưỡng
của cơn say “Ném tôi
vào cơn lốc” và sự run rẩy của bàn tay, bản năng không lý trí: “Vít cổ xuống/ Cong
người/ Em rướn...” theo bản năng yêu... và tiếng “Em” cuối cùng như
tiếng thở gấp, đưa tình lên đỉnh… cõi bồng lai.
Tôi tự hỏi, tình yêu điên
cuồng mê dại như thế có phải là “Cưỡng” không? Muốn đem lý thuyết phân tâm của
F.Rớt để trả lời mà không thể, mọi lý thuyết đều “mất điện” trong tình yêu.
Hãy nghe trong giấc “Mơ Đêm” - “Cuống cuồng vòng tay
ghì hơi ấm” - Chỉ ngôn ngữ của thơ mới “ghì hơi ấm”, chỉ “khi tỉnh rượu/ lúc tàn
canh” nhà thơ mới tự thương mình, giật mình xót xa cho mình. “Giật mình/ Ánh mắt nửa đêm/
hun hút đại ngàn gió hú.../ Thèm trận cuồng lũ/ Dào dào trùm ải chờ mưa/ Khát...”
Khát là sự đòi hỏi của thể
chất, khi khát cần uống, khi đói thèm ăn, nhưng cái khát trong tình yêu dày vò
ở tâm, ở tim, linh thiêng và gần với thánh thần hơn. Cái khát thể hiện bằng
thơ: “Trăng vàng lả
lướt bến sông/ Đắm hồn tôi với mênh mông gió trời” (Mơ). Khát trong cả
giấc mơ là cái khát không bờ, không bến. Và khi đã khát thì ở đâu cũng khát.
Cái khát của tình yêu không có nhà, không nơi ẩn náu mà ở đâu cũng thành quê
hương.
Một chiều lạ “Sợ đêm về/ quẩn gió/
xáo xác khuya…/ Te tẻ chiều/ nhớn nhác/ nhón chân qua”. Chỉ cái khát của
tình yêu - của thơ mới nhận ra vị “te tẻ chiều”, nếm
được tiếng “xáo xác
khuya”, thức ngộ bao chiều mà chiều vẫn lạ.
Tôi đọc bài “Khát” (Lời đề tặng
V. yêu). Không biết V. yêu có phải là vợ yêu không mà sao giống tình vợ chồng
đến vậy. Ở đây không có sự “Cưỡng Xuân” mà rất tự nguyện: “Nào nằm xuống/ Vùi ngực
anh/ Dán chặt…/ Dòng nham thạch cuộn từng cơn nóng hổi/ Thế. Thế. Thế/ Căng
người/ Em hứng đợi.../ Thỏa thuê từng cơn khát/ Em. Em ơi… đêm sắp qua rồi...”.
Tình cảm vợ chồng ngoài
cái say, cái yêu thuần khiết, còn có cái say, cái yêu nghĩa vụ. Nhưng ở đây
hoàn toàn thăng hoa “Căng
người/ hứng đợi”, và sự giục giã “Em. Em ơi... đêm sắp
qua rồi” thì không thể yêu nghĩa vụ chút nào, mà cao hơn cơn khát yêu của
vợ chồng. Nhưng nhà thơ đã tự tố cáo mình, trong thơ không thể dối được. Vợ
chồng thì có đêm nay và nhiều đêm nữa, việc gì phải vội, phải sợ không còn nữa
mà phải hổn hển “Em.
Em ơi… đêm sắp qua rồi.”.
Vâng. Cơn khát này cao
hơn, đằm hơn cơn khát vợ chồng nên không phải vợ chồng mới có chất say - Chất
khát của tình yêu!
Lai một bài “Đêm” nữa tặng V.
yêu. Cơn khát nóng ran làm “Đêm bức bối”, màn
đêm như bị căng ra và nén lại: “Em đè ta nghiến ngấu/
Đêm chuyển màu”.
Đêm chuyển màu gì vậy? Họa
sỹ thực thụ có thể biết 180 màu đen, nhưng màu đêm của tình yêu chỉ tình yêu
mới biết, màu của “đêm
lõa lòa/ rần rật/ đốt thịt da.”.
Ôi! Tình yêu đã truyền vào
đêm sức sống, truyền một ngôn ngữ linh thiêng - thần bí mà rất đời.
Khát, yêu, nhớ là mạch đập
liên hoàn trong trái tim yêu, cứ tưởng nhớ là phải xa xôi, cách mặt nhưng nhớ
của Đặng Xuân Xuyến như hiện thực trông thấy rõ ràng, như cuốn phim đời: “Đêm tỉnh giấc/ Khát mắt
cười chiều qua lăn trên chiếu/ Căng người/ run rẩy cuộc yêu... / Gió trườn qua
khe cửa”.
Đã yêu, ai chẳng nhớ, nhưng
nhớ rất chi tiết “Gió
trườn qua khe cửa” - gió như một chứng nhân có lẽ chỉ nhà thơ mới có. “Gió trườn qua khe cửa”
là ngọn gió có linh hồn, ngọn gió vàng xoa dịu và mát lành cõi phàm tục của
tình yêu.
Sếch-xpia bảo: Tình yêu
như người cung thủ bịt mắt mình, phóng mũi tên tình yêu đi đến đâu không cần biết
mà vẫn trúng đích.
Trong cái mê, có cái ngộ,
cái biết, và phải trải qua bến mê mới thấy bờ giác. Đặng Xuân Xuyến đã ngồi
thiền dưới gốc cây bồ đề tình có biết bao năm để ngộ chăng? Cứ tính từ ngày vợ
chồng Xuyến chia tay, hay cộng cả trước và sau thời gian ấy mới đắc đạo tình
hay đốn ngộ. Đốn ngộ là đột biến, đắc đạo là sự tiêm ngộ. Theo tôi thì Đặng
Xuân Xuyến trải qua bao đổ vỡ, hẫng hụt, khổ đau mà đắc ngộ.
Hãy nghe về sự ngộ, sự biết
của anh: “Ừ biết/ Em
rồi chẳng đợi/ Mà lòng chẳng lỡ buông lơi/ Ừ biết/ Chỉ lời giả dối/ Mà tin, tin
đến cạn lời”.
Biết em không thật mà lòng
vẫn tin là sao? Hãy lấy lòng khát yêu để trả lời cho câu hỏi này. Hãy lấy sự
“Cưỡng Xuân” - Gượng yêu làm chìa khóa mở ra tâm hồn nhà thơ.
Nhà thơ vẫn khát thèm yêu
nên dù biết rằng “em
chẳng đợi”, chẳng yêu mình mà vẫn gượng yêu, gượng tin, thậm chí còn mong
nàng nói dối là yêu mình còn hơn phải nghe những lời phũ phàng nói thẳng -
không yêu. Ta nhận ra nhân cách đẹp của nhà thơ chính ở sự phi lý này.
“Thôi thì sắm vai người
dại/ Ngô nghê với tháng năm dài”. Trải qua những khổ đau, những cơn khát,
Cưỡng xuân, Đặng Xuân Xuyến chấp nhận “Dại Yêu”, chấp nhận
“Niềm vui dẫu chỉ
nửa vời/ Có sao đâu/ Vẫn cứ ngời ngợi hương/ Chỉ tôi/ Chín nhớ/ Mười thương/ Đủ
rồi”.
Đọc những dòng thơ, như
nghe tiếng nước mắt chảy ngược vào tâm, giọt nước mắt long lanh ánh sáng thức ngộ
- Thức ngộ sau chén say, mê đắng của tình yêu: “Ta gạ em cạn chén/ Thế
là em cạn ta.../ Nửa đời trai trinh bạch/ Em nhuộm ta ngả màu”.
Màu của tình yêu là màu
gì vậy? Là bảy sắc cầu vồng sau chiều mưa chăng? Không! Màu tình yêu là muôn màu,
màu của hạnh phúc và khổ đau, không họa sĩ nào vẽ nổi, nó biến ảo trong không
gian, thời gian, trong tâm thức mỗi người.
Với Đặng Xuân Xuyến là màu
say đắm và màu “Chán
Yêu” hòa quyện, là màu “Bồng bềnh người ơi/ Mây
tím lưng trời” chìm vào “nụ cười bạc phếch/ Xộc
xệch tình.../ Lếch thếch tiếng yêu.”
Tôi tìm thấy ở Đặng
Xuân Xuyến màu của “Đêm
trở mình nhiều hơn/ Tóc dầy thêm sợi bạc”. Và đặc biệt ở Đặng Xuân Xuyến là
màu của tình yêu máu thịt với cậu con trai - cái màu máu thiêng liêng của tình
cha con đã giải thiêng mọi màu sắc của tình yêu lứa đôi. “Lặng nhìn con nằm ngủ/
Ngổn ngang nỗi tơ vò”.
Sau màu yêu ngày tươi đẹp
đã qua, con chim thi ca vẫn cất cao giọng hót nhưng không còn là bản tình ca
réo rắt mà là giọng to nhỏ thì thầm: “Mình già rồi anh nhỉ/
Thời gian thế mà nhanh/ Mới vài chuyện loanh quanh/ Tóc đã pha màu bạc.../
Giọng thoảng nghe khang khác/ Mình già rồi mà anh.”
Không ai khuất phục
được thời gian, không ai ở mãi trên đời, yêu đương... mê ngộ một thời rồi đi.
Và Đặng Xuân Xuyến cũng nằm trong quy luật của thời gian như mỗi chúng ta.
Chính vì hiểu quy luật của thời gian mà anh đã “Cưỡng Xuân”, anh “Cưỡng Xuân”
và xuân cũng cưỡng anh.
Nhà thơ “Lánh Yêu” mà vẫn bị
yêu: “Sao chẳng nói
yêu từ sớm/ Khi anh đương còn trẻ trai/ Bây chừ lừ đừ, lọm khọm/ Nào ai dám
mộng với ai.”. Nhà thơ trách cô gái trẻ chậm nói lời yêu nhưng trong lòng
tự biết tuổi của mình, sức đã “chồn chân mỏi gối”, lòng thèm yêu lắm nhưng “Chỉ e nhỡ đường ân ái/
Khiến em đứt ruột chiều tà.”
Tôi cam đoan rằng: Tuổi
của Đặng Xuân Xuyến mới 52 còn tràn đầy sinh lực, chưa “chồn chân mỏi gối”
tí nào, anh như con chim bị trúng thương tình ái, đổ vỡ duyên vợ chồng nên sợ
“cành cây cong” như chiếc cung thôi. Và chất quê Hưng Yên ở trong máu còn thắm
chưa phai, chưa nhiễm chất thị thành, nên thèm yêu mà vẫn lo xa.
Lo xa nên nhà thơ mới
tỏ tình với ngôn ngữ dân dã chân thành: “Em có cần anh không/
Nếu cần hãy cùng anh chung sống”. Chữ “cần” mộc mạc mà
rất thơ mang nặng tâm tình. Tình yêu cần tình yêu như con người cần không khí
để sống. Thiếu sự “cần” ấy - thiếu không khí - có ai sống được bao giờ. Bài thơ
“ Chu ng”, tôi đã bình rồi, không bình lại nhưng vẫn bị sự mộc mạc của câu thơ “Em có cần anh không”
níu kéo. Tôi đành nhắp thêm chén rượu nữa cho hồn say với sự “cần” yêu.
Thơ của Đặng Xuân Xuyến
chưa đến bực tài hoa, mà là thơ của nỗi lòng, tình yêu và sự đớn đau trong tình
yêu nâng hồn anh thành cánh chim bay đến phía sau của chân trời tình yêu và trở
về với hồn quê - Đất nhãn Hưng Yên: “Về đi em! Về ngắm trăng
buông/ Câu mái đẩy lèn sâu ký ức/ Dựa vai anh ngắm đời rất thực/ Cổ tích trầu
cau đã hết nhựa rồi.”.
Nếu có tài họa sĩ, tôi sẽ
vẽ bức tranh đồng quê, có đôi trai gái ngồi ngắm trăng buông. Cô gái tựa vào vai
chàng trai, ngắm trăng trời và nghe trăng ở lòng thổn thức. Nhưng vẽ “Cổ tích trầu cau đã hết
nhựa rồi” thì thật khó. Chỉ có thơ, hồn thơ quê của Đặng Xuân Xuyến mới vẽ
được. Tôi nhắm câu thơ này cho rượu thêm hương.
Rượu và thơ dẫn tôi đi,
tôi lang thang trong sự “Cưỡng Xuân” của
Đặng Xuân Xuyến. Mỗi bài thơ như cưỡng tôi yêu, và tôi bằng lòng với sự cưỡng
yêu ấy.
Tôi bị cưỡng vào những khao
khát và những giấc mơ, mà từ những khát khao và những giấc mơ ấy tôi lại được
trôi dạt tới bờ bến của dại khờ. Ôi! Sự dại khờ trong tình yêu như một cõi tiên.
Trên đảo bồng lai của dại khờ tôi gặp tôi, gặp những khát khao chân thực của
tình người. Tình yêu cần sự dại khờ hơn khôn ngoan.
Có phải yêu thật lòng quá
thành dại khờ nên Đặng Xuân Xuyến đã “Cưỡng Xuân” chăng. Tôi nghe thẳm xa trong
hồn tiếng của trời, tiếng của mùa xuân thì thầm trong hoa lá: “Tôi bằng lòng…
bằng lòng.”. Thì ra mùa xuân cũng khát yêu và thèm sự “Cưỡng” như con người. Lâu lắm, xa lắm, trên
thế gian chưa có ai, chỉ có Đặng Xuân Xuyến “Cưỡng Xuân”.
Vì “Cưỡng Xuân” - Tập
thơ đầu tay của Đặng Xuân Xuyến, tôi tự rót rượu thưởng cho mình.
Hà Nội, ngày 08 tháng
06 năm 2017
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4, ngõ 179 Minh Khai
quận Hai Bà Trưng, tp
Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
Điện thoại: 0984787426
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét