Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

TRẦN MẠNH HẢO PHẢN BIỆN CÁC GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH, NGUYỄN LỘC, NGUYỄN ĐÌNH CHÚ, TRẦN ĐÌNH SỬ, NGUYỄN KHẮC PHI (1)

 

 


 

VÀI ĐỐI ĐÁP VỚI CÁC ĐẠI GIÁO SƯ BỊ TRẦN MẠNH HẢO PHÊ BÌNH

         Trong trường văn trận bút do Trần Mạnh Hảo gây ra khi đưa ngót 30 vị giáo sư đầu ngành ra phê bình từ 30 năm trước, chỉ có hai vị giáo sư có ứng xử đàng hoàng, rất văn hóa. Một là GS. Trần Quốc Vượng, hai là GS. Hoàng Ngọc Hiến.

        Ông GS sử học Trần Quốc Vượng, thích chơi với đám trẻ vong niên. Ông chơi thân với GS.TS toán học ở Đức về, chuyên đi dạy toán ở các đại học lớn của Mỹ, Anh, Pháp, Nga… là GS. Nguyễn Xuân Tấn – bạn tôi. Một hôm ghé nhà Tấn chơi, thấy nhiều cuốn sách nghiên cứu về sử của GS. Trần Quốc Vượng tặng Tấn, tôi mượn đọc và đọc ngay khi tôi còn đang lưu trú ngoài Hà Nội. Thấy có nhiều điều chưa chuẩn xác từ sách của GS. Vượng, tôi bèn viết bài góp ý ngay. Và hồi đó, các báo Hà Nội săn bài của tôi chuyên “cà khịa” các đại giáo sư, đem in ngay để họ bán báo. Mới viết 2 bài phê GS sử học hàng đầu Việt Nam, tôi nhận được điện thoại từ giáo sư Trần Quốc Vượng cám ơn sự phê bình rất đúng của tôi, và hứa sửa chữa khi tái bản. Do vậy, tôi dừng lại không viết bài phê sách ông Vượng nữa.

        Sau khi tôi viết đến 25 bài báo phê bình GS. Nguyễn Đăng Mạnh in trên các báo Hà Nội và gọi ông là “nhà sai học”, viết gì cũng sai, dạy gì cũng láo… GS. Hoàng Ngọc Hiến là bạn thân với ông “thần sai” Nguyễn Đăng Mạnh, bèn nhảy ra viết bài chửi Trần Mạnh Hảo trẻ, chưa qua đại học mà hỗn láo. Tôi bèn viết lại trao đổi với GS. Hiến rằng: TMH tôi viết phê bình các GS toàn dựa vào văn bản. Sao ông Hiến không dựa vào hàng trăm lỗi sai của ông Mạnh do tôi chỉ ra xem đúng hay sai, lại chửi bới xúc phạm cá nhân tôi ngoài văn bản thế ? Tôi dồn cho GS. Hiến ba bài liền làm ông tịt ngòi không viết trả lời được. Chỉ có đám học trò lau nhau của ông Mạnh, ông Hiến như Đỗ Ngọc Thống chửi tôi là gà qué, là con khỉ con quạ, hoặc kẻ lau nhau chưa sạch nước mũi là Ngô văn Giá xông vào kêu gọi hàng trăm học trò khác của hai đại giáo sư cầm bút hãy nhổ vào mặt tên Trần Mạnh Hảo…

        Sau đó, qua một người thân, tôi in ra 30 bài phê bình GS Mạnh, và in thêm một số bài viết của tôi về mấy nhà văn lớn thế giới như Dottoievxki…chẳng hạn gửi cho GS Hiến đọc. Ông nhận ra mình sai, bèn chủ động gọi cho tôi xin lỗi. Sau này, chính ông đặt tôi viết bài tham luận về minh triết và triết học như các bạn đã đọc. Không có GS Hiến đặt, tôi không có bài “Nơi nào triết học im tiếng thì minh triết cất lời”.

        Sau một tuần TMH tung ra trên bốn tờ báo 5 bài phê bình sách của GS. Lê Trí Viễn & 5 bài phê bình sách của GS. Hoàng Như Mai gây chấn động dư luận trong nước. Sau năm 1945, GS. Lê Trí Viễn và GS. Hoàng Như Mai là hai vị giáo sư đầu ngành của chế độ mới, dạy môn văn của trường đại học kháng chiến. Học trò của các vị này là những ông Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Lộc, Nguyễn Đình Chú, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức…

        Lúc đó báo “Tuổi Trẻ” ở Sài Gòn bênh hai GS Viễn và GS Mai, in toàn bài chửi Trần Mạnh Hảo, không thấy in bài tranh luận lại một cách khoa học như các bài TMH đã viết.

        Trên tờ “Tuổi Trẻ” tờ báo từng đánh cuốn “LY THÂN” của TMH lên bờ xuống ruộng, lại in bài phỏng vấn GS Hoàng Như Mai về hiện tượng có kẻ đốt đền dám “đánh” các cuốn sách khuôn vàng thước ngọc của hai đại GS Viễn & GS. Mai.

        Ông Mai viết rằng, hơn tuần nay, GS. Viễn toàn khóc vì bị kẻ hậu sinh vô bằng cấp phê bình trên báo những 5 bài mà chưa thấy học trò nào như Vương Trí Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm hay Phạm Tiến Duật… lên tiếng bênh thầy, nên thầy tủi thân mà khóc. Ông Mai kêu gọi hàng trăm học trò cầm bút viết báo viết văn, viết phê bình văn học từng học đại học sư phạm Hà Nội, học khoa văn đại học tổng hợp Hà Nội & Sài Gòn hãy vì chính nghĩa mà viết bài phê phán tên Trần Mạnh Hảo dốt nát, chưa có bằng đại học mà dám phê bình sách của hai đại giáo sư…

TMH bèn khiêm tốn, nhỏ nhẹ viết bài đáp lại bài chửi bới của GS. Hoàng Như Mai, gửi cho “Tuổi Trẻ” mà nó không cho đăng, bèn đăng báo khác.

        TMH tôi khe khẽ thưa rằng : thưa GS. Hoàng Như Mai kính mến, tôi viết bài phê bình rất khoa học, dựa trên văn bản không xúc phạm cá nhân hai GS, cớ sao GS lại xúc phạm tôi gọi là tên này tên nọ mà không căn cứ vào bài viết xem tôi viết sai điểm nào ? Vả, xưa nay tôi vốn kính trọng GS Mai vì trình độ học vấn, GS Mai và GS. Viễn cũng như tôi chưa qua trường đại học nào. Sao GS lại không cho tôi học tập con đường không cần học đại học như GS. Mai và GS. Viễn mà vẫn có thể giỏi, vẫn dậy đại học được, thưa hai giáo sư hàng đầu chế độ ?

        Hoàng Như Mai bèn im như thóc. Rằng sao ông chỉ cho ông cái quyền không cần vào đại học mà vẫn có thể giỏi, sao lại cấm tôi học tập gương ông ?

        Bài đã dài, hẹn bạn đọc sẽ kể tiếp nhiều chuyện không đàng hoàng, không hay ho của các đại giáo sư, suốt bao năm nền học vấn không có phản biện, nay bị phản biện, họ nhảy lên như trinh nữ sa vào ổ kiến lửa.,.

                                Sài Gòn 4-8-2021

                                        T.M.H.

…………………

 

        SÁCH NÓI CHUNG VÀ VĂN HỌC NÓI RIÊNG ĐÃ CỨU TÔI KHỎI CHẾT TRONG CHIẾN TRANH VÀ KHỎI CHÌM NGHỈM TRONG HÒA BÌNH

        Tại sao chúng ta phải đọc một nghìn một vạn cuốn sách ? Để may mắn mới tìm ra chìa khóa mở cuốn sách của đời mình mà Trời ban cho gọi là THIÊN THƯ ! Các vĩ nhân ( thánh nhân) ví như Đức Phật, Chúa Jesus, Lão tử, Khổng tử, Mạnh tử, Trang tử…chẳng đọc bao nhiêu mà đã có sẵn chìa khóa mở cuốn sách bản thân mình : Thiên Thư.

        Trần Mạnh Hảo chỉ là một kẻ phàm : phàm ăn, phàm sách. Cả tuổi thơ, tuổi trưởng thành của tôi xuay quanh hội chứng đói : đói ăn, đói sách…

Cậu ra đời trong thời buổi nhiễu nhương của chiến tranh và cách mạng. Bị ghi trong lý lịch là thành phần xấu nhất của chế độ : công giáo, địa chủ, Việt gian, ông nội và cô chú ruột di cư vào Nam, không được học đại học, không được đi bộ đội, không được làm bất cứ việc gì dính đến nhà nước…

May mà, nhờ Chúa, chế độ chưa cấm cậu làm người.

Bé tí, cậu đã biết bắt rận thuê, đã ngồi lưng trâu, đã theo mẹ đi mót lúa, đi mò cua, vạt tép, bắt ốc…thời gian đâu mà sách với vở, học với hành… Lạy Chúa tôi, ma quỷ cám dỗ cho cậu biết chữ, biết đọc. Và một đống báo cũ của tờ “Đa Minh bán nguyệt” ( tờ bán nguyệt san của địa phận Bùi Chu do ông nội và các chú đã di cư mua đọc từ trước để lại) đã ám cậu; cậu đọc như thuộc lòng những tin tức, những thơ, những truyện, những bình luận xã hội, bình luận thời thế của thời đã qua. Và nghiện đọc các cuốn Kinh Thánh, truyện tích các thánh, tiểu thuyết công giáo, kể cả các cuốn cao siêu bàn về thần học do chú Doanh mượn bạn quên trả ( chú Doanh em trai bố học trường Trần Lục bên Phát Diệm)…

        Bệnh nghiện sách đã làm khổ cậu, khiến cậu bị quá nhiều roi vọt của bố. Nhà nghèo vì vào hợp tác xã thiếu ăn triền miên, cơm còn chẳng có ăn, lấy đâu tiền mua dầu. Đêm trăng sáng, không có đèn dầu, cậu nằm trên mái che bể nước ngoài sân đọc sách dưới ánh trăng, bị bố cho roi vào đít : mày muốn mù mắt à ? Người xưa xui bắt một nghìn con đom đóm bỏ vào lọ sẽ sáng đủ cho việc đọc sách đêm. Cậu bắt được ba trăm đom đóm nhưng chẳng đủ sáng để đọc…

        Cậu mượn hết sách trong làng, trong xã, trong huyện…để đọc từ Tam Quốc chí, Thủy Hử, Hán Sở tranh hùng, Đông Chu liệt quốc, Hồng Lâu mộng, Tây du ký…

        Lên cấp 3, nhờ học giỏi văn, được thầy hiệu trưởng dạy văn Lê Văn Trạm ( dạy văn) cho mượn để đọc hết tủ sách riêng của thầy. Thầy không cho ai mượn sách kể cả giáo viên, trừ trò Trần Mạnh Hảo. Hai thầy giáo trọ chung nhà là thầy Trương Tham, thầy Nguyễn Đức Ân thấy học trò ham đọc quá, mê văn quá, bày cho đọc hai giáo trình đại học “đại học sư phạm văn” và “đại học tổng hợp văn”( in rô nê ô). Đọc hết hai giáo trình đại học khi đang học lớp 10, sau này, thầy Trạm, thầy Tham, thầy Ân nói : em chẳng cần vào đại học, vì em đã học xong hai đại học văn khi đang học cấp 3 rồi.

        Sau ba năm học cấp 3, cậu đã đọc hết sách của tỉnh Nam Định : thư viện huyện và thư viện tỉnh…

        Vì lý lịch quá xấu, không thể kết nạp đoàn. Nếu không phải đoàn viên không được thi tốt nghiệp cấp 3.  Thầy Trạm lại phải lên huyện ủy, ủy ban huyện, huyện đoàn gần như lạy lục họ cho học trò TMH vào đoàn…Và họ đã tha…

        Nhưng vào đại học thì không, thầy Trạm chạy lên gặp bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên xin cho trò TMH vào đại học tổng hợp văn cũng không được.

        Ở nhà, không thể ăn bám bố mẹ mãi. Hiệu em rể khuyên anh vợ sang Hải Hậu đào đất vác đất thuê. Làm phu đào đất nửa tháng, yếu quá, quỵ, ra máu cam, không làm nổi, về gánh phân cho hợp tác xã. Có người bà con làm ở đội chiếu bóng tỉnh, mang TMH lên làm phu khuân vác cho đoàn chiếu bóng. Làm được ba tháng bị đuổi vì lý lịch xấu. Bà Trường, trưởng phòng văn hóa huyện Nghĩa Hưng thấy TMH viết báo, làm thơ, viết văn trên các báo tỉnh, lấy TMH về phòng văn hóa làm nhân viên soạn tin tức…Mang gạo nhà đi ăn, làm 6 tháng thử việc, không thể vào biên chế vì lý lịch xấu địa chủ, phản động…Viết đơn 5 lần xin đi bộ đội, xã đội huyện đội không duyệt vì đi vào Nam một cái là thằng này sẽ chiêu hồi ngay…

        Cuối cùng gia đình TMH phải đút lót 9 con gà mới sửa lại lý lịch đi bộ đội vào Nam được. Than ôi, vào chỗ chết cũng phải đút lót.

        Sau này TMH thành danh, dám viết phê bình hầu hết các đại giáo sư đầu ngành văn từ Hòang Như Mai, Lê Trí Viễn, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Lộc, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ… dốt, toàn là các nhà “sai học” in trong cuốn “Hầu chuyện các giáo sư”, thầy Trạm bảo : may mà ngày ấy đảng nhà nước không cho em đi đại học, chứ học các giáo sư mà em gọi là các nhà “sai học” kia thì hôm nay làm gì có nhà phê bình TMH đã hạ gục mấy chục giáo sư dạy khoa văn đại học ngày ấy ?

        TMH phải cúi mình xuống lạy, tạ ơn nền tự do in ấn của Sài Gòn từ 1954-1975 đã cho TMH đọc từ A đến Z sách triết, thần học, kinh Phật, kinh Coran, nghiên cứu lại Khổng Mạnh Lão Trang, Kinh Veda và các hệ thống triết học Đông Tây kim cổ…

        Là do hồi đầu tháng 5- 1975, TMH lang thang qua các vỉa hè đang đốt sách, lượm bất cứ cuốn gì mình cần nghiên cứu với giấy giới thiệu của Ủy ban quân quản…mang về ( có gửi ở một vài địa chỉ khác chứ riêng chỗ ở thì sao đủ chỗ để sách )…

        Cám ơn sách, cám ơn kiến thức về văn hóa, văn học, cám ơn thi ca đã cứu TMH khỏi chết trong chiến tranh.

        Hồi ấy đang là lính trong rừng ( giao liên trinh sát) đã có nhiều bài thơ được ngâm trên đài phát thanh, đang ở trạm giao liên sát sông Đặc-Quýt, thì có một ông trung niên đi qua trạm ngủ đêm gọi lên, rằng : cậu là TMH làm thơ phải không ? Dạ, phải. Có chép thơ trong sổ tay không ? Dạ có, cho tôi xem. Đấy là ông Đỗ Hữu Nghi đang là phó ban tuyên huấn tỉnh đội Bình phước. Ông Nghi đọc xong cuốn sổ tay thơ và nói : tôi sẽ bàn với tỉnh đội rút cậu lên viết báo, để ở đây hi sinh sẽ uổng. Hai tuần sau, tôi từ giã đơn vị “giao bưu vận” Bình Phước lên tỉnh đội, với điều kiện tỉnh đội phải cho người thay thế TMH. Anh Đỗ Hữu Nghi ơi, sau chiến tranh em đã tìm anh suốt mà không gặp lại. Anh Nghi quê Bình Định học trung học thời Pháp rồi đi bộ đội tập kết ra Bắc, hồi kết về lại rừng Bình Phước. Không có anh, em đã chết khi đi trên các lối mòn giao liên bị gài mìn Clay- mo rồi. Chắc giờ nếu còn sống, anh đã ngoài 90 tuổi…Cầu Chúa và Trời Phật phù hộ cho anh, nếu anh đã mất xin cho hương hồn anh siêu thoát…Với anh Đỗ Hữu Nghi, một lời cám ơn làm sao cho đủ…

        Năm 1972, các anh Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Thanh Giang của tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng” đã dày công đưa TMH lên “R” làm cho tờ “Văn Nghệ quân giải phóng”. Tuy được về tạp chí, nhưng phải ở vòng ngoài, không được ở trong cơ quan, vì đảng không thể tin một thằng lý lịch xấu, lại có đạo Ja Tô…không cho nó vào cơ quan cục chính trị quân giải phóng, nhỡ nó gọi cho B52 dội bom thì sao (!)

        Không có trình độ văn hóa, trình độ văn học, không thể làm thơ viết văn, chắc TMH đã bỏ xác trong rừng…

        Sau 30-4-1975, về Sài Gòn, TMH đi làm báo, viết văn, thầy Trạm khuyên không nên vào đại học văn, vì em đã có thừa hai bằng đại học văn trong người rồi. May mà TMH sau 1975 không vào đại học văn, chứ toàn học các nhà “sai học” thì làm sao giỏi được ? Con đường tự học đã cứu tôi khỏi chết chìm trong biển người “bênh” các thầy của họ. Riêng ông GS. Nguyễn Đăng Mạnh, là ngôi sao sáng nhất của bộ giáo dục trên đại học đã bị TMH viết 25 bài đăng báo vạch ra cái dốt của ông và của toàn hệ thống dạy và học môn văn nơi đại học & trung học; nhưng hàng trăm học trò cầm bút của ông vẫn không ai dám nhảy ra bênh thầy vì quá dốt…

        Nhờ kiến thức sách vở cho TMH đủ sức dạy lại ( đào tạo lại) các giáo sư đầu ngành như trên đã dẫn.

        Cám ơn sách vở, cám ơn sự tự học và cám ơn văn học đã cho TMH có ngòi bút nhỏ này, đặng cống hiến cho bạn đọc FB những bài đã viết, đang viết và sẽ viết về triết học, văn học, tôn giáo,  giúp phần nào các bạn trẻ đang bị giáo trình dốt của một hệ thống giáo sư dốt làm băng hoại.,.

                                Sài Gòn 4-8-2021

                                        T.M.H.

 

…………………………..

 

        GIÁO SƯ ĐẦU NGÀNH VĂN HỌC NGUYỄN LỘC RẤT NHIỀU NĂM TỪNG HƯỚNG DẪN NHIỀU LUẬN VĂN TIẾN SĨ VÀ CAO HỌC ĐÃ VIẾT RẤT TẦM BẬY VỀ NGUYỄN KHUYẾN TRONG SÁCH GIÁO KHOA VĂN TRUNG HỌC VÀ CÁC GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌC

        Là người Việt Nam từng được cắp sách đến trường, chắc ai trong chúng ta thảy đều yêu thích và thuộc ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu” và “Thu ẩm” của thi hào Nguyễn Khuyến? Sách giáo khoa văn học lớp 11 tập 1 do Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh biên soạn cho học sinh các tỉnh miền Nam, cụ thể phần thơ Nguyễn Khuyến do Phó Giáo sư Nguyễn Lộc viết, được nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ ba năm1993, đến nay 1998 đã được tái bản tới bảy, tám lần đều có dạy ba bài thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Ngoài sách giáo khoa Văn học dành cho học sinh, nhóm biên soạn trên còn biên soạn thêm một sách giáo khoa Văn học dành cho giáo viên đi kèm, cốt ý chỉ giáo, hướng dẫn giáo viên cách hiểu và cách giảng dạy các bài thơ văn. Rất tiếc, bên cạnh những chỉ dẫn, những gợi ý khá đúng đắn cho giáo viên và học sinh hiểu và cảm được ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, còn một số điều bất cập mà người soạn sách mắc phải. Để giáo viên và học sinh hiểu đúng ba bài thơ trên của Nguyễn Khuyến, chúng tôi xin góp ý với người soạn sách và nhà xuất bản Giáo dục đôi điều sau đây.

        Giải thích câu thơ ”Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” trong bài “Thu vịnh”, PGS Nguyễn Lộc viết trong phần chú thích trang 52, sách Văn học lớp 11, tập 1 dành cho học sinh các tỉnh miền Nam như sau: ”Hoa năm ngoái: hoa đã nở từ năm trước khô đi và còn lại đến bây giờ. Đây là cảnh tả thực“.

        Người soạn sách đã hiểu sai câu thơ này của Nguyễn Khuyến nên cũng bắt giáo viên và học sinh dạy và học sai câu thơ. ”Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái“, Nguyễn Khuyến muốn nhắc lại ý của câu thơ Sầm Tham ”Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa” (Xuân nay lại nở hoa năm ngoái) và cũng nhắc lại ý câu thơ của Thôi Hộ: ”Đào hoa y cựu tiếu đông phong” mà Nguyễn Du đã chuyển thành Việt ngữ tuyệt vời như sau: ”Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Mùà thu, Nguyễn Khuyến nhìn những bông hoa trước giậu vừa nở, tưởng hoa năm ngoái lại về, sao lại giải thích sai câu thơ cho giáo viên dạy và học trò học rằng: ”hoa đã nở từ năm trước khô đi và còn lại tới bây giờ“. Phàm những hoa nở trong mùa thu, khi tàn sẽ bị những trận gió mùa đông bấc dữ dội quật nát tan, chứ làm sao còn được “ép khô” mà đứng giữa trời như Nguyễn Lộc viết. Hoá ra Nguyễn Khuyến vịnh hoa khô chứ không phải hoa thật ư? Vả lại, ý niện “năm ngoái” Nguyễn Khuyến dùng đây chỉ thời gian ước lệ, thuở nước chưa mất, hồn nước xưa còn hiện về trong hồn hoa.

        Trong sách Văn học lớp 11, tập 1, dành cho giáo viên, xuất bản năm 1991 vẫn dùng cho niên học 1998-1999 này, PGS Nguyễn Lộc giải thích câu thơ thứ 3 trong bài “Thu vịnh” như sau: ”Nước biếc trông như tầng khói phủ“, thì không phải là khói đang phủ dần mặt nước, mà nó đã phủ rồi” (tr. 50). Quả là tác giả sách giáo khoa chưa hiểu đúng câu thơ trên của Nguyễn Khuyến. Nước ao hồ mùa thu trong câu thơ kia xanh quá trông giống như khói, chứ không phải ao hồ đã bốc khói như sách giáo khoa giải thích. ”Nước biếc TRÔNG NHƯ tầng khói phủ“. Nguyễn Khuyến dùng chữ TRÔNG NHƯ, tức là không phải như thế, trông như khói nhưng không phải khói. Giống như ta ví von rằng cô X. trông như vợ tôi, tức là cô X. không phải vợ tôi và ngược lại. Hoặc hoa phượng trông như lửa cháy thì sao hoa phượng có thể biến thành lửa cháy được? Vậy nên khi sách giáo khoa bảo rằng ”Không phải là khói đang phủ dần mặt nước mà nó đã phủ rồi” là sai với tinh thần câu thơ của Nguyễn Khuyến.

        Cũng cần phải nói thêm ở trang 53 sách Văn học giáo viên, tác giả còn trích sai câu thơ này như sau: ”Mặt nước trông như tầng khói phủ”

        Khi giải thích hai câu cuối cùng của bài “Thu ẩm”, trong sách Văn học dành cho giáo viên trang 52, PGS Nguyễn Lộc viết: ”Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy/ Độ năm ba chén đã say nhè“. Câu 7 không có một động từ nào. Câu 8 thì có động từ say, nhưng ở đây là say nhè. Say nhè là say nói lè nhè chứ không phải say mặt đỏ bừng bừng đi quệnh quạng, lảo đảo rồi ngã dúi ngã dụi giống như trong câu thơ của Tản Đà: ”Đất say đất cũng lăn quay/ Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?”.

        Người viết sách giáo khoa này không chỉ hiểu sai câu thơ của Tản Đà, mà hiểu rất sai bài thơ ”Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến khi ông giải thích hai câu cuối cùng của bài thơ như trên. Qua câu 7 của bài thơ, Nguyễn Khuyến đã cho người đọc hiểu rằng ông là người uống rượu kiểu tiên tửu, tâm tữu chứ không phải tục tửu kiểu Lưu Linh; rằng ông mang tiếng hay rượu nhưng khả năng uống rượu lại rất hạn chế, chẳng qua mượn rượu làm cái cớ, làm chất xúc tác thôi, chứ rượu và say không phải mục đích của mình: ”Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy“. Tiếp theo là câu 8: ”Độ năm ba chén đã say nhè“. Câu thơ này là một vế chưa nói hết của câu thứ 7; rằng tôi chỉ uống độ năm ba chén thôi là đã có thể say rồi đó nha, đó nhe, hoặc là uống độ năm ba chén là say nhè đấy! ”Độ năm ba chén đã say nhè” là một cách nói ví phỏng về sự uống rượu của mình chứ không phải tác giả bảo mình đã uống tới “năm ba chén đã say nhè” như sách giáo khoa giải thích.

        Ta cần chú ý từ “Độ” ở đây có ý phỏng chừng chứ không phải có ý khảng định rằng mình đã xới tới “năm ba chén”. Mà ngay cả ”năm ba chén” ở đây cũng chỉ là con số áng chừng, không cụ thể. Kết hợp câu 7 lại với câu 8 của bài “Thu ẩm” cho chúng ta một cách hiểu biểu trưng, rất quy ước chứ không hề cụ thể như sách giáo khoa giải thích; rằng có thể nhà thơ mới chỉ nhấm nháp chút rượu lấy hứng thôi, chứ thực ra chưa uống tới ”năm ba chén” đâu. Nếu cứ hiểu ép, hiểu lấy được, bất chấp bút pháp ước lệ của nhà thơ mà cho rằng ông đã uống tới “năm ba chén” để đến mức ”say nhè” thì cái sự ”nhè” ở đây hoàn toàn không phải sự “say nhè” mà sách giáo khoa phân tích rằng ”say nhè là say nói lè nhè”, say kiểu Chí Phèo uống rượu. Hiểu như thế quả tình đã giết chết tinh thần ung dung tự tại, tinh thần tiên phong đạo cốt của bậc túc nho Nguyễn Khuyến đang mượn ly rượu nhỏ mà uống cả hồn mùa thu tĩnh lặng, tuyệt vời trong chiếc ao con.

        Cần phải biết rằng trong thơ luật Đường mà Nguyễn Khuyến sử dụng ở đây với tinh thần ”thi tại ngôn ngoại”, rằng nói vậy nhưng không phải vậy đâu. Người soạn sách giáo khoa đã bị chữ “say nhè” úm, thành ra không còn tỉnh táo, mới bảo lão ẩm trong bài thơ đã say đến mức nói lè nhè thì còn gì là mùa thu Nguyễn Khuyến nữa.

        Hãy đọc kỹ bài “Thu ẩm” xem, Nguyễn Khuyến đâu có nói lè nhè mà ông rất tỉnh táo, thông qua ngôn ngữ thơ hết sức chính xác và tinh tế, nhà thơ đã mang toàn bộ hồn vía của mùa thu vào giấu trong ly rượu nhỏ, để biến ao thu thành nỗi say người. Vả lại, một người đã say nhè, say nói lè nhè như sách giáo khoa hiểu, không bao giờ tự nhận mình say. Cho nên chỉ có người tỉnh táo mới bảo rằng tôi mang tiếng uống rượu hay, nhưng tửu lượng rất kém, uống độ “năm ba chén đã say nhè” đấy bạn ạ. Nghĩa là trong bài thơ ”Thu ẩm”, Nguyễn Khuyến chưa hề uống tới ”năm ba chén” và chưa hề ”say nói lè nhè” như sách giáo khoa áp đặt.

        Trong câu hỏi hướng dẫn học tập trang 53, sách Văn học cho học sinh, tác giả đã hướng dẫn sai tinh thần bài “Thu ẩm” như sau: ”Đọc bài thơ có ấn tượng nhà thơ nhìn cảnh vật qua cảm giác chếnh choáng của người say. Em có cảm thấy như thế không? Do những yếu tố nào mà có cảm giác ấy?”. Tác giả phần sách giáo khoa này đã hướng dẫn chưa đúng tinh thần bài thơ ”Thu ẩm” trong sách Văn học dành cho giáo viên ở trang 54 như sau: ”Đặc biệt trong bài “Thu ẩm” thì cách cảm nhận thiên nhiên rõ ràng là của một người say, của một ông già say. Cố nhiên ở đây say mà vẫn tỉnh nên nhà thơ mới quan sát được, mới làm thơ được. Nhưng chính qua cái nhìn của một người say nên mọi cái trong bài thơ dường như cũng chếnh choáng, cũng nhòe nhoẹt, nghiêng ngả.” Cả bài “Thu ẩm” dù tìm đến nổ mắt cũng chẳng thấy chỗ nào, cảnh nào ”chếnh choáng, nhòe nhoẹt, nghiêng ngả” như sách giáo khoa áp đặt. Đến đây, tác giả sách giáo khoa này có thể sẽ dùng câu thơ thứ 6 trong bài: ”Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” để biện bác rằng nhà thơ không say rượu sao mắt lại, “đỏ hoe”?

        Nếu Nguyễn Khuyến chỉ cốt khoe sự mắt ”đỏ hoe” của mình là vì say rượu thì bài thơ thường quá, xoàng quá, cần gì phải dạy trong nhà trường. Cái sự ”Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” có thể có một chút nguyên nhân do hơi rượu, nhưng ai bảo nguyên nhân chính của sự mắt “đỏ hoe” kia nơi nhà thơ không phải là do lòng cảm động, xúc động trước vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc giấu trong hồn thu quanh nhà tạo nên? Mà giang sơn ấy nay đã mất rồi, đã không còn hồn nước cũ nữa nên ông phải từ quan về ở ẩn, đau đớn mà lặng thinh ngồi cô đơn một mình ngắm mùa thu, hồn thu, như ngắm hồn nước cũ. Tâm trạïng ấy nhà thơ đã thể hiện trong toàn bộ thơ văn của mình mà cụ thể nhất nơi bài thơ “Cuốc kêu cảm hứng“. Một trí thức lớn, một tâm hồn thơ lớn, một nhân cách lớn như Nguyễn Khuyến, ai bảo ông không có thể ứa nước mắt, “đỏ hoe” con mắt vì những điều hệ trọng, thiêng liêng này chứ không hẳn chỉ vì một ly rượu nhạt?

        Chính vì chưa hiểu được tâm thức nơi hồn thơ Nguyễn Khuyến khi ông viết ba bài thơ tuyệt tác về mùa thu mà PGS Nguyễn Lộc ở trang 54 sách Văn học dành cho giáo viên như đã dẫn mới viết như sau: ”Trong hai bài “Thu vịnh” và “Thu điếu” là cách cảm nhận thiên nhiên tinh tế của một người nhàn nhã, lòng thư thái.” Không, cái nhàn nhã, cái thư thái chỉ là hiện tượng, chỉ là bề mặt của hai bài thơ trên chứ bản chất của hồn thơ Nguyễn Khuyến chừng như không một chút thư nhàn. Tức cảnh, sinh tình, mượn cảnh vật, mượn mùa thu, ao thu để nói lên tâm trạng u uẩn, u hoài, u tịch, cô đơn, thương nước nhớ nước cũ đã mất về tay giặc chính là chiều sâu tâm thức của hồn thơ Nguyễn Khuyến. Hồn thơ ấy núp vào mùa thu mà bàng bạc cảm thương một nỗi quan hoài, một niềm canh cánh khôn khuây về nước cũ, vua cũ không còn thực quyền trên đất nước mình nữa.

        Nhà thơ ngồi vịnh cảnh mùa thu mà hồn vía hầu như toàn hướng về “hoa năm ngoái”, “ngỗng nước nào”, vừa cất bút lên đã thẹn vời ông Đào Tiềm đời Tấn. Nỗi thẹn, nỗi xưa, nỗi buồn thu man mác mà sâu thăm thẳm hơn cả trời đất kia chính là tấm lòng thương nước, nhớ nước đến tím ruột bầm gan nơi nhà thơ, sao sách giáo khoa dám bảo ông vịnh cảnh thu với lòng thư thái, nhàn nhã được?

        Việc sách giáo khoa giảng giải chưa đúng tinh thần ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, thành ra giáo viên cứ thế mà giảng sai, học sinh cứ thế mà học sai suốt cả chục năm, suốt cả hàng bảy tám lần tái bản, thử hỏi có phải là việc quá ư hệ trọng hay chỉ là việc bình thường? Chúng tôi muốn thông qua bài báo này để đánh động dư luận toàn xã hội hãy chú ý đến con em mình hơn nữa; bằng cách chú ý đến những gì các em đang học trong nhà trường từ mẫu giáo đến đại học, ít nhất cũng cần kiểm tra lại sách giáo khoa, để xem trường hợp dạy sai thơ Nguyễn Khuyến như trên chắc chưa phải là trường hợp duy nhất .,.

                        Sài Gòn ngày 7-10-1998

                                        T.M.H.

 

……………………..

 

CẦN TRẢ LẠI GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT ĐÍCH THỰC CHO KIỆT TÁC “ CUNG OÁN NGÂM KHÚC”

 

        Trong bộ giáo trình khá đồ sộ, khá công phu hai tập, với gần 1000 trang sách của PGS. Nguyễn Lộc : “ Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nửa đầu thế kỷ thứ XIX” ( NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp), tái bản năm 1992, trong đó có chương thứ hai “ Cung oán ngâm khúc”, từ trang 283 đến trang 316 còn khá nhiều điều bất cập, nhiều nhận xét và đánh giá không đúng với giá trị đích thực của thi phẩm lớn lao trên.

        Với “Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều phần nào có bị ảnh hưởng tinh thần và cảm hứng nghệ thuật nơi bản Việt ngữ “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm dịch từ Hán tự của Đặng Trần Côn. Cũng như sau này, chúng ta tìm thấy một phần ảnh hưởng của hơi thơ lục bát Đoàn Thị Điểm và nhất là Nguyễn Gia Thiều ( hai tác giả này dùng thể thơ song thất lục bát) trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, góp phần đưa thể thơ này lên tới tuyệt đỉnh nghệ thuật. Đoàn Thị Điểm phải thông qua bản Hán thi của Đặng Trần Côn mới có tuyệt tác song thất lục bát. Nguyễn Du phải thông qua cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân bên Trung Quốc mới có được kiệt tác Truyện Kiều.

        Ưu điểm lớn của Nguyễn Gia Thiều là không phải thông qua môi giới Trung Hoa nào cả, ông tự sáng tác ra 356 câu thơ song thất lục bát tuyệt vời bằng chữ Nôm ( Nam). Nguyễn Gia Thiều qua “ Cung oán ngâm khúc” với nghệ thuật cung đình, quý tộc tột đỉnh, rất đài các, hàn lâm kiểu : “ Trải vách quế gió vàng hiu hắt”, lại nâu sồng dân dã tựa : “Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”, đã làm một bước đột phá từ tâm thức Hán, thi pháp Hán sang tâm thức Nôm, thi pháp Nôm. Đấy là công đầu, công khai mở lớn nhất của Nguyễn Gia Thiều với quá trình phát triển của thi ca Việt Nam.

        Trong bài viết của mình, Nguyễn Lộc phần nào đã nhìn nhận giá trị nội dung và “nghệ thuật bậc thầy” của “Cung oán ngâm khúc”. Tác giả cũng nhận ra giá trị hiện thực và nhân đạo trong nội dung, cũng như giá trị của nghệ thuật quý tộc đặc trưng phong kiến nơi khúc ngâm này. Tuy nhiên, theo chúng tôi, Nguyễn Lộc còn có nhiều đánh giá, kết luận chưa thỏa đáng về kiệt tác “Cung oán ngâm khúc”. Ví như khi ông viết, xin trích :

        “…Những kết luận của nhà thơ ( Nguyễn Gia Thiều - chú của TMH) không có ý nghĩa tích cực. Quan niệm về cuộc đời của Nguyễn Gia Thiều phát biểu trong “Cung oán ngâm khúc” là sự tập hợp những yếu tố tiêu cực nhất trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Đó là thứ tư tưởng thường thấy của giai cấp phong kiến thống trị trong thời kỳ suy tàn. Nhưng xét cho kỹ, phải nói những triết lý tiêu cực, thậm chí có thể nói là phản động nữa ở Nguyễn Gia Thiều không phải là cứu cánh của nhà thơ…” ( trang 297)…”Nếu gạt đi phần sai lầm trong nhận thức chủ quan của nhà thơ “Cung oán ngâm khúc” vẫn cho ta một ý niệm chân thực, sâu sắc về sự sụp đổ không phương cứu chữa của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đấy là phần còn lại của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung oán ngâm khúc”” ( hết trích)

        Dù có rào trước đón sau, nhưng những kết luận áp đặt hết sức chủ quan, hết sức phi lịch sử, theo quan niệm tính đảng, tính giai cấp chính trị hóa văn chương trên của Nguyễn Lộc với “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều quả tình không thể chấp nhận. Nếu chỉ bằng kiểu phê bình xã hội học cực đoan học phiệt Mác – xít như trên của Nguyễn Lộc thì ngay cả các đại thi hào và thi hào dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà…những người từng bị chi phối bởi tư tưởng tam giáo chắc chắn họ cũng bị Nguyễn Lộc quy chụp là phản động, là “không có ý nghĩa tích cực”, “tập hợp những yếu tố tiêu cực nhất như ông này vừa hàm hồ chụp mũ Nguyễn Gia Thiều trong “Cung oán ngâm khúc” chăng ?

        Nguyễn Lộc đã thiếu nhãn quan duy vật lịch sử, áp đặt hệ tư tưởng Mác-xít lên nghệ thuật của cha ông ta một cách thô thiển, xơ cứng. Ngày nay, tư tưởng Mác-xít đã bị nhân loại ném vào sọt rác, còn tư tưởng Phật thì hàng tỉ con người vẫn đi theo; ngay cả các tư tưởng Nho và Đạo cũng có rất nhiều yếu tố tích cực đang được nhân loại tôn trọng và lưu truyền đó sao ?

        Đây là một đoạn phân tích kiểu đao phủ thủ giết thơ của ông Nguyễn Lộc với “Cung oán ngâm khúc : “ Nguyễn Gia Thiều khai thác hình tượng theo nghĩa đen tối nhất của nó. Tiếng khóc chào đời của trẻ thơ đối với ông là tiếng khóc đưa ma cuộc đời : “ Thảo nào khi mới chôn nhau/ Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra…” ( hết trích)

        Trời ơi, câu thơ tuyệt tác trên của “Cung oán ngâm khúc” sao lại có thể là “tiếng khóc đưa ma cuộc đời” như thế thì sao ông Lộc có thể tiếp nhận được thi pháp “thi tại ngôn ngoại” của cha ông ?

….

….

        Nguyễn Lộc chê Nguyễn Gia Thiều không nắm được tâm lý nhân vật như sau : “ Hoặc kiêu căng về nhan sắc mà nói một cách trắng trợn : “ Bóng gương thấp thoáng trong mành / Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa” thì không phải là cách kiêu căng của phụ nữ trong xã hội phong kiến, mà chỉ có thể là cách nói của những người đàn ông của giai cấp bóc lột trong thời kỳ suy tàn. Ngay ý nghĩ bực bội muốn thoát khỏi cảnh cung cấm của người cung nữ mà diễn tả là : “Dang tay muốn dứt tơ hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra” …thì không phải là cái thế của câu thơ, mà ngay cái cử chỉ ấy, đúng như có nhà nghiên cứu nhận xét, nó phù hợp với một võ tướng như Nguyễn Gia Thiều hơn là với người cung nữ chân yếu tay mềm” ( trang 292-293) (hết trích). Viết những dòng phê bình thơ nhảm nhí ngô nghê trên, Nguyễn Lộc là một vị giáo sư không hề có thẩm mỹ thi ca, chỉ là cách phê bình của các lò mổ trâu mổ bò mà thôi !

…..

……

        Một thí dụ khác về lối phê bình “ông nói gà, bà nói thóc lép” của Nguyễn Lộc tức cười đến như sau : “ thê thảm và vất vưởng như bóng ma không hồn : “Đất bằng bỗng rấp chông gai / Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương”” ! ( hết trích)

 Ông Lộc có lẽ là người phê bình hiếm có vì ngay cả nghĩa đen của câu thơ ông cũng không hiểu ! Ông Lộc cho câu thơ “Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” là câu thơ tuyệt hay của Nguyễn Gia Thiều lại bị ông Lộc hành quyết bằng một kết luận như sau : “Vô nghĩa đến vô vị cùng cực” !

        Than ôi, trong các vị giáo sư giết chết thơ văn cha ông, có lẽ Nguyễn Lộc là nhà phê bình sát thơ nhất.

        Thưa với quý vị bạn đọc, đánh máy lại bài viết này từ cuốn : “Hầu chuyện các giáo sư” của chúng tôi, chúng tôi đành phải bỏ đi bốn trang in của nguyên bản để trích dẫn hàng chục lần ông đao phủ văn học Nguyễn Lộ do dốt nát mà chém sạch hàng trăm câu thơ của kiệt tác “Cung oán ngâm khúc” !

        Chúng tôi xin lỗi bạn đọc, đành khép lại bài này để than rằng, cớ sao Bộ giáo dục lại trao cho ông PGS. Nguyễn Lộc, một người không hế có khiếu thẩm mỹ văn chương, không có khả năng hiểu nghĩa đen tác phầm này của Nguyễn Gia Thiếu viết giáo trình đại học để cho sinh viên làm luận án tiến sĩ bậy bạ thế này ư ? Lần sau, chúng tôi sẽ cho quý vị biết, ông Nguyễn Lộc không hề có chút kiến thức gì về Truyện Kiều, lại dám viết bài khái luận trong sách giáo khoa môn văn lớp 11 có tên “ Nguyễn Du và Truyện Kiều” thì đúng là bộ giáo dục đã thành bộ vô giáo dục vậy !

        Sài Gòn 14-8-1999

        ( bài đã in trong cuốn “Hầu chuyện các giáo sư” NXB Văn Học 1999 )

                                T.M.H.

………………………….

 

CÁC GIÁO SƯ ĐẦU NGÀNH : GS.NGUYỄN ĐÌNH CHÚ, GS. TRẦN ĐÌNH SỬ, GS.NGUYỄN KHẮC PHI.... KHÔNG VIẾT ĐÚNG CÂU VĂN TIẾNG VIỆT KHI SOẠN SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 6 : NHỮNG “GHI NHỚ” -THUỘC LÒNG TRONG SGK “NGỮ VĂN 6” CHƯA VIẾT ĐÚNG TIẾNG VIỆT

        Sách giáo khoa “ Ngữ Văn 6 -tập 1” của Bộ GD&ĐT, NXB Giáo Dục 2002, toàn do các vị GS, GSTS như GS Nguyễn Khắc Phi, GS. Nguyễn Đình Chú, GSTS Trần Đình Sử, PGSTS Bùi Mạnh Nhị... đều là GS đầu ngành soạn thảo, từng bị báo chí vạch ra nhiều sai sót. Việc quan trọng bậc nhất của nền giáo dục Việt Nam hôm nay là : dứt khoát dạy cho học trò khi học hết phổ thông, phải viết đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, diễn đạt đúng ( trước khi hay) một câu văn tiếng mẹ đẻ. Rất tiếc, việc nói và viết đúng tiếng Việt hiện đang là một vấn nạn làm đau đầu các vị phụ huynh cả nước. Trong SGK “Ngữ Văn 6”, sau mỗi bài học, có phần “ghi nhớ” để học sinh học thuộc lòng, thật kỳ lạ, lại có rất nhiều chỗ viết sai tiếng mẹ đẻ. Chúng tôi xin dẫn ra một số trường hợp dưới đây, nhằm báo động một thực trạng đau lòng : các vị GS, GSTS đầu ngành ngành ngữ văn còn viết sai tiếng Việt đến thế, thì than ôi, học trò của chúng ta sẽ ra sao, hỡi những vị đang quản lý ngành giáo dục nước nhà ?

        Phần “ghi nhớ “ đóng trong khung hình chữ nhật, trang 23, sau bài học “Thánh Gióng”, được viết thành một câu văn hết sức lủng củng, rườm rà, dây cà ra dây muống, như sau :” Hình tượng Thánh Gióng với nhiều màu sắc thần kỳ là biểu tượng rực rỡ của ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời là  sự thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm “. Viết một câu văn lôi thôi thế này, quả tình còn hơn đánh đố ! Người lớn đọc cũng chịu, không hiểu SGK muốn nói gì, huống hồ học sinh lớp 6 mới 12 tuổi;nhất là còn bắt các cháu học thuộc lòng đoạn “ghi nhớ” rối như canh hẹ trên. Câu văn phức hợp này chỉ có 55 âm tiết mà lặp tới 2 từ “là”, 2 từ “và”, 2 từ “ của”, dày đặc từ Hán Việt chỉ khái niệm, cứ chồng chất lên nhau theo kiểu “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc “; nào là “hình tượng”, “biểu tượng”, “quan niệm”, “thần kỳ”, “rực rỡ”, “thể hiện”, “ước mơ”...Thế nào là “biểu tượng rực rỡ của ý thức”, là “ sự thể hiện quan niệm” ? Văn viết cho học sinh lớp 6 học thuộc lòng mà còn rối rắm hơn cả những phần rối rắm nhất của triết học Kant thế ư ? Chúng tôi xin sửa câu văn trên, thành một câu văn giản dị, trong sáng, như sau :”Hình tượng Thánh Gióng- người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm, với nhiều màu sắc thần kỳ, là biểu tượng cho ước mơ bảo vệ đất nước của nhân dân ta xưa”.

         Phần “ghi nhớ” của bài “Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt” trang 17 có 3 câu, chúng tôi xin dẫn ra câu thứ nhất vừa viết thiếu chủ ngữ, vừa có nội dung chưa chính xác, như sau :” Giao tiếp là hoạt động truyền đạt, tiếp nhận tư tưởng, tình cảm bằng phương tiện ngôn từ”. “Giao tiếp là hoạt động” của ai, của cái gì ? “Giao tiếp” của con người sao chỉ diễn ra qua tư tưởng, tình cảm, còn hành động thì bỏ đi đâu ? Chúng tôi xin sửa câu văn định nghĩa trên cho chính xác hơn về nội dung và ngữ pháp, như sau :” “Giao tiếp” là mọi ứng xử của con người với thế giới, thông qua phương tiện ngôn từ”. Sách giáo viên chỉ dẫn phần học này còn có một định nghĩa buồn cười theo kiểu “con cóc là con cóc”, như sau :”Mục đích giao tiếp là đích giao tiếp” ( tr.51)

        Phần “ghi nhớ” của bài “Từ mượn” trang 24 có 3 câu, xin dẫn ra câu thứ nhất, như sau :” Ngoài từ thuần Việt là những từ do nhân dân ta tự sáng tạo ra, chúng ta còn vay mượn nhiều từ của tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm,...mà tiếng Việt chưa có từ thật thích hợp để biểu thị”. Câu định nghĩa trên lặp 2 lần từ Hán Việt “biểu thị”, lại thừa một đoạn : từ liên từ “mà” đến hết câu. Phải thay từ “biểu thị” đầu tiên bằng từ “gọi” cho trong sáng, bỏ hết phần sau bắt đầu bằng từ “mà”, câu văn mới không bị lỗi. Tiếng Việt bao gồm từ thuần Việt, cộng với từ Hán Việt và các từ nhập từ các nước phương Tây như xà phòng, ga, xăng, ti vi, mít tinh, xô viết...Do đó, hai chữ “Tiếng Việt” ở phần cuối câu văn SGK trên phải viết cho chính xác là “Tiếng thuần Việt” mới logic. Nhưng nếu viết dài dòng như thế, câu văn sẽ trùng lặp, lủng củng.

        Phần “ghi nhớ” của bài”Tìm hiểu chung về văn tự sự” trang 27 có 2 câu, xin dẫn ra câu định nghĩa thứ nhất viết chưa đúng tiếng Việt, như sau :”Tự sự ( kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa”. Câu văn ngắn thế này mà lặp tới 3 lần từ “một”, 3 lần từ “sự việc”, hai lần từ “dẫn đến” nên rất tối tăm, nặng nề. Viết cho học sinh lớp 6, nếu có từ đơn giản cùng một ý nghĩa thì không nên dùng từ phức tạp, khó hiểu. Do vậy, câu văn trên phải thay từ “phương thức” bằng từ “cách”, bỏ một tập hợp từ “ sự việc này dẫn đến sự việc kia” vì nó trùng với “một chuỗi các sự việc”, bỏ từ “cuối cùng”, bỏ từ “một” thứ hai, ta có một định nghĩa giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, như sau :”Tự sự( kể chuyện) là cách trình bày một chuỗi các sự việc dẫn đến kết thúc, thể hiện một ý nghĩa”.

         Phần “ghi nhớ” của bài “ Sự việc và nhân vật trong văn tự sự” trang 37, có mấy câu, xin trích ra câu đầu viết chưa đúng tiếng Việt :” Sự việc trong văn tự sự được trình bày một cách  cụ thể: sự việc xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể  thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả...”.Câu định nghĩa rất ngắn trên sao lại lặp 3 lần từ “cụ thể”, 2 lần từ “sự việc” ? Phải viết lại câu định nghĩa trên như sau mới đúng :”Sự việc trong văn tự sự được trình bày một cách cụ thể: xảy ra trong thời gian, không gian, do một hay nhiều nhân vật thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả”.

        Phần “ghi nhớ” của bài “Sự tích Hồ Gươm” trang 43 là một đoạn văn rườm rà, lủng củng, như sau :”Bằng những chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo, giàu ý nghĩa ( như Rùa Vàng, gươm thần), truyện “Sự tích Hồ Gươm” ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỷ thứ XV. Truyện cũng nhằm giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình của dân tộc”. Truyện này ca ngợi ai, ca ngợi cái gì ? Sao lại đi “ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân” ? Thế nào là “tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân” ? Chịu ! Câu văn trên muốn trong sáng, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ, phải bỏ ngay cái “mệnh đề” phi logic này :” tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của”.

        Phần “ghi nhớ” của bài “Chủ đề và dàn bài của bài văn tự sự “ trang 45, câu đầu tiên viết như sau :” Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà người viết muốn đặt ra trong văn bản”. Đây là một câu đơn giản cực ngắn, chỉ 16 âm tiết mà đã có đến 8 âm tiết của 4 từ Hán Việt khó hiểu, lại điệp ngữ liên miên :” Chủ đề-Vấn đề-Chủ yếu”. Chúng tôi xin sửa câu định nghĩa này cho trong sáng, dễ nghe hơn, như sau :” Chủ đề là ý chính mà người viết muốn đặt ra trong bài”.

        Phần “ghi nhớ” của bài “Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự”, trang 48, câu đầu tiên tối tăm, trùng lặp, lủng củng đến không ngờ, như sau :” Khi tìm hiểu đề văn tự sự thì phải tìm hiểu kỹ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài”. Câu văn này có 24 âm tiết mà trùng lặp tới 2 lần từ “tìm hiểu”, 3 lần từ “đề”, 2 lần từ “văn”, 2 lần từ “của”; ngoài ra, từ “thì” rất khó nghe, cần thay bằng một dấu phảy. Chúng tôi xin sửa câu văn trên cho đúng tiếng Việt, bớt đi 8 âm tiết thừa, như sau :” Khi tìm hiểu đề văn tự sự, phải đọc kỹ, nắm vững yêu cầu đề bài”.

        Phần “ghi nhớ” của bài “ Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự “, trang 89, câu thứ 2, mắc lỗi thừa chữ và thiếu một dấu chấm câu, như sau :” Khi gọi các nhân vật bằng tên gọi của chúng, người kể tự giấu mình đi, tức là kể theo ngôi thứ ba, người kể có thể kể linh hoạt, tự do những gì diễn ra với nhân vật”. Câu văn trên phải bỏ từ “gọi” thứ 2, đánh dấu chấm câu thay cho dấy phảy sau cụm từ :” ngôi thứ ba” mới hết lỗi.

        Phần “ghi nhớ” của bài “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng”, trang 165 là một câu văn tràng giang đại hải, dùng từ thiếu chuẩn xác, như sau :”Với hình thức ghi chép chuyện thật, trong đó biết xoáy vào một tình huống gay cấn để tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét, truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm : không chỉ có tài chữa bệnh mà quan trọng hơn là có lòng thương yêu và quyết tâm cứu sống người bệnh tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân”. Câu văn trên dài hụt hơi, lại lôi thôi những là, mà. “Ghi chép” là thể loại văn học, sao SGK lại dùng cụm từ “ hình thức ghi chép” ? Câu văn 83 âm tiết trên cần phải tách làm 3 : đánh dấu chấm câu sau “bộc lộ rõ nét”, lại đánh dấu chấm câu thay cho dấu hai chấm 🙂) sau “Thái y lệnh họ Phạm”, thêm từ “ông” vào sau dấu chấm câu này. Như vậy, câu văn đầu tiên sẽ thiếu chủ ngữ : ai “biết xoáy vào tình huống” ? Chúng tôi xin sửa lại câu văn sai này cho đúng tiếng Việt, như sau :” Đây là chuyện người thật, việc thật, tác giả biết xoáy vào tình huống gay cấn để tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét. Truyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm. Ông không chỉ có tài chữa bệnh, quan trọng hơn là có lòng thương yêu, quyết tâm cứu sống người bệnh, tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân”.

        Cuốn SGK “Ngữ Văn 6” này còn khá nhiều lỗi tu từ, ngữ pháp, hành văn không chỉ thể hiện trong các phần “ghi nhớ”. Vì khuôn khổ bài báo không cho phép, chúng tôi xin hẹn bạn đọc một dịp thuận tiện khác. Phần “ghi nhớ” do các GS, GSTS viết cho con trẻ học thuộc lòng nơi đây là điều tối quan trọng, sao lại để xảy ra quá nhiều sai sót, quá nhiều lỗi sơ lược trong cách dùng tiếng Việt; ngay ở một học sinh trung học, đã tuyệt nhiên không chấp nhận những sai phạm vỡ lòng này ? Thử hỏi, những ai là người phải chịu trách nhiệm trong việc viết sai tiếng Việt nơi SGK “Ngữ Văn 6” ?

 Sài Gòn.. 2-6-2003

 T.M.H.

 

…………………………………….

 

GS. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VÀ HỌC TRÒ CỦA ÔNG CHỈ BIẾT CHỬI BỚI THÔ TỤC, KHÔNG HỀ BIẾT TRANH LUẬN HỌC THUẬT DỰA TRÊN VĂN BẢN TRƯỚC CÁC BÀI PHÊ BÌNH SÁCH GIÁO KHOA CỦA CHÚNG TÔI: PHÊ BÌNH VĂN HỌC CÓ ĐANG TỰ HẠ THẤP MÌNH CHĂNG ?

                                                                      

          Văn học, cũng như nhiếp ảnh, đều là những nghệ thuật nằm trong phạm trù của CÁI ĐẸP. Lý luận phê bình văn học là bộ môn của văn học, dĩ nhiên cũng phải ĐẸP. Nghĩa là khi tranh luận, khi phê bình nhau, người viết tuyệt nhiên phải giữ thái độ hòa nhã, lịch sự, lịch lãm, mềm mỏng, tuyệt đối không được xúc phạm cá nhân hoặc chửi bới người khác. Phê bình nhau, tranh luận nhau dù nảy lửa đi nữa mà vẫn tôn trọng nhau, mới là người có văn hoá trong phê bình.

Rất tiếc, trước và sau Hội nghị phê bình văn học Tam Đảo trung tuần tháng 8 - 2003 vừa qua, xuất hiện một số bài viết trên một số báo như :” Ngày Nay”, “An Ninh thế giới cuối tháng 8-2003”, “Gia Đình & Xã Hội” của ba vị GS là Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh và Trần Đình Sử cùng một vài học trò của họ như Văn Giá, Đỗ Ngọc Thống, Lê Hữu Thảo...đã khiến dư luận xã hội xôn xao rằng phê bình văn học hình như đang tự hạ thấp mình bằng ...chửi bới(!)

          Đầu tiên, phải kể đến bài trả lời phỏng vấn của GS. Nguyễn Đăng Mạnh đăng trên báo “Ngày Nay” ( số 15, ngày 5-8-2003) với nhan đề  :” Không tranh luận kiểu ngụy phê bình “. Trong bài báo này, GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã chửi bới chúng tôi (TMH) bằng những ngôn từ như sau :(” Trần Mạnh Hảo là hạng người tư tưởng thấp kém, động cơ xấu, ngụy phê bình”...” Tâm lý đố kỵ của kẻ học hành dở dang không có bằng cấp gì “...” An nói bừa bãi, quy kết chụp mũ một cách văng mạng”...”Nghĩ một đăng, nói một nẻo”...”Không nghiên cứu gì “...).

        Cũng trong bài báo này, GS. Nguyễn Đăng Mạnh tuyên bố “Tôi là người tự trọng, tôi không muốn hạ thấp mình để tranh luận với Trần Mạnh Hảo”.

        Quả đúng như thế, GS. Mạnh “không hạ thấp mình “ để tranh luận học thuật với Trần Mạnh Hảo; nhưng GS đã “hạ thấp mình “ để chửi bới tiếp Trần Mạnh Hảo bằng hai bài trả lời phỏng vấn khác in trên báo “Gia đình&Xã hội” số 100, ngày 22-8-2003 với nhan đề :” Những phát hiện của Trần Mạnh Hảo chỉ đáng tầm dọn vườn “ và bài “Cần chấm dứt lối phê bình chụp mũ và xuyên tạc” số 105, ngày 2-9-2003. Trong hai bài báo tranh luận bằng “chửi bới” vô bằng cứ này, GS. Nguyễn Đăng Mạnh vẫn tiếp tục dùng những ngôn từ phi học thuật để nói về chúng tôi giống như trên báo “Ngày Nay”. Nhưng GS. Mạnh đã “nâng cấp” ngôn từ lên bằng cách gọi Trần Mạnh Hảo là ...con khỉ núp bóng con hổ như sau :” Giống như khỉ mượn oai hùm, người ta không sợ khỉ mà sợ hổ”.

        GS. Mạnh cho rằng vì ông sợ con khỉ Trần Mạnh Hảo kia nên mới sửa chữa SGK theo ý “khỉ Hảo”, mà ý Hảo thì sai, ý GS. mới đúng. Vì để “yên thân, yên chuyện” nên ông và các ông GS khác phải sửa cái đúng của họ trong SGK thành cái sai để học trò cả nước học !

        Về chuyện này, chúng tôi xin trích ý kiến của tác giả Hoàng Văn Cao trong bài “ Đừng hạ thấp danh dự của nhau” in trên báo “Gia đình &Xã hội” số 107, ngày 6-9-2003 như sau :” Ở đây tôi thấy : khi nhà thơ Trần Mạnh Hảo có những bài phê bình thì GS. Nguyễn Đăng Mạnh lại có bài “phang” lại rồi hạ thấp nhau, nói nhà thơ Trần Mạnh Hảo chỉ đáng tầm dọn vườn, không có nhà, chỉ ra đường để “bậy”, rồi ví như con khỉ không đáng sợ, chỉ sợ con hổ “.

        Cũng trên số báo này, nhà báo Hà Minh trong bài “ Giáo sư - NGND Nguyễn Đăng Mạnh không nên nói thế “ có đoạn viết như sau :” Tôi giật mình vì Giáo sư - NGND Nguyễn Đăng Mạnh nói những phát hiện của Trần Mạnh Hảo chỉ đáng dọn vườn”...”

        "Tôi thấy Trần Mạnh Hảo và những bài phê bình SGK của ông ta là có chứng, có lý. Bằng chứng là những nhà soạn SGK vĩ đại phải sửa ngay.GS Mạnh bảo “sửa để cho yên thân”. Theo tôi, không sai thì sao phải sửa ? Hay là sợ TMH mà phải sửa. TMH bảo sao làm vậy ? GS cho là SGK đúng đắn, bằng chứng là “Hàng vạn giáo viên họ không dạy theo những điều đã sửa”. Nói như thế thì làm SGK khác nào như đẽo cày giữa đường. Thật buồn cho một tập thể biên soạn. Có đúng thế không thưa GS ?”.

         Khi phóng viên hỏi GS Mạnh rằng xin GS gọi tên con hổ đứng đằng sau “con khỉ Trần Mạnh Hảo” thì GS Mạnh trả lời :” Tôi chỉ ngờ ngợ thế thôi, không hiểu nó là cái gì “.

        GS Mạnh đã lấy sự “ngờ ngợ” “ không hiểu là cái gì” ra làm bằng cớ để chửi bới, xúc phạm chúng tôi trong suốt ba bài báo là cớ làm sao ? Bắt chước thầy mình gọi Hảo là con khỉ, ông Đỗ Ngọc Thống trên báo “Gia đình & Xã hội” số 107, 6-9-2003 trong bài “ Có con gà cứ tưởng tiếng gáy mình làm trời sáng” đã gọi chúng tôi là con gà !

          Người lên diễn đàn Hội nghị phê bình Tam Đảo sáng 15-8-2003 biện minh cho những lời chửi bới trên của GS Mạnh là ông Hoàng Ngọc Hiến, mà bài nói vo này đã in trên báo “Ngày Nay” số “17, ngày 5-9-2003 với nhan đề :” Về tư cách người phê bình và tư cách người bị phê bình” chủ trương một trường phái phê bình kỳ lạ có tên là :” VĂNG TỤC VÀ CHỬI THEO NGHĨA ĐEN”, như sau :” Tôi đề nghị một sự giãn biên những cung bậc, cung cách phản ứng bị phê bình chấp nhận được, thậm chí cần có sự thông cảm ngay cả với văng tục và chửi ( theo nghĩa đen)”. Ong Hiến khoe mình chuyên môn bị “chửi” một cách có vẻ hãnh diện như sau :” ...Tôi là người bị chửi nhiều nhất, ở trong nước cũng như ngoài nước....ngoài nước chửi hàm hồ và tàn bạo hơn nhiều “.

        Về chuyện bài nói vo mang tính “chửi học “ này của ông Hiến ở Tam Đảo, nhà văn Văn Chinh đã tường thuật lại trên tờ “An ninh thế giới cuối tháng, 8-2003” trong bài “ Bằng mặt liệu có bằng lòng”, có đoạn viết như sau :”Ong Hiến đồng ý với ý kiến của nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét về cái tiểu khí trong bài đăng ở báo “Ngày Nay” của GS. Nguyễn Đăng Mạnh khi nói về Trần Mạnh Hảo :”Anh Mạnh là bạn tôi, bạn tôi đúng là nhiều nhược điểm, không chỉ tiểu khí mà còn đê tiện nữa...”.

        Người nghe cứ tưởng ông Hiến nhận lỗi thay cho bạn, nhưng chợt ông nhắc đến câu nói của nhà phê bình Nga Biêlinxki :” Người cao thượng không phải là người không đê tiện mà là người biết nên đê tiện vào lúc nào”. Rồi nói tiếp :” Cái đáng sợ nhất không phải là sự đê tiện, sự tiểu khí; đáng sợ nhất là người luôn luôn tiểu khí, luôn luôn đê tiện, luôn luôn nhố nhăng mà không tự biết”.

          Khi người thầy đề xướng và quảng bá cho lối phê bình “văng tục và chửi theo nghĩa đen”, thì dĩ nhiên học trò liền hưởng ứng nồng nhiệt ngay. Đấy là bài “ Không nên cãi vã tủn mủn “ của ông Văn Giá ( cán bộ giảng dạy trường đại học tuyên giáo- là đại học của riêng ban văn hóa văn nghệ trung ương) in bên cạnh bài của ông Hoàng Ngọc Hiến trên báo đã dẫn. Ong Văn Giá khen hai “cụ”, “cụ Hiến” và “cụ Mạnh” chửi như thế là hay, là toàn đúng cả, là “đường bay chim ưng”. Còn những ai không thuộc phe “chửi học” của hai “cụ”-thầy kia theo ông Văn Giá thì “ là đường bay của cú, của quạ”.

        Ông Văn Giá viết về Trần Mạnh Hảo( người phê bình GS.Nguyễn Đăng Mạnh 25 bài đều đã đăng báo, in sách ) bằng những dòng vượt mức “hai cụ” trên, như sau :” Có một thằng suốt ngày cứ rình người ta đi qua là khạc nhổ thì bố ai mà chịu được. Mà cụ Mạnh thì đã nín nhịn bốn năm năm nay rồi”.

        Ông Văn Giá còn tiến xa hơn nữa bằng một khái quát rất sai về ý tưởng, lại rất ngông cuồng vì ông dám GỌI CẢ NƯỚC BẰNG THẰNG như sau :”Ở Việt Nam mình có một hiện tượng gần như là một hạn chế thuộc về quốc dân tính là THẰNG LÀM thì ít, THẰNG CHƠI thì nhiều, THẰNG KHÔNG BIẾT LÀM thì chỉ thích chê bai, thích chọc gậy bánh xe người khác”....” Vì cái chung thì phải quý, phải ủng hộ THẰNG LÀM chứ, sao lại có thể đi ủng hộ cái THẰNG phá đám được...”.

        Ý ông Văn Giá : THẰNG LÀM, THẰNG XÂY là những người lao động chân tay, lao động trí óc đang góp công sức xây dựng đất nước với đủ mọi ngành nghề, kể cả nghề dạy học như ông Giá và hai “cụ Hiến”, “cụ Mạnh”. Viết như thế hoá ra ông Văn Giá đã gọi thầy mình là “hai cụ” trên cũng bằng THẰNG như cả nước đã bị ông “THẰNG HOÁ” cả đó sao ?

          Cũng bằng giọng “chửi học” như trên, GSTS Trần Đình Sử( người đã từng bị chúng tôi phê bình 7 bài trên báo vì bình văn sai) đã lên báo “An Ninh thế giới cuối tháng, 8-2003” trả lời phỏng vấn trong bài “ Chúng ta đang tụt hậu “ chửi bới chúng tôi thậm tệ bằng những ngôn từ như sau :” Anh Hảo là nhà phê bình lừa dối dư luận, anh còn rắp tâm lừa dối cả cấp trên”, “ dối trá”, “chả biết gì về văn học”, “không đúng”, “Chí Phèo phê bình”, “ xuyên tạc, đả kích cá nhân làm mục đích”, “sai lầm nhiều quá”, “ không có phương pháp gì”, “ bình tán rẻ tiền”, “quy chụp chính trị”, “người cùn”, “lý sự cùn”...”chưa hiểu biết gì cả”, “ không đáng để chúng tôi phải bàn. Nói thật là dưới tầm”...

          Nếu quả chúng tôi là nhà phê bình “lừa dối” như ông Sử nói, sao năm 1996, ông Sử là một người trong 9 người thuộc Hội đồng lý luận phê bình Hội Nhà Văn Việt Nam đã bỏ phiếu cho chúng tôi được giải thưởng phê bình cuốn “Thơ phản thơ” , lại không vạch trần sự lừa dối của chúng tôi ra ? Nếu chúng tôi có nhiều “tội” lớn trong phê bình như thế mà suốt hơn 10 năm trời, các báo lớn nhỏ trong cả nước liên tục đăng bài của chúng tôi, sao ông Sử không có ý kiến? Sao chúng tôi phê bình “lừa dối” mà lại được các nhà văn tên tuổi như sau lên báo khẳng định Trần Mạnh Hảo căn bản viết đúng, ví như các vị  : Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Vũ Hạnh, Anh Đức, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Trí Huân, Lê Lựu, Trần Đăng Khoa, Chu Lai, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Cao, Xuân Thiều, Vũ Quần Phương, Phương Lựu, Vương Trọng, Khuất Quang Thụy, Đinh Quang Tốn, Diệp Minh Tuyền, Đặng Hấn, Nguyễn Văn Lưu, Phạm Tường Hạnh, Đoàn Minh Tuấn, Đỗ Trung Lai,Lê Quý Kỳ, Lê Thành Nghị, Đình Kính, Hữu Đạt, Hồng Diệu...Trong dịp tết Quý Mùi vừa qua, Bộ Trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Minh Hiển đã gửi thư  và quà tới nhà chúng tôi cám ơn vì chúng tôi đã bỏ nhiều công sức phê bình SGK và Bộ đã cho sửa chữa, viết lại năm 2000. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai còn tới tư gia chúng tôi để cám ơn vì sự đóng góp của chúng tôi cho nền giáo dục nước nhà bằng phê bình SGK.

          Chúng tôi, trong suốt hơn 10 năm viết phê bình, đã in 3 tập sách :” Thơ phản thơ”, “Phê bình phản phê bình”, “Văn học -phê bình- nhận diện”( tức “Hầu chuyện các Giáo Sư) và cả trăm bài rải rác trên các báo, luôn luôn căn cứ trên văn bản để phê bình, “nói có sách, mách có chứng”; tuyệt đối không bao giờ xúc phạm cá nhân. Chúng tôi hết sức buồn sau hàng loạt bài của các GS và học trò của họ vừa qua, quyết không tranh luận học thuật, chỉ cốt chửi bới chúng tôi là ngu dốt, vô học, thậm chí là con khỉ, là gà qué, là quạ diều... Đã đến lúc phê bình văn học nên trở về vị trí sang trọng, lịch sự, lịch lãm của mình trên văn đàn chứ không “hạ thấp mình” xuống cõi chợ búa để chửi bới nhau thậm tệ như những vị trên đã làm. Như vậy, những người cầm bút phê bình chúng ta mới có cơ lấy lại sự kính trọng trong mắt bạn đọc.,.

                                                 20-9-2003

                                                                             T.M.H.

…………………..

 

        Ts.Chu Văn Sơn - kẻ bôi tro trát trấu lên mặt nhà thơ Nguyễn Bính. Ông Sơn đã hoàn tất sự nghiệp của thầy mình là GS. Nguyễn Đăng Mạnh : quyết sống chết phá hoại tới cùng nền văn học Việt Nam trên giảng đường đại học, trên truyền hình và trên sách vở:

        CÓ THẬT CON NGƯỜI CÁ NHÂN ( CON NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG)

CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH CHỈ TOÀN LÀ CẶN BÃ?

        Lời phi lộ : Hôm qua, khi chúng tôi ( TMH) đưa bài phê bình về chuyện tả liễu trong thơ của Nguyễn Du và Xuân Diệu để trao đổi với TS. Chu Văn Sơn, có trích lời ông Văn Giá nào đó khen Chu Văn Sơn là đỉnh cao vào bậc nhất của phê bình văn học ngày nay bèn có bạn ngoài Hà Nội gọi vào bảo : Văn Giá cũng là PGS.TS văn học, giám đốc trường đào tạo nhà văn trẻ mang tên Nguyễn Du trong đại học văn hóa đầy. Tội trộm nghĩ, một kẻ dốt nát tận cùng về văn học như ông Văn Giá này mà làm nghề đào tạo nhà văn trẻ, thì than ôi, vận nước đã tiêu rồi (!) ( hết lời phi lộ)

        Sở dĩ chúng tôi đã cho công bố ba bài báo in trên "Văn Nghệ" "Người Hà Nội" "Thế Giới Mới" trong tháng 12-2004 phê bình tiến sỹ Chu Văn Sơn trong cuốn sách " Ba đỉnh cao Thơ Mới ( viết về Xuân Diệu Nguyễn Bính Hàn Mặc Tử - NXB Giáo Dục) đã công khai núp bóng nghiên cứu khoa học để hạ bệ bôi nhọ danh dự và thi ca từ Nguyễn Du tới Hàn Mặc Tử. TS. Chu Văn Sơn đang là giảng viên khoa văn đại học sư phạm Hà Nội lại thường xuyên lên Đài Truyền Việt Nam bình giảng văn thơ cho cả nước học tập thường xuyên được các sở giáo dục mời đi bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 12 nên việc ông dùng những kiến thức không chuẩn những quan niệm sai lầm những nhận định có tính chất mạ lỵ xúc phạm tới các tác giả lớn để giảng trong nhà trường là một việc làm rất nguy hiểm; ví như việc tác giả để hẳn một chuyên luận bảo thơ Hàn Mặc Tử là thơ điên khùng là thứ thơ mất trí vô nghĩa nhảm nhí; lại nói xấu Nguyễn Du bảo ông tả liễu thua xa Xuân Diệu tả liễu chỉ cốt để tả liễu mặc dù trong Truyện Kiều đại thi hào đã 25 lần tả liễu và toàn là tuyệt chiêu của nghệ thuật thi ca. TS. Chu Văn Sơn còn ra sức nói xấu hạ bệ thơ tình Xuân Diệu như bảo "nàng thơ" của nhà thơ tình số một Việt Nam là nửa trai nửa gái rằng "em" với "nàng" trong thơ tình Xuân Diệu phần lớn là đám đực rựa râu ria xồm xoàm; rằng chính con người Xuân Diệu có cấu tạo sinh lý nửa đực nửa cái...

        Đã đến lúc chúng tôi phải nhờ công luận báo chí tạo sức ép không cho phép TS. Chu Văn Sơn được dùng các diễn đàn hết sức quan trọng và nhậy cảm như để hạ bệ bôi nhọ trắng trợn các thần tượng văn học nước nhà. Ấy vậy mà kinh ngạc thay trên báo "Văn Nghệ" số 47 ngày 20-11-2004 tác giả Văn Giá bằng bài viết : " Thêm một công trình nghiên cứu có chất lượng về Thơ Mới" đã hết lời ca ngợi TS. Chu Văn Sơn bằng những lời tung hô đại ngôn mà nếu dành để khen Hoài Thanh e cũng còn quá đáng. Chỉ xin tóm tắt mấy ý mấy từ của Văn Giá coi Chu Văn Sơn như "vua" phê bình thơ nước nhà như sau : " MANG ẤN TÍN QUYỀN UY CỦA CHU VĂN SƠN" " Có dáng dấp một lý thuyết nghiên cứu riêng" " Làm nên tư tưởng dấu ấn riêng" "Xuất sắc" "Tính chuyên môn cao" "Mang phong cách Chu Văn Sơn" " Gọi được hồn vía của mỗi nhà thơ hiện lên trang giấy"...

        Lần này chúng tôi xin mời quý độc giả xem Chu Văn Sơn gọi hồn Nguyễn Bính hiện lên trang giấy bằng cách bảo sau khi vắt kiệt tinh hoa cho thơ cuộc đời riêng ( tức con người cá nhân đời thường) của nhà thơ Nguyễn Bính chỉ còn toàn là cặn bã . Trước hết xin quý độc giả xem quan niệm về con người của Chu Văn Sơn đúng hay sai : " Nghiên cứu tiểu sử nhiều nhà văn lắm lúc thấy nghi ngờ cái tín điều đã thành mặc nhiên trong truyền thống : văn là người. Thực ra chẳng phải nhọc lòng hoài nghi. Nó vẫn mặc nhiên là tín điều. Có chăng cần phải hiểu thế nào về người thôi. Sự đồng nhất giản đơn con người sinh hoạt với con người văn chương thì rất dễ gây thất vọng hẫng hụt. Bởi văn là sự lên tiếng của con người tâm linh con người khát vọng. Khát vọng chân chính của một con người chính là biểu hiện tập trung cho bản chất của người ấy. Và do đó tầm vóc khát vọng cũng quyết định phần lớn tầm vóc của cá nhân. Tôi chưa biết anh là ai nhưng hãy bộc bạch khát vọng của mình tôi sẽ biết anh là ai"...

        Quan niệm về con người của Chu Văn Sơn trên đây là hoàn toàn duy tâm và không đúng. Đánh giá con người đúng hay sai xấu hay tốt đẹp hay không đẹp người ta đánh giá trên tư tưởng tình cảm lời nói và hành vi người ấy chứ sao lại chỉ căn cứ trên khát vọng trên ước mơ của người ấy như Chu Văn Sơn bảo "khát vọng" là "bản chất" của con người rằng : " ...Hãy bộc bạch khát vọng của mình tôi sẽ biết anh là ai" (!) Ví dụ như khi có một tên chuyên môn giết người cướp của mang bộ dạng thiện lương ăn mặc rất trí thức lịch lãm đến gặp Chu Văn Sơn rồi bộc bạch khát vọng của mình như sau : tôi luôn ước mơ sống trong giàu sang phú quý và khát vọng cả thế gian ai cũng vợ đẹp con khôn ăn sung mặc sướng tôi muốn thế giới hòa bình xã hội phồn vinh...Ôi chao toàn là khát vọng chân chính cả thôi ! Nếu chỉ căn cứ vào khát vọng này để đánh giá chứ không căn cứ vào hành vi ( thực chất anh này là tên giết người cướp của) thì e tất cả bọn đao phủ trên thế gian này đối với Chu Văn Sơn đều có thể là người tốt cả ư ? Khát vọng của Hitle Mao trạch Đông Stalin Pônpốt Kim Nhật Thành... há chẳng tốt đẹp lắm sao ? Bao nhiêu kẻ có ước mơ khát vọng vương đạo nhưng hành vi thì bá đạo. Bao nhiêu kẻ lấy mục đích tốt đẹp ( khát vọng bình đẳng tự do bác ái) làm môn bài làm bình phong để che lấp hành vi xấu xa độc ác ví như dương ngọn cờ chính nghĩa của Cách Mạng tư sản Pháp đi cướp nước người ta đó sao ?

        Mang quan niệm sai trái về con người như trên rồi áp đặt vào đánh giá con người nhà văn Chu Văn Sơn đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác : "Cho nên "văn là người" là con người ấy tức con người bên trong con người bề sâu con người khát vọng". Đánh giá "con người nhà văn" sao chỉ căn cứ vào khát vọng của anh ta ? Sao lại tách con người thật con người đời sống con người thân phận mang tư tưởng tình cảm mang bi kịch cá nhân của nhà văn ra khỏi bản chất bên trong làm nên nghệ thuật của anh ta ? Việc Chu Văn Sơn tách "khát vọng bên trong" ra khỏi đời sống bên ngoài của nhà văn là tách cá ra khỏi nước tách nội dung ra khỏi hình thức tách hồn ra khỏi xác cũng giống như việc cắt đứt sợi dây diều vẫn buộc con diều vào mặt đất.

        Bằng quan niệm duy tâm này Chu Văn Sơn mượn lời Nguyễn Khải để cặn bã hoá con người nhà văn nói chung và con người Nguyễn Bính nói riêng : " Nhà văn Nguyễn Khải có lần nói : đối với anh nghệ sĩ phần tốt đẹp cao quý nhất của tâm hồn đã trút vào văn chương hết rồi. Còn những gì thể hiện trong sinh hoạt đời thường đôi khi chỉ là phần cặn bã của hắn mà thôi. Người ta đã kể ra chả ít chuyện nhếch nhác bê tha lôm loam của Nguyễn Bính trong sinh hoạt giao du. Con người đời thường lắm chỗ sao mà trái cựa trái khoáy với con người văn chương đến thế. Nhưng bức chân dung tinh thần đích thực là thuộc về cái tôi bề sâu của nghệ sĩ. Cái tôi ấy tự hoạ trong văn chương ngay cả khi nó không hề tự giác. Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những khát vọng sâu kín và cao quý nhất của mình. Cho nên CHẢ VÌ CÁI BÃ BÊN NGOÀI MÀ NGHI NGỜ CÁI HỒN BÊN TRONG. Cũng bởi SỰ KHÔNG ĐỒNG NHẤT NÀY mà trong nghiên cứu nghệ thuật mới cần phân biệt CON NGƯỜI THI SĨ (NGOÀI ĐỜI) và CÁI TÔI THI SĨ ( TRONG VĂN)... ( Phần chữ in hoa trong bài do TMH nhấn mạnh).

        Ngay cả khi nói đùa nói cốt để nhún mình diễu mình chọc mình...đi nữa thì câu nói Chu Văn Sơn dẫn ra được cho là của Nguyễn Khải ( nói ở đâu trong hoàn cảnh nào ngữ cảnh nào ?) cũng không thật đúng. Dù tác giả có đưa từ " đôi khi" đi kèm tức để nói rằng không phải là phổ biến thì ý tưởng bảo nhà văn sau khi sáng tạo tinh hoa phát tiết hết ra ngoài nên bản thân "hắn" chỉ còn là cặn bã là một cách bôi nhọ nhà văn bôi nhọ người nghệ sĩ. Xin xem "Đại từ điển Tiếng Việt" của Bộ GD&ĐT ( NXB Văn hoá Thông tin 1999) trang 271 định nghĩa từ "cặn bã" như sau : " Cái vô dụng xấu xa thấp hèn đáng bỏ đi ví như phần cặn và bã sau khi đã chắt lọc lấy hết tinh chất : trừ bỏ cặn bã văn chương cặn bã phần tử cặn bã trong xã hội". Vượt qua mức độ "đôi khi chỉ là phần cặn bã của hắn "-nhà văn Chu Văn Sơn áp dụng ngay vào trường hợp Nguyễn Bính và không hề nới tay đã cặn bã hoá cuộc đời tư của nhà thơ này bằng từ : CÁI BÃ BÊN NGOÀI : " Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những khát vọng sâu kín và cao quý nhất của mình. Cho nên chả vì CÁI BÃ BÊN NGOÀI mà nghi ngờ CÁI HỒN BÊN TRONG". Trong đời thực hoàn toàn không có cứ liệu nào chứng minh cuộc đời riêng của Nguyễn Bính toàn là cặn bã như Chu Văn Sơn vu vạ.

        Ở chính chỗ này Chu Văn Sơn đã "pha" cuộc đời nhà thơ Nguyễn Bính ra làm hai phần hồn và xác như người ta "pha" thớt thịt heo : xương ra xương thịt ra thịt huyết ra huyết. Nghiên cứu tác giả tác phẩm mà ‘nghiên cứu theo phương pháp mổ bò thế này thì tiêu vong hết mọi đối tượng tiếp cận mà thôi. Sau khi "pha" Nguyễn Bính ra làm hai phần hoàn toàn riêng biệt và đối lập hẳn nhau : CON NGƯỜI THI SĨ ĐỜI THƯỜNG chính là CẶN BÃ và CÁI HỒN BÊN TRONG - CÁI TÔI THI SĨ TRONG VĂN toàn là tinh hoa cao quý. Hoá ra cơ sở của văn thơ tinh hoa cao quý kia lại chính là CẶN BÃ ư ?

        Làm sao một con người có cuộc đời cá nhân cuộc đời thân phận vô dụng xấu xa thấp hèn đáng khinh đáng bỏ đi thải hoại đi như thế lại sinh ra vàng mười thơ ca toàn là thiêng liêng quý giá được ? Tục ngữ Việt Nam có câu "Người làm sao chiêm bao làm vậy"; làm sao một kẻ có cuộc đời cặn bã như Nguyễn Bính (theo Chu Văn Sơn) lại có thể sinh ra ngọc ngà châu báu thi ca ? Không phải bất cứ nhà văn nào cũng phải sống đúng như tiêu chí CHÂN THIỆN MỸ mà tác phẩm ông ta luôn phải hướng tới; hoặc hoàn hảo tuyệt đối như KHÁT VỌNG CÁI ĐẸP của tác phẩm đặt ra; nhưng chí ít cuộc đời của mỗi người viết cũng phải là vật bảo hiểm cho điều anh viết ra. Một kẻ bán nước làm tay sai cho giặc không thể viết ra những dòng thơ yêu nước làm cảm động hồn người. Một kẻ sống ác thì làm sao viết ra điều thiện làm xúc động lòng người đây ? Nhà văn thu nạp đời sống vào trong mình như quặng để rồi dùng tài năng nghệ thuật luyện từ quặng ra thành vàng thành kim cương văn học. Lẽ nào kim cương ấy vàng ấy lại quay ra phản quặng đối lập với quặng ? Nếu đời sống sinh hoạt của nhà văn chỉ toàn cặn bã tức là bản thể anh không phải là quặng nữa rồi. Làm sao anh có thể luyện cặn bã ra vàng mười thơ văn đây?

        Đối lập hoàn toàn giữa con người nhà văn với tác phẩm của ông ta rồi còn CẶN BÃ HOÁ đời sống thường nhật của nhà văn không chỉ trong trường hợp riêng Nguyễn Bính như Chu Văn Sơn đã làm trên đây là một hành vi tiêu diệt chính văn học vậy. Thế mà lạ thay Văn Giá lại mượn báo Văn Nghệ mà khen Chu văn Sơn đến mức tót vời như thế thì quả là không còn trời đất gì nữa rồi. .

11-12-2004

T.M.H

………………………………

 

        Trên blog TỄU của tiến sĩ Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện, chúng tôi vừa đọc bài báo rất thiếu tính khoa học, rất hàm hồ, rất ngụy biện của PGS. TS. nhà văn Nguyễn Thanh Tú, nguyên Phó tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quận đội có tên: “Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là hợp lý, hợp tình” của PGS. TS. Nhà văn Nguyễn Thanh Tú, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ( Nay "ông vua" viết "ní nuận" bảo vệ đảng đã không làm phó tổng tạp chí VNQĐ nữa mà chỉ ở trong tổ sáng tác)

        Nay chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) xin gửi tới quý bạn bài viết dưới đây, đã in trên báo và in trên mạng Internet từ năm 2004 vạch trần trò láu cá của thầy trò GS.TS. Trần Đình Sử và nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú, trong một vụ án đạo văn mờ ám tạo thành “luận án tiến sĩ” của Nguyễn Thanh Tú để bạn đọc rộng đường dư luận.

        Một con người có án ăn cắp luận án tiến sĩ như Nguyễn Thanh Tú lại nhảy ra bênh đảng, bảo hoàng hơn vua, thì người được bênh cũng chẳng vinh dự gì... Bài viết của chúng tôi trả lời ông Nguyễn Thanh Tú có tên: “Khi hai thầy trò là đồng tác giả luận án tiến sĩ ngữ văn” dưới đây:

        KHI HAI THẦY TRÒ LÀ ĐỒNG TÁC GIẢ MỘT LUẬN ÁN TIẾN SĨ  NGỮ VĂN

        Báo Gia Đình & Xã Hội số 153 (463) ra ngày 23/12/2003 có in bài: “Về tác giả chuyên luận ‘Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan’ của TS. Nguyễn Thanh Tú”, nhằm đáp lại bài “Ai là tác giả thật của ‘Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan?” của chúng tôi (tức Trần Mạnh Hảo) cũng in trên tờ báo đã dẫn số 143 ngày 29/11/2003.

        Đoạn cuối cùng bài báo của mình, TS. Nguyễn Thanh Tú viết: “Bài viết của anh Hảo chứng tỏ anh chẳng những không biết mối quan hệ đặc biệt của người hướng dẫn khoa học và nghiên cứu sinh mà còn tùy tiện xuyên tạc.”

        Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi với ông Nguyễn Thanh Tú 2 vấn đề:

        1. Về mối quan hệ đặc biệt giữa người hướng dẫn khoa học, GS TS. Trần Đình Sử và nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú ra sao?

        2. Trần Mạnh Hảo hay Nguyễn Thanh Tú, ai là người “tùy tiện xuyên tạc”?

        Trước khi vào vấn đề chính, chúng tôi cần tóm tắt vài nét về bài báo “Ai là tác giả thật của thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan?” in trên tờ báo đã dẫn.

        Số là, năm 1996, ông Nguyễn Thanh Tú có hoàn thành luận án tiến sĩ nhan đề: “Từ quan niệm nghệ thuật đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan” dày 179 trang khổ A4. Trên trang đầu tiên của luận án có lời cam đoan và chữ ký của nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú, viết như đinh đóng cột như sau: “LỜI CAM ĐOAN: Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.”

        Thế mà chỉ 5 năm sau, người ta thấy luận án trên của TS. Nguyễn Thanh Tú được xuất bản với một tên khác: “Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan” mang tên 2 đồng tác giả: GSTS. Trần Đình Sử và TS. Nguyễn Thanh Tú (NXB Đại học QG Hà Nội 2001). Trong bài báo đã dẫn, chúng tôi nêu ra nghi vấn: thế thì ai là tác giả thật của luận án tiến sĩ trên, ông Sử hay ông Tú, và nếu một luận án tiến sĩ do hai thầy trò đồng tác giả như thế liệu có hợp pháp chăng?

        1- Về mối quan hệ đặc biệt giữa người hướng dẫn khoa học - PGS.TS Trần Đình Sử - và nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú.

        Như chúng tôi vừa nêu, trên trang đầu luận án tiến sĩ của mình, nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú đã cam đoan, thề rằng: “ĐÂY LÀ CÔNG TRÌNH CỦA RIÊNG TÔI!”. Thế mà sau 5 năm, khi từ luận án tiến sĩ chuyển thành cuốn sách chung mang tên Trần Đình Sử - Nguyễn Thanh Tú, ông Trần Đình Sử đã khui ra sự thật này, phủ nhận hoàn toàn lời thề của ông Tú khi bảo vệ luận án TS: “Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là chuyên luận đã được ấp ủ từ đầu những năm tám mươi khi tôi bắt đầu viết thi pháp thơ Tố Hữu. Những ý tưởng được tích lũy dần cho đến khi gặp Nguyễn Thanh Tú, một người ham học hỏi, làm việc đầy sáng tạo, năng nổ, góp phần quyết định cho việc hoàn thành bản thảo. Đây là công trình chung, kết quả làm việc phối hợp chặt chẽ của tôi và tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú.”

        GSTS. Trần Đình Sử khẳng định rằng không chỉ khi cuốn sách: “Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan” của hai đồng tác giả trên ra đời, mà ngay cả luận án tiến sĩ: “Từ quan niệm nghệ thuật đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan” đã là cuộc kết hợp giữa hai thầy trò Trần Đình Sử - Nguyễn Thanh Tú. Thế thì việc ông Tú cam đoan trên trang đầu của luận án tiến sĩ do ông bảo vệ đầu năm 1997 rằng đây “LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA RIÊNG TÔI” hoàn toàn là một sự thiếu trung thực. Vì nếu ông Tú viết trên trang đầu của luận án TS trên rằng: “Tôi xin cam đoan đây là công trình của hai thầy trò chúng tôi là PGSTS. Trần Đình Sử - Nguyễn Thanh Tú” đúng như lời ông Sử sau này khai ra, thì ông Tú đến 100 năm nữa cũng không lấy được học vị tiến sĩ. Trong bài trả lời chúng tôi như đã dẫn, ông Tú cũng phải thừa nhận rằng cái luận án tiến sĩ mà ông nói dối rằng của riêng ông, thực ra là của chung 2 thầy trò như ông Sử đã tuyên bố; ông Tú thừa nhận: “Xét ở phương diện ý tưởng khoa học và phương pháp nghiên cứu, người hướng dẫn hoàn toàn có thể là đồng tác giả của một luận án khoa học do nghiên cứu sinh thực hiện”. Cũng trong bài trên, ông Tú tiếp tục khai ra sự thật mà thầy mình đã đưa ra ánh sáng trước đó, rằng: “Ý tưởng khoa học về đề tài luận án của tôi được GS. Trần Đình Sử ấp ủ từ khi ông viết Thi pháp thơ Tố Hữu”.

        Hóa ra ông Sử đã thai nghén chuyên luận này từ đầu những năm 80, nghĩa là trước khi ông Tú bảo vệ “thành công” cái luận án do hai thầy trò là đồng tác giả ít nhất là 15 năm. Suốt 15 năm ấy “những ý tưởng được tích lũy dần cho đến khi gặp Nguyễn Thanh Tú” như lời ông Sử, mới thành luận án tiến sĩ chung, thành sách chung của hai thầy trò! Nghĩa là trước khi ông Tú bảo vệ luận án TS về nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, ông Sử đã bỏ ra 15 năm suy nghĩ, ấp ủ, nghiền ngẫm, thai nghén cái chuyên luận này mà khi đứng trước Hội đồng khoa học, ông Tú đã thề rằng nó là của riêng mình! Đây là điều đáng trách nhất của cả ông Sử và ông Tú!

        Hóa ra các ông cùng rắp tâm lừa Hội đồng khoa học, lừa Bộ GD&ĐT ư? Phải chăng đây chính là mối quan hệ đặc biệt giữa người hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần Đình Sử và nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Tú? Trong bài báo trả lời chúng tôi, ông Nguyễn Thanh Tú đã lờ đi hai điều then chốt nhất của vấn đề là lời thề của ông trước khi bảo vệ luận án TS và lời thú nhận của ông Trần Đình Sử rằng đây là công trình chung của 2 thầy trò khi nó còn trong trứng nước, tức là khi nó chưa thành bản luận án TS mang tên ông Tú!

Như vậy, luận án tiến sĩ của riêng Nguyễn Thanh Tú (thực chất là đồng tác giả của hai thầy trò) kia, liệu có phạm quy, có danh chính ngôn thuận, có đúng luật pháp hay không thì xin thanh tra Bộ GD&ĐT, Hội đồng khoa học khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư Phạm và Bộ GD&ĐT hãy trả lời trước công luận.

        2- Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Thanh Tú, ai là người “tùy tiện xuyên tạc”?

        Khi cả hai thầy trò Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú cùng ra trước công luận thú nhận một sự thật đau lòng rằng: cái luận án ông Tú thề rằng của riêng mình kia thực ra do hai thầy trò là đồng tác giả, thì vấn đề khi đem in nó thành sách, các ông có bổ sung 2% hay 20% hoặc 80% cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Bằng lời nói đầu cuốn sách của ông Sử, bằng bài báo trả lời chúng tôi của ông Tú, chính ông Tú là người đã “tùy tiện xuyên tạc” sự thật của chính các ông bằng một lời thề thiếu trung thực trước Hội đồng khoa học Trường ĐHSP Hà Nội năm đầu năm 1997 đó sao?

        Nguyễn Thanh Tú lên án chúng tôi: “...Anh đã xuyên tạc trắng trợn sự khác nhau giữa luận án và sách. 82.000 chữ trừ đi 65.000 chữ là 17.000 chữ, là trên 20% chứ không hề là 2% như anh Hảo nói để rồi quy kết tôi là “không trung thực” khi làm luận án và suy diễn vu vơ rằng GS. Trần Đình Sử “viết giùm cho học trò” (!).

        Thưa ông Nguyễn Thanh Tú, chính ông đã xuyên tạc ý GS.Trần Đình Sử trong lời nói đầu nơi cuốn sách đồng tác giả với ông rằng: “Đây là công trình chung...” của 2 thầy trò đó ư? Ý GS Sử nói trong văn mạch, trong văn cảnh đã dẫn rằng: công trình chung của 2 thầy trò này là chung từ thuở còn chưa có hình hài, nghĩa là từ thuở chưa có bản luận án mang tên ông Tú, chứ không chỉ là công trình chung của riêng cuốn sách. Cũng như ông Tú đã thừa nhận trong bài trả lời chúng tôi rằng: (xin lược dẫn điều đã dẫn trên): “Người hướng dẫn hoàn toàn có thể là đồng tác giả của một luận án khoa học do nghiên cứu sinh thực hiện!”.

        Vì sao hai ông Tú và Sử lại đem một luận án TS mang tên X ra in rồi biến nó thành thành cuốn sách khác với cái tên gọi khác là Z như thế? Việc làm này là trung thực ư, khoa học ư? Chưa hết, ông Tú còn tung hỏa mù rằng các ông đã gia công thêm 20% từ luận án sang sách, rồi khi thì thề là của riêng tôi, khi thì cùng ra công luận thú nhận là đồng tác giả? Ông Tú ngồi đếm chữ rằng sách dôi ra so với luận án những 17.000 chữ, nghĩa là sách thêm 20% so với luận án! Cứ cho là cuốn sách chỉ mang tới 80% luận án đi nữa thì cũng không thể tùy tiện đổi tên luận án từ X sang tên gọi Z của sách được?

        Bản chất của cuốn sách vẫn là luận án vì nó chiếm tới 8 phần 10 cơ mà! Số trang ở sách dôi ra so với luận án là do sách chú thích dưới từng trang, còn phần luận án chú thích được dồn vào cuối. Trang 156 của sách, các ông có đưa vào thêm 13, 5 trang gọi là phần “Nguyên tắc ‘lột mặt nạ” và “nguyên tắc dùng cái tục” mà ông Tú khoe khoang một cách khôi hài rằng chỉ 2 tiểu mục này cũng “Tương đương với 2 công trình khoa học” (!).

        Cứ theo đà tự phong ngút trời mây này, cuốn sách của thầy trò ông Tú có thể còn cỡ vài ba trăm công trình khoa học nữa cũng không biết chừng! Chúng tôi xin lấy vài ví dụ về sự “lên đời” từ luận án hóa thành sách ra sao? Ví dụ như trang 16 của sách so với luận án là dôi ra hơn nửa trang vì thêm ý kiến của Nguyễn Đức Đàn. Trang 22, 23 sách cũng trích thêm ý kiến của Nguyễn Đức Đàn dôi ra nửa trang (sách in sai là Nguyễn Đức Đà, chú thích cuối trang sai là Nguyễn Đức Đàm!). Trang 29 sách chỉ thêm đề mục (II) tương đương với luận án trang 16. Trang 30 của sách so với trang 17 luận án thêm 2 chữ “Sau này”. Cũng trang 30 đổi chữ “luận án“ trang 17 thành “chuyên luận” trong sách. Trang 31 sách thêm 8 dòng so với trang 18 luận án, cốt để tâng bốc “Thi pháp”. Ví dụ khác như trang 111 luận án dòng cuối cùng viết “ thế kỷ này” thì ở sách trang 133, dòng cuối cùng sửa thành “Thế kỷ XX”. Mặc dù bìa sách và bìa phụ đề tên 2 vị là đồng tác giả, nhưng chỉ ở chương đầu đã ba lần lặp lại dòng chữ “Tôi nhấn mạnh - N.T.T” thay vì chính ra phải chua rằng “Chúng tôi nhấn mạnh: T.Đ.S. và N.😭.”!

        Khi vấn đề chính đã được giải quyết, dù ông Tú có cố chứng minh từ luận án đến sách rằng hai ông đã gia công 20% hoặc 80% cũng không làm ảnh hưởng đến cái sai rất lớn là cả hai thầy trò ông đã lừa Bộ GD&ĐT đầu năm 1997 trong cuộc bảo vệ luận án TS ở Trường ĐHSP Hà Nội, nhằm cốt để lấy tấm bằng TS cho riêng ông Tú; vì ông Sử lúc đó đã là PGS.TS, còn cần gì lấy thêm một nửa bằng Tiến sĩ nữa từ luận án đồng tác giả kia?

                  (19-2-2004)

          Trần Mạnh Hảo.

………………………….

 

        Thầy trò hai ông cai đầu dài môn văn GS. Nguyễn Đăng Mạnh & PGS.Đỗ Ngọc Thống thay nhau được Bộ Vô Giáo Dục và Đào Tạo cử làm TỔNG CHỦ BIÊN HỆ THỐNG SÁCH GIÁO KHOA MÔN VĂN PHỔ THÔNG trong rất nhiều lần viết đi viết lại SGK, gây thất thoát hàng nghìn tỉ đồng tiền xương máu của nhân dân, làm tiền trắng trợn con em nhân dân bằng hàng chục vạn cuốn VĂN MẪU phản giáo dục, viết tầm bậy tầm bạ, tào lao chi khươn, gây tội ác với quốc dân đồng bào bằng việc giết môn văn trong nhà trường phổ thông và đại học ( giết môn văn đồng nghĩa với giết hồn nước). Nhóm lợi ích này do GS. Nguyễn Đăng Mạnh cầm đầu, độc quyền ra đề thi môn văn cho Bộ Vô Giáo Dục, độc quyền phát hành văn mẫu, độc quyền soạn sách giáo khoa, độc quyền viết bậy bạ “ sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Hãy xem hai ông GS.TS đầu ngành này ra nhiều đề thi môn văn lệch chuẩn, viết sai cả câu văn tiếng Việt ra sao:

 MỘT SỐ ĐỀ VĂN KHÔNG CHUẨN XÁC DO "NHÓM LỢI ÍCH MÔN VĂN" DO ÔNG TRÙM GS. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH & PGS. ĐỖ NGỌC THỐNG VIẾT

Ra đề bài tập làm văn cho học sinh làm luận văn trong nhà trường thiết tưởng là điều quan trọng, không thể khinh xuất để thiếu chuẩn mực. Thế mà, lạ thay, trong cuốn "217 ĐỀ VÀ BÀI VĂN" dày 627 trang, do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội tái bản với số lượng lớn lại có khá nhiều đề văn thiếu chuẩn mực sư phạm. Đây là công trình của bốn tác giả : GS. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), TS. Đỗ Ngọc Thống, TS. Hà Bình Trị và Chu Văn Sơn. Đề văn do các tác giả này ra, bài văn mẫu cũng do các vị này làm. Trên một số tờ báo, chúng tôi đã viết bài phê bình nhiều bài văn mẫu trong cuốn sách này có nhiều sai sót về nội dung lẫn hình thức, không xứng đáng làm mẫu cho học sinh noi theo.

        Đưa ra văn mẫu phải chăng là để bít hết đường độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận văn học ? Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi xin chỉ ra những đề văn có nhiều lỗi sai phạm về hành văn, về tu từ, về ngữ pháp. Đề văn thầy ra không đúng thì sao lại đòi học trò làm đúng và hay bài luận được ?

        Ở trang 34 có hai đề văn phải sửa cho chính xác. Đề thứ nhất :" Trong lịch sử văn học nước nhà, có một số tác phẩm thơ văn xuất hiện vào thời điểm trọng đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và được coi là những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, trong đó có tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.  Anh ( chị) hãy phân tích bài cáo để khẳng định giá trị nói trên của nó ".

        Đề văn này quá rườm rà, lủng củng. Phải bỏ hết sự trùng lặp, câu văn của đề mới gọn gàng, trong sáng. Chúng tôi xin bỏ các từ sau : "có", "thơ văn", "của dân tộc" và "của nó ". Sau khi bỏ từ trùng lặp, ta được một đề văn viết đúng như sau :" Trong lịch sử văn học nước nhà, một số tác phẩm xuất hiện vào thời điểm trọng đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và được coi là những bản tuyên ngôn độc lập, trong đó có tác phẩm  Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Anh (chị) hãy phân tích bài cáo để khẳng định giá trị nói trên ".

        Đề thứ hai : " Bàn về tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, có người đã khẳng định : Đây là tác phẩm có nhiều giọng điệu phong phú và hấp dẫn. Anh (chị) hãy phân tích bài cáo để chứng minh ý kiến trên".

        Đề văn trên không ổn ở chỗ tác giả dùng từ : "Giọng điệu " . Từ "Giọng điệu" thường được dùng ở những trường hợp không đẹp, không hay ví như : "Giọng điệu láo xược", "Giọng điệu phản động", "Giọng điệu con buôn "... Khi đưa từ "Giọng điệu" vào cho văn phong đa dạng của Nguyễn Trãi e không phải, không được. Có thể thay từ "Giọng điệu " bằng từ  : "phong cách", "lối thể hiện", "âm hưởng"...

        Ở trang 196 đề văn ra về Tản Đà :" Đọc bài thơ Thề non nước  của Tản Đà, người thì cho rằng đây là bài thơ viết về tình yêu thắm thiết của nam nữ, người thì quả quyết là tác giả nói về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nhưng có người lại khẳng định : Thông qua câu chuyện tình yêu và lời thề  thủy chung gắn bó của non và nước, tác giả muốn gởi gắm tâm sự đau buồn trước hiện tại tang thương của đất nước và niềm ước vọng ở ngày mai. Theo anh (chị) nên hiểu bài thơ như thế nào và hãy phân tích bài thơ để thuyết minh cách hiểu đó".

        Đề văn trên quả là một câu văn điển hình về sai phạm nghệ thuật tu từ tiếng Việt. Ta cứ nhìn vào những chữ nghiêng đậm trên để thấy sự trùng lặp đã khiến câu văn quá lủng củng vì thừa dấu phảy, thiếu dấu chấm câu. Chúng tôi xin bỏ bớt từ ngữ rườm rà, sửa chữa để câu cú của đề  văn trên đúng văn phạm như sau :" Trước bài thơ "Thề non nước " của Tản Đà, đã có nhiều ý kiến khác nhau. Người nói đây là bài thơ về tình yêu nam nữ. Người bảo tác giả viết về phong cảnh thiên nhiên hữu tình. Người lại cho thông qua lời thề thủy chung yêu đương gắn bó giữa non và nước, tác giả gửi gắm tâm sự đau buồn trước đất nước tang thương và niềm ước vọng ở ngày mai.  Anh hay (chị)..."

        Ở trang 582, có đề văn về truyện ngắn " Một con người ra đời" của M. Gorky viết như sau :" Tại sao nói "Một con người ra đời"  là một hình tượng giàu ý nghĩa tượng trưng. Hãy chỉ ra ý nghĩa tượng trưng của nhân vật người mẹ, đứa con, người đỡ và hình tượng đại dương trong câu chuyện ".

        Đề văn này hỏng ở chỗ gọi sai tên sự vật. "Một con người ra đời" là tên tác phẩm, tên truyện ngắn của Gorky học sinh phải phân tích. Nhưng người ra đề đã gọi nhầm nó là "hình tượng". Phải viết lại như thế này thì đề văn trên mới đúng logic :" Tại sao nói "Một con người ra đời" là một truyện ngắn giàu ý nghĩa tượng trưng..."

        Ở trang 610, một đề văn về lý luận văn học viết như sau :"Tiếp nhận đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm  bằng toàn bộ tâm hồn để cảm nhận cái thông điệp thẩm mỹ mà tác giả gửi đến cho người đọc văn học " ( SGK Văn 12, phần văn học nước ngoài và lý luận văn học -GD, 1992 ). Với kinh nghiệm đọc sách của bản thân, em hiểu ý kiến trên như thế nào ?".

        Câu  của đề văn trên là một câu văn què cụt, thiếu chủ ngữ.  " Tiếp nhận " cái gì ? - Văn học. Mệnh đề đầu của đề văn phải viết lại như thế này mới đúng :" Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc ...". Và cuối câu trích dẫn đề văn trên, cần phải bỏ từ "mà" thay bằng từ "của" : "của tác giả", đồng thời bỏ mấy chữ sau :"...Gửi cho người đọc văn học ". .. Sau khi bỏ bớt và sửa chữa, thay từ ngữ, ta được một đề văn đúng văn phạm như sau :" Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn, mới cảm nhận được thông điệp thẩm mỹ của tác giả . ( SGK Văn 12...".

 Cho hay,  việc ra đề văn cho học sinh làm luận không phải dễ !

        Chúng tôi chỉ cần dùng trình độ của một giáo viên tiểu học cũng đủ "HỌC HÀM HỌC VỊ" để chấm văn ra đề thi của hai ông GS.TS. đầu ngành Nguyễn Đăng Mạnh & Đỗ Ngọc Thống; và xin lỗi, chúng tôi chỉ cho hai ông cai đầu dài môn văn này 2 điểm vớt mà thôi !

                T.M.H.

        Hai ông cai đầu dài nhóm lợi ích môn văn, chuyên bày trò viết lại SGK môn văn , càng viết càng sai để làm hại hàng nghìn tỉ đồng, hai ông vua viết mấy vạn cuốn văn mẫu phản giáo dục làm tiền trên lưng phụ huynh cả nước là GS. Nguyễn Đăng Mạnh & PGS.Đỗ Ngọc Thống (hiện vẫn là Tổng chủ biên sách giáo khoa môn văn sắp tới của Bộ Phản Giáo Dục)

TRẦN MẠNH HẢO

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét