I – Tiểu sử Vũ Huy Trác:
Tiến sĩ Vũ Huy Trác (gia phả họ Vũ chép là Vũ Duy Trác) hiệu Giác Trai, thuỵ Trung Thận, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1730 tại ấp Lộng Điền, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Ông mất ngày 3 tháng 10 năm 1793. Thân phụ ông là Huấn đạo phủ Trường Khánh Vũ Hưng Nhai, thân mẫu là bà Vũ Thị Ngọ. Theo tộc phả họ Vũ, ông thuộc đời thứ tám tính từ khi cụ thuỷ tổ họ Vũ về lập nghiệp ở Lộng Điền.
Vũ
Huy Trác là một học trò thông minh, hiếu học. Năm lên tám tuổi, ông theo học thầy
Kim Lan họ Trịnh là Tri phủ Cẩm Giàng. Năm Đinh Mão (1747) ông dự kỳ thi sát hạch
ở huyện Đại An được xếp thứ ba khi mới 18 tuổi. Năm Canh Ngọ (1750) ông theo học
Thám hoa Phan Kính(1). Năm Tân Mùi (1751) Vũ Huy Trác thọ nghiệp
quan Quốc tử giám trực giảng Trần Văn Trứ(2).
Năm
Quý Dậu (1753) Vũ Huy Trác đỗ Tỉnh nguyên Hương cống. Lúc này cha ông đã mất được
ba năm. Theo yêu cầu của mẹ, sau khi hết tang cha, ông lập gia đình với con gái
cụ sinh đồ Phạm Khắc Du.
Sau
khi lấy vợ, Vũ Huy Trác vẫn quyết chí học hành để đỗ đạt cao hơn. Ông đã tìm đến
nhiều thày giỏi để học tập. Năm Ất Hợi (1755) ông theo học thầy Hà Tông Huân(3).
Sau đó ông lại tìm đến tận nhà Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục xin theo học(4).
Sau khi đã ra làm quan, ông còn tìm đến theo học Hoàng giáp Nguyễn Tông Quai ở
Phúc Khê(5).
Vũ
Huy Trác là người học giỏi, có chí và đức độ nên được tiến cử làm Thị nội thư tả
công phiên tùng giảng ứng vụ vào năm Tân Tỵ (1761). Năm Nhâm Ngọ (1762) ông được
thăng Binh bộ Tư vụ. Năm Giáp Thân (1764) ông được bổ làm Huấn đạo phủ Tiên
Hưng. Năm Mậu Tý (1768) ông làm Tri huyện Nam Chân. Tương truyền, thời gian làm
quan Tri huyện Nam Chân ông đã hết lòng giúp đỡ nhân dân nên được dân sở tại rất
yêu mến. Thấy ông hiếu học, ham đọc sách, nhân dân trong huyện đã góp tiền mua
một mảnh đất làm ngôi nhà ba gian khang trang ở khu đất Long Đàm để ông làm nơi
đọc sách. Nhưng ông chưa được ở ngôi nhà đó ngày nào thì phải chuyển đi làm
quan ở nơi khác.
Năm
Cảnh Hưng 33 đời Lê Hiển Tông khoa Nhâm Thìn (1772) Vũ Huy Trác đỗ Đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm Quý Tỵ (1773) ông được thăng Hàn lâm viện hiệu thảo.
Năm Giáp Ngọ (1774) ông làm Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoá. Cuối năm này ông lại
được đổi làm Hiến sát sứ Kinh Bắc. Năm 1776 ông làm Công khoa đô cấp sự trung.
Năm Đinh Dậu (1777) ông được đổi làm Tham chính Thanh Hoá. Năm 1779 ông làm Hiến
sát sứ Nghệ An. Ông tỏ ra là viên quan mẫu mực, có tài thu phục nhân tâm, được
triều đình tín nhiệm. Nhiều nơi ông đến nhậm chức được dân sở tại xin vẽ hình để
thờ phụng. Năm Quý Mão (1783) triều đình cử ông làm Tham chính Kinh Bắc. Năm
1784 ông được thăng Hàn lâm viện thị thư và làm Đốc trấn Lạng Sơn. Ông đã giải
quyết nhiều vụ tai ương thấu tình đạt lý, được nhân dân mến phục. Bằng tài đức
và tấm lòng chân thực yêu thương con người, ông còn cảm hoá quy tụ được dân
phiên mục. Năm Ất Tỵ (1785) ông lại được Triều đình triệu về kinh giao cho chức
Hàn lâm viện thị giảng (hàm tòng ngũ phẩm).
Ngày
2 tháng 12 năm Ất Tỵ (1785) thân mẫu ông qua đời. Ông được về quê chịu tang.
Tháng 6 năm 1786 Bắc Bình vương Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh. Vũ Huy
Trác đang cư tang mẹ ở quê thì được chiếu của vua Lê liền đến Nhĩ Độ theo việc
binh và được cử làm Giám quân đạo Sơn Nam. Ông có công giữ vững thành Vị Hoàng
(nay thuộc thành phố Nam Định), được vua Lê ban chức Hàn lâm viện Thị độc, tước
Côi Lĩnh bá. Năm 1788 ông về kinh nhận chức Lễ bộ Tả thị lang (hàng tam phẩm)
kiêm Quốc Tử giám Tư nghiệp.
Năm
Kỷ dậu (1789) kinh thành thất thủ, Quang Trung đại phá Quân Thanh, vua Lê chạy
đi Trung Quốc. Vũ Huy Trác theo vua Lê đến biên giới nhưng vua Lê dụ ông về quê
vì ông đã già yếu.
Sau
khi về trí sĩ ở quê, Vũ Huy Trác dạy học, làm vườn, làm thuốc chữa bệnh, làm
thơ, sống thanh đạm. Ông là một nhà giáo có nhiều học trò giỏi như Tri huyện
Chân Ninh Đặng Xưởng người làng Ninh Cường, Tri phủ Nghĩa Hưng Nguyễn Văn Tường…
Vũ
Huy Trác chẳng những hiếu thảo với cha mẹ mà còn có tình nghĩa với làng xóm.
Ông đã dành dụm tiền lương mua gỗ lim làm lại ngôi chùa làng Lộng Điền.
Ngày
3 tháng 10 năm 1793 Vũ Huy Trác tạ thế, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân
làng. Ông được táng ở sứ Hậu Đồng làng Vân Cù (nay thuộc huyện Nam Trực). Sau
khi mất ông được thờ phối tự với thành hoàng làng Lộng Điền.
Quan
Đông các hiệu thư Ngô Tiêm (1749 – 1818) người Cát Đằng (nay thuộc xã Yên Tiến,
huyện Ý Yên), đỗ Tiến sĩ năm 1779 đã làm câu đối viếng Vũ Huy Trác như sau:
Vị
giang nhất phiến cô trung, Gia Cát vị vong do thị Hán
Lão
bạ lục niên nhiêu hạng, Bá Di trung tử bất thần Chu.
Câu
đối lấy sự tích ở Trung Quốc ca ngợi Tiến sĩ Vũ Huy Trác tài đức như Gia Cát Lượng
thời Tam Quốc, trung quân như Bá Di thời Chiến Quốc vậy.
II – Một số giai thoại về Tiến
sĩ Vũ Huy Trác:
1 – Là thủy thần sông Hát:
Năm
Canh Tuất (1730) khắp vùng Đại An bị ngập lụt, dân tình khổ cực. Sáng ngày 6
tháng 5, ông lý trưởng Lộng Điền là Nguyễn Xuân Điệp lội nước ra chùa tìm gặp
ông tiên chỉ Trần Đức Huy để kể về giấc mơ đêm qua ông được thần linh báo mộng
là ngày mai con trai quan Huấn đạo Vũ Hưng Nhai ra đời nước sẽ rút hết. Con
trai quan Huấn Vũ là thuỷ thần sông Hát (sông Đáy). Ông Chánh tổng Hương khi biết
chuyện này liền sai lý Điệp và tiên chỉ Huy mang thủ lợn và gạo đến mừng quan
Huấn Vũ sinh quý tử. Sau khi con trai quan Huấn Vũ ra đời, được đặt tên là Vũ
Huy Trác thì nước bắt đầu rút xuống. Chuyện đến tai quan Tri phủ Nghĩa Hưng Lâm
Duy Hợp. Đích thân quan phủ cưỡi ngựa đến xem hư thực ra sao và sai người mang
ba thúng gạo đến nhà mừng quan Huấn Vũ.
(Theo Đại An huyện chí)
2 – Trị ma cây đa:
Tương
truyền hồi đó ở phía đông làng Lộng Điền, bên Cồn Chè có một cây đa cành lá xum
xuê che kín vài sào ruộng. Người trong làng đồn cây đa là nơi trú ngụ của ma quỷ.
Mùa hè nóng nực, ai đi qua mà ngồi nghỉ dưới gốc đa đều bị ốm, phải mang lễ vật
đến cúng tế mới khỏi. Súc vật đi qua gốc đa mà bậy ra thì thế nào cũng bị vật
chết. Chuyện về cây đa ma quỷ không biết đã xuất hiện từ khi nào làm nhiều người
rất sợ hãi. Một buổi chiều ngày rằm tháng Giêng, cậu học trò Vũ Huy Trác ở chùa
về nhà, ghé vào gốc đa tìm lá cối xay cho mẹ. Cậu Trác đã cùng bạn là Lê Văn Thảo
nối dây mơ trói gốc đa lại rồi dùng cành dâu làm roi đánh đủ 100 roi trị tội
cây đa ma quỷ. Ít lâu sau cây đa chết đứng. Dân làng kháo nhau cây đa ma quái
đã bị trò Vũ Huy Trác đánh chết rồi.
(Theo Đại An huyện
chí)
3 – Là con vua Thủy Tề:
Thật
trùng hợp là mỗi lần Tiến sĩ Vũ Huy Trác về thăm quê trời lại đổ mưa rào. Vì thế
dân địa phương cho rằng ông là con vua Thủy Tề giáng thế. Ông lại là người rất
giỏi chữa bệnh nên dân gian lan truyền tin ông là con vua Thủy Tề giáng thế. Một
lần có con bệnh làng bên ốm thập tử nhất sinh, đã chạy chữa nhiều nơi mà bệnh
tình không thuyên giàm, chỉ còn nằm chờ chết. Có người mách người nhà con bệnh
khênh bệnh nhân đến nhà Vũ Huy Trác xin cứu chữa. Vũ Huy Trác bắt mạch, kê đơn
bốc thuốc và viết một chữ son lên giấy rồi đốt hòa nước mưa cho con bệnh uống.
Sau một thời gian được Vũ Huy Trác chữa trị, con bệnh khỏi hẳn. Dân làng càng
tin ông là con vua Thủy Tề giáng thế và lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
4 – Đối đáp với sứ giả Tây Sơn:
Sau
khi bình định Bắc Hà, vua Quang Trung có chủ trương sử dụng những quan lại có
năng lực của nhà Lê. Xét thấy Vũ Huy Trác là vị quan nhà Lê có tư cách đạo đức
trong sáng và có tài thu phục nhân tâm, vua Quang Trung sai sứ giả về tận quê mời
ông ra làm quan với triều Tây Sơn. Nhưng ông mang nặng tư tưởng “Tôi trung
không thờ hai chúa”, cho rằng mình hưởng lộc nhà Lê mà lại ra giúp Tây Sơn thì
sẽ bị người đời chê cười nên ông đã từ chối, không ra làm quan nữa.
Khi
sứ giả Tây Sơn về quê mời Vũ Huy Trác ra làm quan với nhà Tây Sơn, ông viện cớ
mắt thong manh để từ chối. Sứ giả không tin, liền lấy cây kim nhọn bất ngờ dứ dứ
vào mắt ông. Thấy ông mắt không chớp, nét mặt vẫn bình thản, sứ giả liền đọc một
vế đối:
Con
ngươi lồng lộng trong như ngọc.
Ông
ứng khẩu đáp lại ngay:
Thằng
bé ngăm ngăm cứng tựa đanh.
Vế
đối của sứ giả thanh mà tục, tỏ ý xấc xược lại nhắc đến tên làng Lộng Điền của
Vũ Huy Trác. Vế đối của Vũ Huy Trác dùng chữ “nghiêm trang” nói đến tên làng
Ngăm của sứ giả (Vị sứ giả này là người làng Nghiêm Trang), cũng rất thanh mà rất
tục, tỏ rõ ý coi khinh sứ giả (coi vị sứ giả này cũng như… cái chim thằng bé mà
thôi). Vế đối của Vũ Huy Trác rất chuẩn, chữ đối chữ, ý đối ý làm sứ giả tím mặt
mà không chê vào đâu được. Sau sự kiện này, vua Quang Trung biết không thể thuyết
phục được Vũ Huy Trác nên đành cho biên tên ông vào sổ nhiêu lão và để yên cho
ông sống ở quê.
Dân
gian lưu truyền và nhiều sách ghi lại chuyện Vũ Huy Trác đối đáp với sứ giả Tây
Sơn như là một giai thoại xác nhận tài năng văn học của ông.
5 – Làm quan không sợ uy quyền:
Trong
cả cuộc đời làm quan, Vũ Huy Trác luôn giữ mình trong sạch, thanh liêm và cương
trực. Thời gian làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, ông đã sử nhiều vụ án rất nghiêm
minh, bênh vực người dân vô tội, trấn áp bọn quan lại và kẻ giàu có cậy quyền
thế hà hiếp nhân dân, được nhân dân hết lời ca ngợi. Vụ phạt Đặng Mộng Lân là một
trong những vụ án Vũ Huy Trác đã xử được nhân dân ca ngợi. Chuyện kể rằng:
Đặng
Thị Huệ người làng Phù Đổng, huyện Tiên Sơn, sứ Kinh Bắc là người có nhan sắc
nhưng vô cùng xảo quyệt và đầy tham vọng. Sau khi được tuyển làm cung nữ, thị
Huệ tìm mọi cách quyến rũ Thái tử Lê Duy Vĩ. Nhưng khi biết vua Lê không có thực
quyền, thị Huệ lại tìm cách chạy sang phủ chúa để quyến rũ Trịnh Sâm. Từ một
cung nữ, Đặng Thị Huệ trở thành Tuyên phi đầy quyền lực, được chúa Trịnh vô
cùng yêu chiều. Đặng Mộng Lân (thường gọi là Ba Trà) là em trai Đặng Thị Huệ,
đã ỷ thế của chị tha hồ tác oai tác quái, làm nhiều điều ngang ngược côn đồ mà
không ai giám trị tội. Khi Vũ Huy Trác về làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, có người
đánh bạo kêu lên ông là Ba Trà tự do giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ giữa
ban ngày, ai chống cự thì bị cắt vú sẻo tai… Nhân dân vô cùng căm phẫn nhưng
các quan sở tại đều phải làm ngơ vì sợ uy quyền nhà chúa. Vũ Huy Trác cho gọi Đặng
Mộng Lân đến công đường xét xử nhưng y không đến. Ông liền sai lính đến bắt giải
y tới công đường, kể tội và ra lệnh phạt 30 trượng rồi tống giam y vào ngục. Việc
đến tai nhà chúa, Tuyên phi vô cùng tức giận, nhưng chúa Trịnh đành phải làm
thinh vì biết Vũ Huy Trác là người cương trực. Vua Lê thì hết lời khen ngợi và
thưởng cho ông 500 quan tiền.
Làm
quan nghiêm minh, không sợ uy quyền, quyết giữ nghiêm phép nước như Vũ Huy Trác
là tấm gương sáng muôn đời.
III – Giang nam lão phố thi tập(6):
Sinh
thời Vũ Huy Trác làm nhiều thơ phú, nhất là giai đoạn từ sau khi ông về sống ở
quê nhưng không ghi lại thành tập nên ngày nay phần lớn đã bị thất lạc. Người học
trò của ông là Nguyễn Văn Tường đã sưu tầm được 50 bài, chép lại đặt tên là
Giang nam lão phố thi tập.
Thơ
Vũ Huy Trác bộc lộ tâm trạng yêu nước, thương dân, biết ơn công đức tiền nhân.
Ông khẳng định quan điểm sống của mình thật chí lý:
Vinh
vi ngưu mã thân tâm sỉ
Nhục
tác thần tiên miếu tự truyền.
(Thế nhân)
(Vinh
làm trâu ngựa thân thêm nhục
Nhục
được dân thờ lại hoá vinh).
Cuộc
đời ông đã hành động theo quan niệm sống ấy, tất cả vì dân. Bởi vậy, khi làm
quan cũng như khi về hưu, ông tự thấy mình “mái cỏ suy tư không vướng vít”,
“hành tàng đều không thẹn”.
Ông
viết một loạt bài về chủ đề danh nhân, di tích lịch sử của đất nước với thái độ
trân trọng, tự hào: Xuân nhật bái mộ tổ, Nhân quy ngoại tổ gia yết phúc thần miếu,
Hoà Lạc miếu, Hiến Nam Cần thôn Dương Hậu miếu, Nguyễn gia tam tướng, Hải Khẩu
tiên từ, Độc Cước từ sơn, Nham Sơn động, Tang lâm Thánh Mẫu từ, Dữ Từ Quán
Hoàng Tiến sĩ, Tạo sĩ công, Quá Phùng Vương từ, Triệu Vương miếu, Quá Phạm tổ từ,
Phạm công miếu, Đức Nhuệ công…
Trên
đường công cán, qua bến Kim Tông thuộc huyện Ý Yên, ông nhớ người họ Đặng thời
Trần từng có công bảo vệ và xây dựng vùng đất nơi đây qua bài Kim Tông cổ độ
(Kim Tông nơi bến sông xưa):
Trần
mạt Đặng công vi sự quốc
Thiên
sơn vạn thuỷ cảm ngôn nan
Phúc
Thành ngự tặc tiêu Nam sử
Già
cảng trừ Minh khứ vãn lan
Cổ
độ trúc đê tồn tự miếu
Thuỷ
thần thác tích ký từ nhan
Toán
lai chí kim tứ bách tải
Tư
đức hương yên bất cải quan.
(Trần
mạt Đặng công lo việc nước
Muôn
sông ngàn núi chẳng từ nan.
Phúc
Thành gặp giặc ghi Nam sử,
Cảng
Thái trừ Minh lớp sóng buông.
Ngăn
lũ đắp đê dân kể lại,
Thuỷ
thần mượn bóng đặt tên đền.
Bốn
trăm năm trải không thay đổi,
Nhang
khói ơn sâu mãi mãi bền).
Trước
cảnh một số di tích ghi công các tiền nhân bị bỏ hoang phế, ông lấy làm đau
lòng, như bài Lê sơn Lý Đại Thành từ (Đền thờ Lý Đại Thành ở núi Lê):
Mạc
thời đại tướng trấn biên cương
Hải
tặc văn thanh bất cảm đương
Cộng
đạo Nam nhân sùng tiết nghĩa
Như
hà hương hoả thái thê lương?
(Mạc
tướng biên cương từng trấn giữ
Nghe
danh giặc biển đã kinh hoàng
Người
Nam vốn trọng điều ân nghĩa
Sao
để nơi này lạnh khói hương?)
Ông
tỏ ra hài lòng trước việc nhân dân chăm sóc nơi tưởng niệm danh nhân, hoặc nhắc
nhở người sau phải nhớ công ơn của tiền nhân. Trong bài Hoà Lạc miếu ông ca ngợi
công tích đánh đuổi giặc phương Bắc dưới thời Trần của hai anh em được thờ làm
thành hoàng làng và nhắc nhở:
Ký
ngữ Nguyễn, Lê thị
Phụng
sự yếu tình thành.
(Nhắn
lời cho Lê, Nguyễn
Thờ
cúng phải chân thành).
Do
điều kiện lịch sử hạn chế, ông luôn tâm niệm quan điểm “Tôi trung không thờ hai
chúa”, cuối đời còn luyến tiếc nhà Lê:
Thân
cư giang chi nam
Tâm
tại giang chi bắc
(Giang
nam lão phố.)
(Thân
ở bên bờ nam
Tâm
lại bên bờ bắc).
Ông
thừa hiểu thời thế không thể đảo ngược bánh xe lịch sử, nhưng ông vẫn canh cánh
bên lòng nỗi luyến tiếc nhà Lê :
Lợi
độn binh gia nan dĩ vọng
Quân
thần nghĩa tụ huấn lương lân
(Tạc
nhật)
(Trông
thắng việc binh không thể được,
Dựng
cờ dấy nghĩa lại khó khăn).
Phong
tiền trà cúc phô xuân sắc
Thế
ngoại hương dân yếm cựu liêu
Thí
bốc hồi kinh chân bất vọng
Ỷ
lan song lý ức đan biều.
(Nhàn
ngâm)
(Trước
gió cúc trà khoe sắc mới
Ngoài
đời dân chúng chán vua quan
Về kinh ngày ấy dường không thể
Tựa
cửa người xưa vẫn nhớ mong).
Vũ
Huy Trác là một y sư có tiếng ở vùng đất Sơn Nam. Trong Giang nam lão phố thi tập
của ông có tới 18 bài thơ về các bài thuốc Nam. Ông rất trọng nghề y, coi người
làm cha làm mẹ biết nghề y là nhân từ, con cái biết nghề y là có hiếu:
Phụ
mẫu tri y khả dĩ từ
Nữ
nhi học dược hiếu tiên kỳ.
(Cha
mẹ biết y đáng gọi là từ
Con
gái học y là điều đầu tiên của hiếu).
Ông
tuyển chọn những bài thuốc Nam gia truyền đơn giản mà công hiệu, viết thành thơ
(Tác dược phương thi) để dạy học trò và cho nhân dân dễ nhớ:
Gia
truyền kinh nghiệm vi thi tụng
Gia
giảm tuỳ thời bất tận quy.
(Đem
các phương gia truyền viết thành thơ cho dễ nhớ,
Gia
giảm phải tuỳ thời mà vận dụng cũng không hết phép tắc).
Một
số bài “thơ thuốc” của ông như Nông nhân tứ thời cảm mạo phương, Giải thử
phương, ẩm thực phúc thống phương, Ngược tật phương, Phong thấp tửu, Sang độc
gia truyền phương, Trần bì phương… thường ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc,
dễ thực hành mà hiệu nghiệm, rất thuận lợi cho dân nghèo. Chẳng hạn bài Trị xà
giảo phương (Phương thuốc chữa rắn cắn) là một trong số đó:
Xà
giảo tầm thường chúng bất tri
Mã
đề lộ thượng chính kham y
Địa
dương khương thảo phù đao diệp
Khởi
tử hồi sinh lập khả kỳ.
(Rắn
cắn tầm thường mấy kẻ hay
Mã
đề trên lối đắp ăn ngay
Cỏ
gừng, cỏ may, bồ cu vẽ
Khởi
tử hồi sinh mới có ngày).
Hầu
hết các bài trong Giang nam lão phố là thơ Đường luật, chủ yếu là thất ngôn bát
cú và thất ngôn tứ tuyệt, còn ngũ ngôn bát cú chỉ có ba bài. Nói chung các bài
thơ Đường luật của “Thần phú Giác Trai” niêm luật chặt chẽ, đối chỉnh. Một vài
bài phá cách khá đẹp hoặc ở thể cổ phong phóng túng. Thơ Vũ Huy Trác ít dùng điển
cố, từ ngữ dễ hiểu, hình ảnh giản dị gần gũi với nhân dân, gây được cảm xúc thẩm
mỹ cho người đọc, đồng thời mang tính tư tưởng của tác giả rõ nét, như bài Giai
tiền thảo vịnh:
Trước
thềm dải cỏ sinh
Mây
tóc bốn mùa xanh
Củ
rễ dưỡng da, phế
Xinh
tươi đã rõ rành
Người
nằm trên chiếu nghỉ
Thịt
rượu dùng thường xuyên
Ngày
một thêm già yếu
Vô
tình việc nước non.
Đọc
Giang nam lão phố, phần nào ta hiểu được những suy tư tình cảm và tài năng văn
học của Tiến sĩ Vũ Huy Trác, một danh nhân của Nam Định địa linh nhân kiệt, tác
gia Hán Nôm tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu Bắc Hà thời Hậu Lê, ta thêm tự hào về
truyền thống cha ông. Đặc biệt, đối với bạn đọc yêu mến thơ Đường luật, Giang
nam lão phố thi tập là tài liệu tham khảo bổ ích.
Mùa
Đông năm 2008
TMG
………………..
Chú Thích:
(1)
Phan Kính (1715 – 1761) người xã Lai Thạch, huyện La Sơn nay thuộc xã Song Lộc,
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Thám hoa năm 1743, làm quan đến Đốc đồng Tuyên
Quang, có tập Dĩ Trực thi tập để lại ở đời.
(2)
Trần Văn Trứ (1716 – ?) người xã Từ Ô, huyện Thanh Miện nay thuộc xã Tân Trào,
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1743, làm quan đến Hàn
lâm viện Đãi chế, Thự Thiêm đô ngự sử kiêm Quốc tử giám Trực giảng.
(3)
Hà Tông Huân (1697 – 1766) người xã Kim Vực, huyện Yên Định nay thuộc huyện Thiệu
Yên, tỉnh Thanh Hoá. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1724, làm quan đến Tham tụng, Binh bộ
Thượng thư. Ông nổi tiếng là bậc tôn sư, đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt cao.
(4)
Đoàn Nguyễn Thục trước tên là Đoàn Duy Tĩnh (1728 – 1783) người xã Hải An, huyện
Quỳnh Côi nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ
Hoàng giáp năm 1752, làm quan đến Phó đô ngự sử.
(5)
Nguyễn Tông Quai (1693 – 1767) người xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên nay thuộc xã
Hiệp Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Hội nguyên Hoàng giáp khoa Tân
Sửu (1721), làm quan đến Hộ bộ Tả thị lang, tước Ngọ Đình hầu.
(6)
Các trích dẫn thơ trong bài theo bản dịch của nhóm Dương Văn Vượng, Trần Mỹ Giống,
Hoàng Dương Chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét