(Bộ sách viết về cội nguồn nhà Lý)
Bài
1 Tên Làng Đình Bảng
Bài
2 Rừng Báng
Bài
3 Sông Tiêu Tương
Bài
4 THIỀN SƯ VẠN HẠNH
Bài
5 VẠN HẠNH VÀ PHẠM THỊ
Bài
6 TIÊU SƠN TỰ
Bài
7 CHÙA CỔ PHÁP
Bài
8 VẠN HẠNH & ĐA BẢO
Bài
9 VẠN HẠNH & LÝ CÔNG UẨN
Bài
10 CHIẾU DỜI ĐÔ (1010)
và
BÀI NGỰ CHẾ BI KÝ (1018) của LÝ THÁI TỔ (bản dịch)
Bài
11 VẠN HẠNH và BÀI KỆ "THỊ ĐỆ TỬ"
MẤY NÉT VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN KHÔI
Sinh
1938,quê Phường Đình Bảng,thị xã Từ Sơn,tỉnh Bắc Ninh.
-
NR: 259/39 phố Vọng-Hà Nội.
-
Hội Viên Hội Nhà Văn Hà nội
-
UV BCH Hội Văn nghệ Dân Gian Hà Nội
-
UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu Số VN (Khóa 2)
Chuyên
Viên Cao Cấp,nguyên Phó Vụ Trưởng Văn Phòng Quốc Hội Việt Nam
Tác
phẩm đã xất bản :
-
Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn học 1995,vhtt2000
-
Gửi Mường Bản xa xăm(thơ)nxb vhdt1998-Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.
-
Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài)nxb vhdt 2005
-
Bắc Ninh thi thoại(biên khảo)đã tái bản lần thứ 3.
-
Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo)nxb vhdt 2006.
-Cổ
Pháp cố sự-4 tập,920 trang nxb vhdt ,viết về cội nguồn Nhà Lý.
-
Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000(nxb lao động);tuyển tập thơ Việt
Nam 1975-2000,nxb Hội Nhà Văn;tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb Giáo dục1998;tuyển
tập thơ Việt Nam thế kỷ 20(nxb giáo dục-2005) . . .
Dịch
thuật :
-
Sống chụ son sao (tiễn dặn người yêu)-truyện thơ dân tộc Thái
-
Tiếng hát làm dâu(dân ca Hmômg) . . .
Giải
thưởng :
-
Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,bài thơ " Về Hà Nội".
-
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Thủ Đô 2008 cho Bộ Sử Làng Cổ Pháp Cố Sự.
Bài
1: TÊN LÀNG ĐÌNH BẢNG
(Cổ
pháp cố hương)
Đình
Bảng là một làng ven Đô, cách trung tâm Hà Nội 15 km trên Quốc lộ 1A đi Lạng
Sơn; hiện nay là phường Đình Bảng, trung tâm của thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh. Diện tích tự nhiên 852ha, dân số tới
1-4-1999 là 13. 626 người với 3. 432 hộ tại quê( chưa kể đến mấy nghìn người đi
lập nghiệp nơi xa)
Thầy
tôi kể rằng: "Làng ta cùng thời với làng Phù Đổng (Gióng) là xứ địa linh
nhân kiệt "tam Cổ ngũ Phù" (thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ
Pháp- Phù Lưu, Phù Đổng, Phù Chẩn, Phù Ninh, Phù Khê) - đất đế
vương". Đây là một vùng có nhiều hồ,
đầm lầy, sông Tiêu Tương uốn khúc quanh co, thế đất mang hình con nhện: có đường
(dải đất cao) có dộc (dải đất thấp) xòe ra như 9 cánh hoa sen. Đó là huyệt đất quý, phát tích đế vương - ứng
với 9 vua nhà Lý, hưng thịnh kéo dài tới 216 năm(1009-1225, thực quyền là 214
năm ứng với 214 chữ trong Chiếu dời Đô của Đức Lý Thái Tổ) .
Làng tạo lập trên các gò đồi, dải đất cao bên
bờ sông Tiêu Tương, xung quanh là rừng rậm um tùm cây cối. Trong rừng có nhiều cây Búng Báng (bột trong
ruột có thể làm bánh ăn được)- do đó có tên Nôm của làng là Kẻ Báng, được áp
sang tên chữ Hán là Dịch Bảng. Thời Bắc
thuộc làng thuộc bộ Vũ Ninh và có tên là Hương (Xã) Diên Uẩn (Diên là dọc theo
bờ nước, Uẩn là sâu kín, uẩn khúc) đến đời nhà Đường, vào khoảng năm Ất Sửu(785)
trưởng lão của làng là Thiền sư Định Không (họ Lý) đổi tên là Hương Cổ Pháp.
Sự
tích kể rằng vào khoảng đời Đường Trinh Nguyên (785 - 804). Sư Định Không dựng chùa Quỳnh Lâm ở làng mình
(đến đời Tiền Lê gọi là chùa Lục Tổ, nay là chùa Kim Đài ở xóm chùa, xã Đình Bảng). Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và
mười cái khánh. Sư sai người đem xuống
sông Tiêu Tương ở trước cửa chùa rửa. Vô
ý hay ngẫu nhiên để tuột tay: một cái nặn mất, đến đáy sông mới dừng. Sư cho đó là điềm lạ, Sư giải thích rằng: chữ
thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ, chữ thủy chữ khứ hợp thành chữ pháp, thổ là bản
thổ chỉ nơi ta ở. Nhân đó Sư đổi tên
làng mình là làng Cổ Pháp.
Đổi
xong tên làng Sư còn làm một bài tụng:
Đất
trình pháp khí
Một
món đồng ròng
Để
Phật pháp được hưng long
Đặt
tên là Cổ Pháp
(Điạ
trình pháp khí
Nhất
phẩm tinh đồng
Trí
phật pháp chi hưng long
Lập
hương danh chi Cổ Pháp).
Sư
lại nói :
Hiện
ra pháp khí
Mười
khẩu chuông đồng
Họ
Lý hưng Vương
Ba
phẩm thành công.
(Pháp
khí xuất hiện
Thập
khẩu đồng chung
Tính
Lý hưng Vương
Tam
phẩm thành công).
Sư
lại nói:
Mười
khẩu xuống nước đất
Cổ
Pháp ấy tên làng
Gà
sau tháng chuột ở
Chính
lúc tam bảo hưng
(Thập
khẩu thủy thổ khứ
Cổ
Pháp danh hương hiệu
Kê
cư thử nguyệt hậu
Chính
thị hưng tam bảo.
Đây
là ba bài "tụng" của Sư Định Không, một loại sấm vĩ tiên tri (dự báo ứng
với 200 năm sau với Thiền Sư Vạn Hạnh và Thân Vệ Lý Công Uẩn): đất Cổ Pháp sẽ
cho ra đời một bậc anh hùng họ Lý làm cho Phật Pháp hưng thịnh (Quốc đạo).
Tên
Đình Bảng (có nghĩa là "Làng Báng Lớn" - tiếng địa
phương"Đình" là to lớn: cái nồi đình, chuyện tày đình, làng Dương Lôi
tên Nôm là "Đình Sấm" do cây gạo ở đó bị sét đánh có tiếng sấm lớn). Tên Đình Bảng được sử sách chép đầu tiên là
vào năm 1362 đời Trần Dụ Tông. Ở Cổ Pháp
xưa có Cự Tộc Lý với nhiều thế hệ Thiền Sư nổi tiếng. Đó là những trí thức cao cấp của thời đại. Họ tập hợp dưới ngọn cờ Phật giáo, những người
dân yêu nước chuẩn bị chắc chắn trong ý thức mọi người về một triều đại của một
quốc gia độc lập, thịnh trị, do dòng họ mình (Lý) sáng lập ra.
VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ - XÃ HỘI CỦA
CỔ PHÁP
Làng
Dịch Bảng (kẻ Báng) thời đó nằm trên ngã ba sông, là nơi giao lưu kinh tế văn
hóa thuận tiện, năm trung độ giữa Cổ Loa, Đại La và Luy Lâu(Sở lỵ của quận Giao
Chỉ) - đó là cái may ở cái "thế đất" "Đông Ngạn Tĩnh Nhất
Khu" (Sấm Vĩ) - Chữ "Tĩnh" (còn có thể đọc là "tịnh")
- có nghĩa là "lặng" là "yên ổn", ngẫm xem lại xưa nay thấy
khá đúng, vì nơi đây chưa bao giờ là thành trì, Sở lỵ, là trung tâm hành chính-
chính trị, để nhận chịu sự đánh phá, chà sát và xáo động cùng di động dân cư
như vùng Cổ Loa, Đại La. Chính nhờ đó mà không bị sự áp chế trực tiếp về chính
trị và sự đồng hóa cưỡng bức về văn hóa nặng nề như vùng Luy Lâu thời Bắc thuộc;
tuy thế nhưng Cổ Pháp lại không phải là một miền quê hẻo lánh, đó là làng chợ(Hương
thị, thị thôn) luôn là một vùng hướng ngoại có độ mở lớn, là vùng giao lưu văn
hóa- kinh tế sống động, một vùng gioa thoa kinh tế điển hình. Các vị Thiền Sư ở đây là những người có học
(đại trí thức đương thời) họ không thuộc về giai tầng thống trị và theo đuôi
chính quyền đô hộ. Họ ở một vùng kinh tế - văn hóa đủ xa (cách ly) với chính
quyền đô hộ và đủ gần sự tiến bộ xã hội để xây dựng Lục Tổ - Cổ Pháp thành một
trung tâm, xây dựng ý thức độc lập quốc gia vào cuối thời Bắc thuộc (Và cho cả
đến gần đây, thời ky 1940 - 1945 Đình Bảng là "lũy thép" căn cứ địa của
Đảng Cộng Sản ở ngay sát nách Thủ Đô.
Theo
Giáo sư Trần Quốc Vượng thì trong bối cảnh xã hội nước ta thời đó (Bắc thuộc),
ông cha ta đã không khéo thực hành Chính Pháp (Phật) và bằng Pháp (Sấm Vĩ),
phong thủy tuy vẫn là "duy tâm" mê tín (ở trình độ dân trí thời đó)
nhưng lại toát lên một tinh thần yêu làng, yêu nước, đã góp phần quan trọng vào
công cuộc xây dựng ý thức dân chúng về một vùng tự trị (căn cứ địa) do họ Lý dẫn
đường để rồi sẽ có một quốc gia độc lập "nhà nước có chủ quyền" Vua
ta cai trị nước ta, do họ Lý làm Hoàng Đế.
Hậu
duệ của Sư Định Không là Thiền Sư Vạn Hạnh cùng các vị tiền bối đã thực sự là
cha đẻ, cha nuôi, cha tinh thần của Lý Công Uẩn- chàng trai kẻ Báng (ông họ Lý
người làng Diên Uẩn) với khiếu thông minh bẩm sinh đã được nhập thân văn hóa của
một vùng địa linh nhân kiệt (đất Cổ sinh Vua, đất Phù sinh Thánh).
Lý
Thân Vệ (rồi là Lý Thuận Thiên- Lý Thái Tổ) là người con ưu tú của trung tâm
kinh tế- văn hóa Cổ Pháp thế kỷ thứ 10 và ông cùng Vương Triều Lý làm rạng danh
muôn đời cho Cổ Pháp Cố Hương thân yêu của chúng ta.
Đính
Chính :
Nặn
= Lặn; Gioa thoa = giao thoa; Không khéo= khôn khéo.
Bài 2: RỪNG BÁNG
(Cổ
Pháp lâm)
Già
làng bảo: huyện ta xưa là huyện Đông Ngạn (bờ phía đông sông Thiên Đức). Sông Thiên Đức tên Nôm là sông Đuống, gọi trệch
từ chữ "Luống" (tiếng Tày Thái cổ là Nậm Luông, là sông lớn). Người vùng ta quen gọi sông Hồng là sông Cái
(mẹ), sông Đuống là sông Con. Xưa kia
vùng ta là vịnh Bắc Bộ, Nhờ phù sa sông Hồng bồi đắp mà có cả một trung châu đất
mật lúa vàng nuôi sống cho dân mình phát triển, nam tiến mở mang bờ cõi. Vùng ta xưa la vùng đầm lầy ao hồ bến nước, rừng
rậm um tùm. Ngày trước toàn bộ đất làng
nhà rộng tới trên 2000 mẫu, trong đó rừng chiếm 4/5 và ngót 100 mẫu đầm hồ ao
sông ngòi. Trong rừng có nhiều cây tạp,
cây Búng Báng, củ mài (Hoài Sơn rừng Báng nổi tiếng đặc sản quý tiến Vua) cùng
các thứ chim muông cầy cáo.
Đến
nay nhiều địa danh ở rừng Báng còn mang dấu tích của một thời xa xưa như: cánh
đồng gà, đồng ngựa, đồng khuổi, đồng rĩa, đồng trầm, đường Thăn sắt, bãi Sim,
bãi Chanh, bãi Găng . . . ở cổng sông Ngò, trên có ghi 3 chữ "đại tự":
"Nam phong huân" (gió nam tốt lành).
Hai cột trụ có ghi 2 câu đối:
Hãn ngoại Tiêu Tương lai dẫn thủy
Điền tiền Cổ Pháp đắc lâm sơn
nghĩa
là:
ngăn phía ngoài có sông Tiêu Tương dẫn
nước
ngoành trước mặt có rừng Cổ Pháp đẹp
thay.
Tiến
sĩ Hoàng Văn Hòe, người làng Phù Lưu, là một tướng nhà Nguyễn kiên quyết chống
Pháp, trước khi vào Thanh Hóa tử chiến với quân địch, ông về thăm quê, dạo chơi
trong rừng Báng, đã sáng tác bài thơ"Cổ Pháp Lâm Hành"(Đi trong rừng
Cổ Pháp), xin tạm dịch:
Sớm trong rừng tiễn bước nhanh
Bụi trần rửa sạch lòng xanh trong ngần
Gió ru ran tiếng chim ngân
Chiều buông còn nắng long lanh trên
cành
Tiều phu ngang dọc thông thênh
Kể chi thằng nhỏ ngang mình túi đeo
Ai hay cô tịch bám theo
Có chăng là đám mây gieo chút tình
(Lý Thanh - dịch)
Đến
hồi thực dân Pháp mới sang xâm lược nước ta, thời vua Khải Định, tên tư bản
Pháp là Gôbe và Tổng đốc Bắc Ninh là Lê Hoan có âm mưu " mua" rừng
Báng để lập đồn điền, dân làng không chịu, Lê Hoan dọa :"rừng Báng um tùm
là nơi giặc Đề Thám, giặc Bãi Sậy dễ về ẩn náu, phải phá, không kẻ nào được
ngăn cản". Làng nhà bầy giờ có cụ
Nguyễn Tiến Giang, làm ở toà Sứ có hàm tước "hồng lô tự khanh" (Chánh
tứ phẩm- nên gọi là cụ Hồng) đã khôn khéo nhanh tay xin cho dân làng phá rừng
Báng làm ruộng, hạn trong 2 năm không xong thì phải để cho tên Gôbe được lập đồn
điền. Cụ Hồng cùng bô lão, chức dịch của
làng đã hô hào động viên bà con trong làng bỏ hết sức ra khai phá rừng làm ruộng
(đốn hết cây vào năm 1904). Ai khai phá được bao nhiêu thì cho quyền sử dụng đất
trong vòng 3 đến 5 năm không phải nộp thuế.
Nhờ đó mà 1600 mẫu rừng thành 1600 mẫu ruộng tốt. Số ruộng này sau được
chuyển thành công điền. Với lệ làng ở
Đình Bảng nếu là con trai: từ 18 tuổi trở lên thì được chia 5 sào ruộng công để
canh tác, nhà có 4 con trai thì được 2 mẫu, cấy hài thừa ăn(do vậy con trai ở
Đình Bảng có giá trị là thế) đến khi lên lão 60 tuổi thì các cụ được ưu tiên hưởng
3 sào 5 thước ruộng thượng đẳng điền. Cứ
3 năm một lần, làng tổ chức"bốc thăm ở ngoài Đình để cha con nhận phần ruộng
công tiêu chuẩn của người trai Đình Bảng.
Sồ
1600 mẫu ruộng công (rừng Báng cũ) đến thời cụ Tham Lai làm Tiên Chỉ đã cho đạc
điền chia mẫu kẻ ô vuông vức có đóng cọc mốc, đánh theo chữ cái và số: trên bản
đồ địa chính như thực địa là rất khoa học, dễ quản lý theo dõi. Số ruộng tư điền của cả làng có 360 mẫu, nhiều
thửa là ruộng xâm canh do các nhà buôn giàu có người làng mua làm tư điền sang mãi
giáp lũy tre các làng Trịnh Xá, Sặt Bính, Phù Ninh, Phù Chẩn. . .
Đình
Bảng là làng nghề, làng buôn. . . ít gia
đình chuyên nông tang (thu nhập nghề nông thường chỉ chiếm 10 đến 15%) do đó ruộng
của các gia đình thường cho thiên hạ cấy rẽ (một kiểu phát canh thu tô) hoặc
thuê người làm. Ở Đình Bảng đàn ông biết
cày bừa là để trông coi thợ làm thuê, ít trực tiếp cày bừa, phụ nữ sinh con thì
đem mướn nuôi:
Anh về vui với cày bừa
Để em tay nải gió đưa
phương trời.
Chạy chợ, đi buôn ít ai biết
cấy hái là vậy.
Sông
cũ (Tiêu Tương) rừng xưa (rừng Báng) rày đã nên đồng. . . qua bao thời gian biến thiên của lịch sử, đến
nay cảnh quan đã thay đổi hẳn rồi. Với hồn quê bảng lảng, tác giả đi giữa làng
mà cảm tác:
Mình
ra ngõ Cả hóng Tiêu Tương
Cười
nói mà vương một chút buồn.
Hồn
xưa, làng Cổ. . . đâu kẻ Báng?
Rừng
đã về trời vọng cố hương.
Bài 3 : SÔNG TIÊU TƯƠNG
Đó
là dòng sông cổ tích, dòng sông huyền thoại của :
Ngày
xưa có anh Trương Chi
Người
thì thậm xấu, hát thì thậm hay
Cô
Mỵ Nương ở Lầu Tây
Con
quan Thừa Tướng ngày ngày cấm cung
Trương
Chi chở đò ngoài sông
Cất
lên tiếng hát động lòng Mỵ Nương. . .
Lầu
Tây ở trên đồi Hồng Vân (Lim). Để tưởng
nhớ mối tình "tiếng hát trái tim" này, hàng năm cứ đến ngày 13 tháng
giêng trai gái trong vùng trẩy hội về đây hát giao duyên Quan họ. Với cảm hứng "ai về Kinh Bắc" - nhạc
sỹ Văn Cao đã sáng tác bài "Trương Chi" réo rắt bổng trầm bất hủ.
Thông Đạt thì cất cao tiếng hát "ai có về bên bến sông Tương, nhắn người
em gái tôi thương. . . ".
Với
năm tháng thời gian cứ kéo dài như không bao giờ hết. . . Đến nay còn xao xuyến
bao lòng người con Kinh Bắc. Làng Cổ
Pháp xưa nằm ngay bên bờ sông Tiêu Tương.
Vua Lý từ Thăng Long về bằng thuyền rồng qua nẻo cửa sông Đuống(chỗ Gia
Quất - Gia Lâm) rồi vào các con ngòi nhỏ qua vùng Cói, Yên Thường tới Cổ Pháp.
. . Sông Đuống xưa còn nhỏ cỡ con ngòi
(sau này được Nguyễn Công Trứ một lần và Nguyễn Tư Giản một lần- là Doanh Điền
Sứ đã cho đào to, mở rộng như ngày nay) theo ý một vài vị cố lão thì địa lý cổ
sông Đuống là Minh Đường của một tổ nhà Lý" bát diệp liên hoa" (tám
cánh hoa sen) ở trong rừng Báng. Tương
truyền xưa vua Lý Thánh Tông thường đi thuyền rồng từ quê theo sông Tiêu Tương
lên chùa trên núi Phật Tích (Tiên Du) nghỉ mát và đọc kinh vào mùa hè. Những địa danh núi Tiêu, xã Vân Tương, những
khúc sông ở Đình Bảng, Nuốn, Phù Lưu sang tới Yên Phong, Quế Dương đổ vào sông
Cầu (Nguyệt Đức) là dấu vết của sông Tiêu Tương thơ mộng ngàn xưa. Ngày nay, với ý định khơi lại sông Tiêu Tương
từ đầm Phù Lưu qua Đền Đô (Đình Bảng) ra tới Trịnh Xá đổ vào sông Ngũ Huyện
Khê. . . nếu thành hiện thực là ta đã
khơi dậy sự trở lại với cội nguồn: lối xưa Vua Lý đi về. . . để câu Quan họ xanh dòng Tiêu Tương. Từ hồi còn đi học, tôi rất thích chùm
thơ"Tiêu Tương bát cảnh" truyền đời của Tiến sỹ Nguyễn Xung Ý người
làng Kim Đôi (Quế Võ) một trong nhị thập bát tú "Hội tao đàn" của Vua
Lê Thánh Tông (1442-1497) tuy là mượn thể thơ Tàu, nhưng đó là thơ Quốc Âm, rất
Việt Nam:
.
. . Pha khói chim về cây điểm phấn
Quáng
dòng cá hớp nước tuôn la
Có
người đợi nguyệt trèo khoang gác
Nước
Thương Lang một tiếng ca
(Bóng
chiều rọi thôn chài)
lại
nhớ câu Kiều:
Mành
Tương phân phất gió đàn
Hương
gây mùi nhớ, trà khan giọng tình
thì
lại thấy: thời xưa ấy Nguyễn Du đã bao lần lội qua sông Tiêu Tương về thăm quê
mẹ ở làng Hoa Thiều (Từ Sơn).
Với
chàng Phạm Thái (thời Lê mạt) thì Tiêu Sơn cổ tự soi bóng xuống dòng Tiêu Tương
đã cho thi sỹ cất cánh hồn thơ viết những cẫu thơ tình đầu tiên của Việt Nam:
Trăng
soi vằng vặc vóc non mờ
Lan
thoảng hương đưa
Cúc
thoảng hương đưa
Trời
in một sắc nước xanh lơ
Oanh
nói u ơ
Yến
nói u ơ
Cánh
buồn chở nguyệt gió lay sơ
Lốm
đốm sau thưa
Phấp
phới sương thưa
Chinh
nhân thổi địch (sáo) ơ hờ
Thiều
nhạc không xa
Hoan
hội không xa
.
. . Thấp thoáng oanh thoi dệt liễu
Thung
thăng phấn bướm dồi mai
.
. . Mai ủ hình thơ
Trúc
ủ hình thơ. . .
Với
tôi, sông Tiêu Tương ở ngoài cổng sông Vớt (xóm Bà La- Đình Bảng) vớt xác
Trương Chi hay vớt hồn ai là cả tuổi thơ đầy chất quê mơ mộng, diệu huyền. Đó là những chiều hè, tôi cùng lũ bạn nhỏ
chăn trâu bơi lội trên sông. Đó là những
đêm Trung thu ngồi trên thành cống cổng sông Vớt lắng nghe tiếng sáo diều vi vu
lưng trời thả hồn người tới dặm cao xanh.
Đó là những đêm chống hạn, tát nước cùng người bạn gái "múc ánh
trăng vàng đổ đi. . . "
Nơi
ấy có những con cò lặn lội, những cánh cò bồng bế nhau đi, những đàn chim ngói
chở heo may về, những đám lục bình trôi nổi với những chùm hoa tím ngát. Sông là lòng quê, tình quê chở đầy ắp hồn
làng. . . Để ai đó có xa nhau thì có lúc
bất chợt nảy trong đầu cái câu:
Sông
Tương một dải nông sờ
Bên
trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Như
một lời hẹn ước xa mờ. . .
Bài 4: THIỀN SƯ VẠN HẠNH
Thiền
Sư Vạn Hạnh là pháp danh (tên hiệu đặt khi xuất gia , còn tên tục là Lý Khánh Vạn
(người đời suy tôn la Thánh Vạn ), em trai là Lý Khánh Van . . Sinh trưởng
trongcự tộc Lý ở kẻ Báng (Dịch Bảng) - một gia đình thuộc diện " Danh Gia
Vong Tộc " nhiều đời thờ Phật. Thuở
nhỏ , Vạn Hạnh đã thể hiện là một tràng trai kẻ báng khác thường , học hành
thông minh tiến tới , gồm thông ba học (giới- định - tuệ), nghiên cứu trăm luận
, xem thường công danh . Năm 21 tuổi xuất
gia ( vào khoảng năm quý sửu- 953 đời Hán Ân đế, thời Đinh Bộ Lĩnh mới khởi
binh ở Hoa Lư , đang là triều Ngô do anh em Ngô Xương Văn , Ngô Xương Ngập trị
vì ) Vạn Hạnh cùng với Sư Đinh Hụê ( họ Khúc quê ở Cảm Điền - Phong Châu ) thờ
Thiền Ông ở chùa Lục Tổ trong làng hầu hạ Thầy . Trong mọi lúc hầu hạ Thầy , Sư tranh thủ học
tập quên cả mệt mỏi . Sau khi Thiền Ông
mất (năm 979) , Sư chuyên tập môn " tổng chì tam ma địa " lấy đó làm
việc riêng của minh . Bấy giờ Sư nói ra
lời nào tất đều là phù sấm ( tiên tri) đối với thiên hạ . Thiền Sư Lý Khánh Văn trụ trì chùa Cổ Pháp (
chùa Dận), còn Thiền Sư Van Hạnh ở chùa Tiêu ( con gọi là chùa Trương Liêu ,
chùa Thiên Tam , Tiêu Sơn tự hay chùa Ba Sơn -trên núi Tiêu, làng Tiêu ( này là
xã Tương Giang ) , cũng là nơi Phạm Thị (sau khi ra Lý Công Uẩn , làm Thủ Hộ )
. Sinh thời , sư Vạn Hạnh cùng với Khuông
Việt Đại Sư (Ngô Chân Lưu - 933- 1011) là những vị tăng thống được vua Lê Đại
Hành kính trọng . Nhà vua coi các vị là
Quốc Sư. Năm Thiên phúc thứ nhất (981) Hầu
Nhân Bảo của nước Tống đem quân sang xâm lược nước ta , đóng quân ở Cương Giáp
(Lạng Sơn) Vua mời Sư Vạn Hạnh đến đem chuyện thắng bại ra hỏi . Sư đáp " trong ba bảy ngày thì giặc phải
lui".
Sau
quả nhiên thư thế . Vua muốn đi đánh
Chiêm Thành , cùng triều thần bàn bạc mà chưa quyết , Sư tâu Vua xin hãy cấp tốc
xuất quân , không để lỡ cơ hội . Sau
đánh quả nhiên toàn thắng .
Qua
những tiên đoán , tham gia ý kiến để Nhà Vua ( Lê Hoàn ) tin tưởng ra quyết tâm
quyết chiến với quân giặc . Sư Vạn Hạnh
đã chứng tỏ vai trò Quốc Sư tài ba nỗi lạc của Triều Đinh Tiền Lê, được Vua tin
cậy và kính trọng . Về mặt chính trị xã
hội , Sư Vạn Hạnh đã "cố vấn" cho Vua về hoạt động Phật giáo (Quốc
giáo) như gửi thư cho nhà nhà Tống xin " Đại Tạng kinh " nhằm tăng cường
độ giao hảo giữa hai nước, đáp ứng yêu cầu học tập nghiên cứu của Phật tử ở nước
ta lúc bấy giờ .
Về
việc xuất gia , chọn cửa thiền ở tuổi 21 Sư thuộc dòng thứ 10 của Thiền phái Tì
Ni Đa Lưu chi mà Sư Pháp Thuận (925-990) đã từng giữ một vai trò quan trọng
trong việc củng cố phát triển chính quyền cho Vua Lê Đại Hành ; Sư Vạn Hạnh
cũng đã tiếp tay cho Pháp Thuận trong việc nay .
Đó
là cái tâm cảnh hay công nghiệp của thời đại mà Vạn Hạnh đã lớn lên . Tâm cảnh của một đất nước sôi động , bức bối
vì ngoại bang đô hộ áp bức , vì những biến tướng quá độ của một dân tộc (bị cát
cứ chia rẽ) đang chuyển mình để thống nhất , độc lập tự chủ , vì những quyêt
tâm công sức cho Đạo Pháp và thế nhân theo truyền thông tu tập của dòng Thiên
Tì ni Đa lưu chi .
Dòng
Thiền này do Thiền Sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) thành lập.
Sư
tu ở Chùa Pháp Vân (chùa Dâu ở Thụận Thành), người nước Ô trượng của Bắc Thiên
Trúc ( Ân Độ xưa ) dòng Bà nam môn . Từ
nhỏ Sư đã mang chí xuất tục đi khắp Tây Trúc cầu tâm ấn Phật . Nhân duyên đạo chưa gặp , bèn cầm gậy sang
đông nam . Năm Giáp Ngọ ( 574) Sư đến
Trường An ( Trung Quốc) , đúng lúc Phật Giáo ở đây bị đàn áp nặng nề (Pháp nạn
3 năm 574- 577) Sư phải lánh nạn sang đất Nghiệp để xin thọ giáo Đệ Tam Tổ Tăng
Xán . Tổ dạy " người nên qua phương
nam giao hoa , không nên ở đây lâu " .
Sư từ biệt về Quảng Châu ở chùa Chế Chỉ dịch kinh Phật sau 6 năm ( Kinh
Tông Trì) đến năm 580 thì Sư sang nước ta ở chùa Pháp Vân .
Một
hôm Sư gọi đệ tử Pháp Hiền ( ?-626) ở chùa Chúng Thiện ( xã Phât Tích , Tiên Du
) dạy rằng :
Tâm ấn chư Phật :
Tất không lứa dối
Tròn đông Thái Hư
Không thiếu không dư
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên
Nên giả đặt tên
Bỉ thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ Sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tinh
Cũng dùng như thế mà được
Vả , Tổ ta Xán Công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên ở lại đây lâu (Trung Quốc)
Từng Trải nhiều nơi
Mói đến được đây (Viêt Nam)
Nay gặp được người ( Pháp Hiền)
Quả gặp Huyền Ký
Người khéo giữ gìn
Giờ đi ( Tịch ) của ta đã đến
Nói
xong Sư chắp tay mà mất . Pháp Hiền làm
lễ Trà Tỷ , thu Xá lợi , xây tháp để thờ ( năm 594) sau này Vua Lý Thái Tông có
làm bài kệ truy tán :
Mở lối sang nước Nam
Nghe Sư giỏi tập Thiền
Mở bày niêm tin Phật
Xa hợp môt nguồn tim
Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen bát nhã ngát thơm
Bao giờ được gặp mặt
Cung nhau bàn đạo huyền
Và
nhà Vua đã phong tặng cho Sư .
Tư
tưởng của Thiền Tông có thể nói gọn là : " Phật ở trong tâm moi người. Sùng bái giữ giới , khổ hạnh , học vấn , cầu
kinh ( nếu chỉ có vậy) thì không có nghĩa ly gì cả . Phải đạt tới GIÁC NGỘ mới là mục đích tối thượng
của Phật Tử -đạt được GIÁC NGỘ là PHẬT .
Tâm là Phật và Phật chính là Tâm .
Tâm an Tĩnh . đó là Niết bàn
. Thiền là con đường duy nhất dẫn đến
giác ngộ . Thiền không có nghĩa là suy
tưởng ; Thiền là thấu đạt chính Phật tính nơi mình ". Sư Tổ đã từng dạy : "Tự thân mê lầm thì
chúng sinh tức là Bố Tát , khi tự thân Giác Ngộ thì Bồ Tát là chúng sinh . Mà xưa nay Sư Tổ đem Y Pháp cùng Tăng Pháp
phó truyền cho đệ tử thì Pháp là dùng Tâm truyền tâm , điều khiển tự ngộ , tự
giải . Từ xưa chư Phật chỉ truyền bản thể
, chư tông Sư mật trao bản Tâm , cho nên mới nói ;" Cái Tâm không tín chấp
vào đâu cả ".
Vạn
Hạnh xuất gia đã vào tuổi trưởng thành , quyết định chọn con đường Phật Giáo của
thời đại ma dấn thân . Có thể nói , Vạn Hạnh là nhà trí thức tiên tiến xuất
chúng của thời đại bấy giờ . Vạn Hạnh đã
" khởi " đi vào đời ( xuất thế) bằng Nho , ở lại với đời bằng Lão và
đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo. Ở Sư
là sự kết tinh tổng hòa nhuần nhuyễn tam giáo để hành sử , thích ứng với đời mà
Sư đã sống.
Theo
truyên sử , Vạn Hạnh đến với Phật Giáo qua ngõ tam học ( 3 học) tức lối ngõ
nguyên thủy mà yếu chỉ tu tập là Giới - định - tuệ . Lối ngõ tam học này có thể dẫn người học lạc
vào nẻo Giáo điều tiêu cực nhăm mắt buông xuôi với thế sự để ẩn nhấn đợi chờ
giác ngộ , qua trương kỳ khổ luyện .
Nhưng Sư đã không làm như vậy , Sư đã từ tam học để tiên thêm một bứớc nữa
trên con đường tu chứng . Bước mới đó là
tam luận , là thập nhi môn , trung quán và bách luận , đó là những con đường
phá chấp toàn triệt , giải phóng toàn diện kẻ tu hành khỏi những vứớng mắc , chấp
trứớc vê tri cũng như về hành . Đó cũng
là con đường Vạn Hạnh hội nhập với khuynh hứơng nhập thế tu chứng của dòng Ty
Ni Đa Lưu Chi .
Sử
sách kể là ; Sau khi Thầy " tịch" Vạn Hạnh còn chuyên hành một Pháp
môn khác là Tổng trì tam ma địa ( Đà Na Ni tam muội - một lối thiền định bằng
cách đọc các khẩu quyết Phạn Ngữ . Nhờ
đó Vạn Hạnh đã xuất Thần thông Sấm ký để hành đạo cứu đời , xây dựng nên Vương
nghiệp Nhà Lý dài tới 216 năm .
Phật
giáo với Vạn Hạnh đã có tác dụng vừa như một động lực cho Sự tiến tới trên con
đường hoằng hóa,lại vừa như một chất xúc tác làm cho Sư tổng hòa với đời , với
đạo , cũng như chinh với bản thân Sư. . . . .
Bài 5: VẠN HẠNH VÀ PHẠM THỊ
Ở
chùa Tiêu ( Tiêu sơn tự, Trường liêu tự,Thiên tâm tự) còn tấm bia đá cổ “Lý gia
linh thạch “ có dòng la:chữ ghi “ Thiên tâm tự chủ,tộc tăng Lý Vạn Hạnh ,Cổ
Pháp nhân dã”nghĩa Làm chủ chùa Thiên Tâm là Sư Vạn Hanh, người làng Cổ Pháp
. Đồng thời theo bia “ Lý gia linh thạch
” còn ghi “ đặc đông ngạn Hoa Lâm nhân Phạm mẫu ”nghĩa là bà mẹ Phạm Thị ở Đông
Ngạn (huỵên) , Hoa Lâm (xã).
Về
nguồn gốc quê mẹ Lý Thái Tổ , xưa nay vẫn con đang có hai nguồn tư liệu , ý kiến
tranh chấp nhau (?)
-1
là: Lý Thái Tổ lập làng Hoa Lâm .
Năm
1010 , vua Lý Thái Tổ lên ngôi , lập thái miếu ở Kẻ Báng ( Dịch Bảng – Đình Bảng),
lập Thái đường ( nhà thờ mẹ)ở Cối giang.
Cối giang sau này là tổng Hội phụ tức cổng Cói (cùng thuộc huyện Đông Ngạn
,Phủ Từ Sơn , trấn Kinh Bắc với Đình Bảng , Dương Lôi hiện nay ), khi đó là bãi
đất hoang phế lên bờ phía đông sông Đuống (sông Thiên Đức).
Vua
Lý chiêu mộ viên đinh ( phu trồng hoa cung như trường hợp Làng Nuốn (Đại đình)
là 1 xóm của Dịch Bảng (Đình Bảng –Cổ Pháp)vốn người trong làng “tuyển” ra để
chuyên lo việc trồng rừng ở khu”thọ Năng Thiên Đức ”, trấn giữ phía đầu lang
phía đông Đền Đô , đến đời vua Lê- Chúa Trịnh mới xin tách lập”xa” riêng là Đại
Đình , lập chùa riêng, nhưng vẫn hay lấy tên là chùa Cổ Pháp và đình làng Nuốn
cũng chỉ thờ vọng 8 vua triều Lý).
Do
trồng được hoa nhiêu như rừng nên nhà vua đặt tên là xã Hoa Lâm. Lúc đầu có 6 thôn “Hoa lâm lục thôn “ gôm có
: Thôn Thái Đường , là thôn thờ mẹ Vua Lý .
Du Lâm là nơi sau khi lễ mẹ vua xong thì về đó du ngoạn ,thư giãn và câu
cá ở đây có ao rất dài nơi Vua hay câu cá gọi là “ngự câu”vì vậy còn gọi Du Lâm
là “Cói ao dài ” ; các thôn ngoại vi là : xóm Đông , xóm Du ngoại ,thôn Lộc Hà,
thôn Đông Trù ( bếp nấu ăn cho Vua ).
Thôn Thái Đường có nhà thờ mẹ vua (nay là thôn Thái Bình ) , ngày mùng 2
tháng 5 Nhâm Thìn(1232), Trần Thủ Độ làm bẫy sập ở Hoa Lâm , phut chốc chon
song 70 tôn thất nhà Lý, họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn , con cháu thất tán đi
muôn phương , suốt thời nhà Trần chỉ được làm thứ dân đi phu đi lính không được
đi học , không được thi cử làm quan !
Ý
kiến thứ nhất này , lâu nay coi Hoa Lâm(Cói) là quê của Phạm Thị.
-2
là: “Phạm Thị” người làng Đình Sấm (Dương Lôi ) thuộc hương Cổ Pháp …các tác giả
Nguyễn Văn Chu và Tiến sỹ giám đốc văn hóa Sở văn hóa Bắc Ninh sau này là Trần
Đinh Luyện ( trên báo Hà Bắc ra ngày 14-10-1995)”mới phát hiện” tìm ra tên của
Phạm Thị là Phạm Thị Ngà – ( còn có tên là Phạm Thị Tiên-Theo thần tích ở chùa
Dâm ) có cha là Phạm Long , mẹ là Dặng Thị Quang sau khi sinh con (Lý Công Uẩn),
bà Phạm Thị mang con đến chùa Mạnh Tân , huyện Yên Phú (nay là chùa Dâm , xã Thủy
Lôi , huỵen Đông Anh ) đen năm con 9 tuổi mới bắt đắt con về quê cũ đến chùa Cố
Pháp được Sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi .
Ở
Đình Bảng ( Kẻ Báng) thì lại lưu hành truyền thuyết . ”khi xưa Đức Bà là Phạm
Thị xinh đẹp gữi việc quét dọn ở chùa Tiêu , nơi có Sư Vạn Hạnh họ Lý tu thành
chính quả trụ trì . Một đêm gió mát trăng thanh bà mệt mỏi ngủ quên ở hiên chùa
, váy sống hớ hênh . Sư sau giờ niệm phật
về phòng , vô ý bước qua nguời bà . Thế
rồi bà có chửa . Khi sắp đén ngày mãn
nguyệt khai hoa , Sư bảo bà về chùa Cổ Pháp nơi ấy có nhà Sư Lý Khánh Văn , em
ruột của Sư Vạn Hạnh trụ trì . Một đêm
xuân thang hai ngày 12 bà khăn gói sang chùa Cổ Pháp nhưng vừa đến cổng chùa
thì đau bụng trở dạ . Bà rặn đẻ ngay dưới
mái trong cổng chùa . Nhà Sư Lý Khánh
Văn nghe tiếng trẻ khóc oa oa vội chạy ra … Từ ấy , chú bé ra đời ở cổng chùa
được nuôi nấng trong chùa , mang tên Công Uẩn ( có thể hiểu là “người đàn ông
làng Diên Uẩn “ chữ’công” cũng có ý tôn vinh mong muốn “người có sự nghiệp hiển
hách “), về họ thì lấy họ Lý của cha nuôi .
Chú bé lớn lên khôn ngoan khác người thường , đến năm bảy tuổi thì được
đưa về chùa Tiêu cho Lý Khánh Vạn ( Sư Vạn Hạnh), tiếp tục nuôi dạy ; và chùa Cổ
Pháp được dân làng Diên Uẩn ( Cổ Pháp) gọi là chùa Dận ( gọi chệch chữ “Rặn” mà
ra ). Ngôi chùa chở tha nơi phát tích của
triều Lý Nước ta ”.
Nhà
văn Xuân Cang nhân về thăm Đình Bảng , đước trứơc cổng chùa Dận dã bình phẩm
như sau :” chỉ sau một chữ Rặn thôi mà hàng ngàn năm sau chung ta có thể hình
dung ra những bước đi đầu tiên của một nhân vật lịch sử vĩ đại
Cái
thời phát tích vẻ vang ấy đã được mô tả rất thú vị trong quẻ Thủy Lôi Truân của
Kinh Dịch . Thủy là nước ở đây là mây
. Lôi là Sấm . Truân là gian nan . Thời quẻ Truân là thời trời
đất mới mở mang ,âm dương cuơng nhu mới giao hòa , viẹc sinh nở còn khó khăn ,
có mây có sấm mà chưa có mưa lên còn gian nan ; truân chuyên . người xưa dạy rằng thời Truân này chính là thời
nguyên sơ tốt lành tuy hiểm trở khó khăn đấy nhưng có mây có sấm thì sẽ có mưa
, chỉ cốt là là tìm được người hiền tài , giỏi việc Kinh Luân , tổ chức sắp xếp
việc nước , việc dân giỏi như dệt vải . Kinh là chia ra từng sợi , luân là dệt
thành tấm . Người có tài Kinh luân ấy chinh là chú bé sinh ở cổng chùa Dận ( Cổ
Pháp tự).
Chuyện
ở Cổ Pháp xưa đã được người bạn thơ của NK khái quát bằng mội bài thơ Vịnh Sử
như sau:
Một
cái bước qua mà nên chuyện
Để
người quét lá chịu hàm oan
Thân
cô vượt cạn đêm chùa Dận
Lịch
sử sinh thành,dưới mái hoang
(Nguyễn
Đức Lưu)
Theo
chính sử “ Đại Việt sử ký toàn thư ” tập 1 trang “240” (Vua) họ Lý , tên húy là
Công Uẩn , người châu Cổ Pháp , (lộ) Băc Giang , mẹ họ Phạm , đi chơi ở chùa
Tiên Sơn ( chùa Tiêu , Trường liêu tự ) cung vơi người thần giao hợp rồi có chửa
sinh Vua ngày 12-2 năm Giáp Tuất , niên hiệu Thái Bình năm thứ 5(974) thời Đinh
. ”…. ” Vua sinh ra mới 3 tuổi , mẹ ắm đến nhà Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi”.
Ở vùng quên Đông Ngạn – Từ Sơn đến nay còn lưu chuyền câu ca dao :
Con
ai đem bỏ chùa này
A
di đà Phật con thầy thầy nuôi .
Ở
đây cần lưu ý là “đi chơi chùa” chứ không phải là “ở chùa” mà ở sứ Kinh Bắc ta
xưa nay việc đi trảy hội , lễ chùa của trai gái là rất tự do khoáng dật (mông 8
tháng 4 không đi hội Gióng cũng hư mất đời – ca dao), có lẽ vào thời điểm lễ “Bụt
đẻ “ này “ Phạm thi” đi chơi chùa Tiêu đã “Vướng duyên” với Sư (Vạn Hạnh) nên
có chửa đẻ ra Đức Vua sau này . Đã là Sư
, đạo cao ,đức trọng được Vua Lê Đại Hành trọng dụng , niêm vinh dự cho cực tộc
Lý ở Cổ Pháp – do đó “không thẻ có con’ được !
Dù
có thật thì vẫn phải bưng bít , gán cho là con thân nhân (ở đây không phải là
“ướm dấu chân” hay là một cái “bước qua” mà sử sách ghi là “giao hợp” hẳn hoi….
. án tại hồ sơ . thật không cãi vào đâu được ! con thây(chùa) lại giả cho thầy
(chùa) ở đây là Sư em (Sư đệ) nuôi con Sư anh ( Sư huynh).
Lý
giải này là hợp lẽ với truyền thuyết đân gian và bia “Lý gia linh thạch’’ .
(hòn đá thiêng ghi dòng họ Lý) Di tích chùa Tiêu hiện nay chủ yếu tôn vinh Vạn
Hạnh Thiền Sư , trong chùa co tượng Thiền Sư Vạn Hạnh bằng đồng được thờ trong
nhà tổ có bài vị ghi rõ “Lý chiều nhập nội, tể tướng Lý Vạn Hạnh thiền sư thần
vị”.
Theo
“thiên nam ngữ lục” sách còn lưu giữ ở chùa Tiêu , cho ta thấy :
“Bà
Phạm Thị vốn là một thanh nữ có nhan sắc , đực độ , nhưng do xa cơ lỡ vận phẩi
đi làm thuê làm mướn , ăn mày ăn xin ở chùa Ứng Đại(?).
Nói
về việc “thụ thai sinh quý nhân” sách viết:
Tháng
giêng năm Giáp Tuất này
Giữa
ngày mùng 9 là ngày Bụt sinh
……………….
Âm
dương thăng giáng một hồi
Thủy
liêm mở động ngọc lơi dề dề …
Sau
khi bà Phạm Thị mang thai , nhà Sư ấy không giám nhận vì sợ mang tiếng đến
thanh giới tu hành nên đẫ đuổi bà đi .
Bà bụng mang dạ chửa đã phải đi hành khất , tuy có nhiều người hỏi , lấy
lam lẽ nhưng bà khônng chiu , không muốn:
Chỉ
e phàm khí lộn thai
Lỗi
đạo cùng trời , mất đạo cùng con
Bà
cố đi tới chùa Dâm (Mạnh Tân tự) một ngôi chùa hẻo lánh cách chùa Dận (Cổ Pháp
Tự) khoảng 10 cây số. Dân làng ở đây con
giử được cuốn thần tích do Quan Hàn Lâm Viện , Đông các đại học sỹ Nguyên Bính
soạn năm 1574 ; 9 năm sau , Phạm Thị đem con về chùa Cổ Pháp gặp Lý Khánh Văn –
Sư hỏi hết sự tình , tinh tuối đưa trẻ , nhận làm con nuôi đăt tên là Công Uẩn
( Uẩn có ý nghĩa là tiềm ẩn sức mạnh , được mang theo họ Lý , là họ của cha
nuôi mà cũng đích thực là của cha đẻ )- vì có những lơi dặn dò của Phạm Thị ủy
thác cho Sư Lý Khánh Văn vơi ước vọng của bà mẹ đứt ruột đẻ ra , chịu đựng biết
bao miệng thế gian ẩn náu nuôi con …. Lời
dặn dò của tử mẩu đó quả là thiêng liêng , gửi gắm vì sự nghiệp tương lai của
con mình cho Sư Lý Khánh Văn do đó dân làng Cổ Pháp gọi nôm là chùa Dặn (ý là dặn
dò) dần dần đọc là “chùa Dận” ( hiểu thao ý rặn đẻ)còn có tên là Ứng tâm tự
;trong chùa có nhà mẫu thờ riêng “ Lý triều quốc mẫu”, ban thờ Sư Lý Khánh Văn
…cùng hai pho tượng cổ tạc bà Phạm Thị và Sư Khánh Văn . . Ở chùa Dận ( Cổ Pháp tự) còn giữ nguyên quả
chuông đúc năm minh mệnh 20 ( Kỷ Hợi) , đề là (Cổ Pháp tự trung”, trên quả
chuông co khắc 1 bài “minh”:
Phú
chung cổ thi:
Lam
danh Cổ Pháp
Thắng
chiêm Nam thiên
Bồ
chung sơ tạo
Phạm
các thi trung
Khung
kinh Phật thất.
Kỷ
tam thập niên
Ái
thử nhân lý
Pháp
thử thiện duyên
Dục
hoàng qủa phúc
Bất
tận kim tiền
Quân
dạng công tạo
Vượng
mệnh hậu vinh
Hỏa
lư luân chú
Kim
chất hoàn toàn
Huyền
chi lần các
Khoa
động thiên lân
Từ
phong viễn tưởng
Vụ
nguyệt thưởng tên
Nhĩ
văn tâm ngộ
Tự
viễn thiện thiên
Với
thiện tối lạc
Thụ
phúc vô biên
Phúc
do tâm tạo
Chung
dĩ minh truyền
Minh
mệnh nhị thập liên
Tuế
thứ kỷ hợi
Dịch:
Thơ phú chuông cổ.
Danh
lam cổ pháp
Trời
nam nhất miền
Chuông
thiên đúc trước
Thơ
trong gác thiền
Đọc
hết kinh phật
Trải
ba mươi năm
Yên
long nhân ái
Việc
thiện lên duyên
Muốn
được quả phúc
Chớ
có ăn tiền
Người
góp công tạo
Bản
mệnh hiển vinh
Lò
lửa hun đúc
Đồng
đốt đòng ròn
Treo
chuông lên gác
Vang
động trời bên
Gió
xa cũng hưởng
Xem
trăng khuyết tròn
Tai
nghe , tâm ngộ
Điều
thiện tự thiên (trời)
Làm
thiện được lạc (an lạc)
Được
phúc vô biên
Phúc
do tâm tạo
Chuông
vọng vang rền.
Minh
mạng năm thứ 20
Kỷ
hợi
Tương
truyền : sau khi gửi con ( Lý Công Uẩn) cho Sư Lý Khánh Văn , bà Phạm Thị rời
chùa Dặn đi về phía Tây Nam rừng Báng , đến gò “Mả Báng” ( nay ở gần thôn Long
Vỹ, gần làng Nành , nơi có huyệt phát đế vương theo sự dò tìm của Cao Biền trước
đó ) thì bà bị bạo bệnh . Thổ địa liền
cho mối đùn thành mộ ) nay là “Lăng phát tích” diện tích 240m, cao hơn mặt ruộng
1m) . Ngày giỗ ngày mùng 7 tháng giêng
hàng năm.
Ở
Dương Lôi ( đình Sấm ) thì lại tương truyền là : Xưa có bà Phạm Thị Ngà làm thủ
hộ chùa Gia Châu ( còn gọi là chùa Minh Châu hay “Châu minh Tự”(?) thường lên
núi Tiêu hái củi, nơi Sư Vạn Hạnh trụ trì . ”vì cảm động” mà bà có thai ( sau
sinh Vua Lý, bà liền bị dân làng duổi ra bìa làng ( sự tích na ná như chuyên
Man Nương , chuyện Thánh Gióng ) và chùa được gọi là “cha Lư” có nghĩa là chùa
La ( kêu la) gọi cha. Chư La được viết
theo hán tự đọc thành chữ Lư , với ý nghĩa là nơi sinh Vua Lý cất tiếng khóc
chào đời , rồi tập nói kêu nên goi cha mà không co cha .
Vì
những lý do tế nhi (bi ẩn) kể trên mặc dù triều lý dài tới 216 năm , có 9 đời
vua , thừa quyền lực điêu tra để biết chua vua Lý Công Uẩn là ai? Mà theo chinh
sử thì sau khi nên ngôi , vua Lý Thuận Thiên , đã phong cha (truy phong) là Hiển
Khánh Vương ,Mẹ là Minh Đức Thái Hậu, chú làm Vũ đạo vương , anh Vũ uy vương
,chú làm VŨ Đạo Vương ,con Vũ Uy Vương là Trung Hiển làm Thái úy. Đến mùa xuân thang 2 ( năm 1018) truy phong
“Bà nội” làm Hậu(hoàng thái hậu) và dặt tên thụy(để thờ cúng). Như vạy là về gia tộc của Lý Công Uẩn ở kẻ
Báng là một cự tộc , có ông bà chú bác anh em họ nội khá đông đúc , nhưng vì là
“con thầy (chùa)” nên không tiện công bố “ cha thực của nhà vua là ai ?”! Trong
chuyện về Thiền Sư Vạn Hạnh ở sách Thiền uyển tập anh có chép : “ ban đêm Sư Vạn
Hạnh ngồi nhập định nghe xung quanh nơi mộ Hiển Khánh Vương ( chồng bà Phạm Thị
- cha của Lý Công Uẩn ) 4 phía đều có tiếng ngâm thơ , bèn cho chép lại”… Nói
thế tức là Lý Công Uẩn có “mộ Cha” khi Vạn Hạnh còn sống … Nhưng thực thì ở Thọ
Lăng Thiên Đức trong rừng Báng , nay là cánh đồng Đình Bảng có tất cả 11 Lăng mộ
trong đó có đủ 9 vị vua nhà Lý, cùng Lăng Lý thánh mẫu (Lăng phát tích ) và
lăng Ỷ Lan Nguyên Phi ( Lăng lương dâu) không hề có lăng mộ Hiển Khánh Vương ?
Trong khi đó trên núi Tiêu Sơn phía trước chùa có bãi đất gọi là “mả vua”phải
chăng đây là mộ cha vua ( Lý Công Uẩn), chính là mộ của Thiền Sư Lý Vạn Hạnh trụ
trì ở đây ?
Thôi
, lịch sử có những điều kỳ bí , mới là thú vị chỉ có trời mới biết được ! Ở ta
những nhân vật thánh thần , vua chúa ,danh nhân thiêu gì Người “không có Bố”
như Thánh Gióng, Đinh Tiên Hoàng , Mạc Đĩnh Chi , Chu Văn An …
Trước
Lý Công Uẩn , trong thần thuyết về sự thác sinh của Phạm Bạch Hổ : mẹ ông vào
miếu nấp mưa , giao phối với thần miếu trong cơn mưa , có mang đẻ ra ông Sứ
quân nhập cuộc vào loạn 12 Sứ quân thời giữa thế kỷ thứ X. Vậy có thơ rằng :
CON GÁI PHỦ TỪ
Giỏi
thay con gái Phủ Từ
Từ
xưa đã dám yêu Sư Chùa Viềng
Động
Ngàn đất Phật linh thiêng.
Đẻ
ra Vua chúa rồng tiên nhà mình
Không
đi tu cũng đã xinh
Đi
làm Thủ Hộ hết mình …. đẹp sao
Đất
thì thấp , trời thì cao
Con
trời , con Phật gửi vào nhà ta
Con
trời chẳng biết mặt cha
Lớn
lên trung dũng tài ba lạ thường
Ai
về bên bến sông Tương
Chớ
gần cô Tiểu mà vương phải bùa .
Bài 6: TIÊU SƠN TỰ
Đến
thị xã Từ Sơn( phủ Từ) sau khi đi thăm chùa Dận (nơi sinh Thái tổ Lý Công Uẩn),
đền Đô (thờ 8 vua nhà Lý) mà chưa lên thăm Tiêu Sơn Tự (chùa Tiêu) thì coi như
chưa đến huyện Đông Ngàn, châu Cổ Pháp xưa. Đó là"chùa Thiên Tâm" nơi
Vạn Hạnh thiền sư trụ trì, người được tương truyền là cha đẻ, có công nuôi dạy
và tạo dựng Lý Công Uẩn. Chùa được xây dựng
phía Tây bên trên sườn núi Tiêu,xã Tương Giang nhìn xuống dòng Tiêu Tương uốn
lượn gắn với câu chuyện tình Trương Chi - Mị Nương đã đi vào huyền thoại. Chùa chỉ có một cổng ở chân núi phía tây,
trên cổng có ba chữ đại tự " bất nhị môn" (không 2 cửa) để người đời
ngẫm nghĩ: đi theo đạo Phật chỉ có một đường hoặc suy diễn là con người ta ăn ở
không nên hai lòng. . . Sử cũ ghi: Tiêu Sơn Cổ Tự được coi như một Thiền Viện lớn
đời Đinh- tiền Lê- Lý, là nơi đào tạo các vị cao tăng và cung cấp kinh sách cho
nhiều chùa trong nước. Dấu tích xưa còn lưu giữ tại nơi đây như: tượng Lý Vạn Hạnh
bằng đồng được thờ trong nhà Tổ, có bài vị ghi rõ: "Lý triều nhập nội, Tể
tướng Lý Vạn Hạnh thiền sư thần vị".
Trong nhà bia của chùa có tấm bia đá mặt trước có khắc bốn chữ Hán
"Lý gia linh thạch", mặt sau còn khắc nhiều chữ nhỏ; đây là hòn đá
thiêng ghi về dòng họ Lý,ngoài ra trong chùa còn nhiều hoành phi, câu đối,
chuông đồng từ xưa còn lại. Các công
trình được xây dựng từ trước thời nhà Lý. Các đời sau trùng tu tôn tạo thành một
quần thể khá đẹp đẽ hữu tình. Tượng Vạn Hạnh thiền sư to lớn ngồi thiền định
trên đỉnh núi Tiêu Sơn trông về hướng Tây phương cực lạc. . . Người đi trên đường
quốc lộ 1A cách vài cây số đã trông thấy tượng Thiền sư trắng toát trên đỉnh
núi Tiêu. Trên đường từ chùa ở lưng núi lên chỗ tượng Thiền sư có tấm bia khắc
bài thơ nổi tiếng"Thị đệ tử" của Vạn Hạnh:
Thị
đệ tử
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm
vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh
suy như lộ thảo đầu phô
Xin
tạm dịch:
Bảo
(dặn) học trò
Thân
như ánh chớp có rồi không
Cây
cối xuân tươi, thu héo cong
Hiểu
vận thịnh suy không sợ hãi
Như
trên đầu cỏ hạt sương trong
Bài
thơ thị tịch này, Thiền sư làm ở tuổi 95, lúc sắp "tịch". Đây là bài
thơ nổi tiếng nhất của thơ thiền Đại Việt, chỉ với 28 chữ đúc trong 4 câu hàm
Xúc mà chứa đủ cả triết cả thơ nắm hết được sự huyền diệu của tạo hóa, hiểu được
lẽ đời- nói theo hôm nay là nó có tư tưởng khai sáng, chỉ đạo mở ra một thời đại
mới của dân tộc (nước Đại Việt ta). Chùa Tiêu xưa nay được coi là danh lam cổ tự,
điều đặc biệt nữa là: vào đầu năm Giáp thân (2004) chùa Tiêu đã phát hiện được"nhục
thân bồ tát Như Trí" với tư thế ngồi thiền đã đạt "tượng táng"
(Trung Quốc gọi là"Giáp trữ tất") tới nay đã gần 300 năm(vào thời vua
Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái khoảng năm 1723 ?). Qua nghiên cứu của các nhà khoa học thì thiền
sư Như Trí cao khoảng 1,65m, ngài tịch ở độ tuổi 45-50, pho tượng gốc nặng 34kg
chiều cao ngồi 78,5 cm được đặt trong nhà thờ Tổ trong một khám sơn son thiếp
vàng,nay để trong hộp kính kín dày 10mm chứa đầy khí nitơ để bào quản lâu dài.
Nhục thân Thiền sư Như Trí là pho tượng thứ tư ở nước ta theo kiểu tượng táng
(trước đó là tượng táng các Thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu(Hà
Tây cũ), tượng Thiền sư Chuyết Chuyết ở chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh),
chùa Tiêu cách trung tâm thị xã Từ Sơn hơn 2 cây số, từ Hà Nội về 20km ở phía
bên trái quốc lộ 1A đi Lạng Sơn. Hàng năm cứ đến ngày 5-5 Âm lịch là bà con các
làng quanh vùng quê hương nhà Lý như Đình Bảng, Dương Lôi, Tam Tảo cùng dân xã
Tương Giang quần tụ về Tiêu Sơn Tự làm lễ dâng hương tưởng niệm Quốc sư Lý Vạn
Hạnh (Phạm Thị Thánh Mẫu mẹ Đức Lý Thái Tổ thờ ở chùa Dận"Cổ Pháp Tự"). Đất nước Đại Việt ta đã nghìn năm theo cánh rồng
bay lên, đến Tiêu Sơn Tự, thi nhân nào mà chả "tức sự":
Vãng
cảnh chùa
Sắc
không nào bước vướng chân
Bồ
đề xòa bóng hồng trần nước mây
Thiền
sư đã tịch nơi đây
Còn
vang câu kệ, sân rày cành mai. . .
NK
Đến
Tiêu Sơn Tự, ai đó đã từng mê tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn chắc còn nhớ"Tiêu
Sơn tráng sĩ" của Khái Hưng? chính là đây: Nơi chàng Phạm Thái yêu Trương
Quỳnh Như (thời Lê mạt) thất tình bạc mệnh đã về "tu", múa gươm tráng
sĩ cất tiếng bi ai:
"Ha
ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu;
Ha
ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân"
Tiêu
Sơn Tự quả là một danh thắng đầy sự tích cổ kim của xứ Kinh Bắc nghìn năm văn
hiến.
Bài 7: CHÙA CỔ PHÁP
Tên
thường gọi là Chùa Dận, nơi sinh Lý Công Uẩn (còn có tên là chùa Ứng Thiên Tâm-
Chùa Ứng Tâm).
Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: "trước ở Viện Cảm Tuyền, chùa Ứng Thiên
Tâm (Cổ Pháp) có con chó con mới sinh, sắc trắng, lông có đốm đen, kết thành hai
chữ Thiên Tử. Kẻ thức giả nói đó là điềm
năm Tuất (năm con chó), đất ấy sẽ sinh ra Thiên Tử (Vua).
Đến
nay, Vua (Lý Công Uẩn) sinh năm Giáp Tuất ( ngày 12 tháng 2 tức mùng 8 tháng 3
năm 974), sau lên làm Thiên Tử, quả là ứng nghiệm.
Chùa
Cổ Pháp khi khởi dựng trên gò đất giữa đồng quê. Hiện nay vị trí ở giữa Phố Chùa Dận, bên đường
QL1A (quãng cây số 15) và đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn chạy qua đất làng Đình Bảng.
Đây là nơi trụ trì của sư Lý Khánh Văn.
Trong chùa xưa có Viện Cảm Tuyền là trung tâm Phật Giáo nổi tiếng. Tại
đây Lý Công Uẩn được sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng từ khi còn thơ ấu. Tam quan
chùa là nơi sinh Lý Công Uẩn; và cũng vì vậy mà Chùa Dận là nơi thờ Lý Thánh Mẫu
và Lý Khánh Văn. Theo truyền thuyết, Lý
Công Uẩn lúc còn là chú tiểu rất hay nghịch. . . một hôm bị Thầy phạt vì tội ăn trộm phần oản
cùng chuối lễ Phật và Đức Thánh Quan cai quản chùa. Lý Công Uẩn bị Thầy trói bắt nằm dưới đất. Đêm khuya muỗi đốt không ngủ được, Lý đã tức
cảnh ngâm bài thơ (Có khẩu khí đế vương):
Thiên
vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật
Nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ
thâm bất cảm trường thân túc
Chỉ
khủng sơn hà xã tắc điên. (Tức sự)
bài
dịch 1:
Trời
làm chăn gối, đất đệm lưng
Nhật
Nguyệt cùng ta ngủ trước song
Đêm
khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ
sợ lăn kềnh cả núi sông.
bài
dịch 2 :
Trời
làm chăn gối, đất đệm lưng
Nhật
Nguyệt cùng ta ngủ trước song
Đêm
khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ
ngại non sông xã tắc rung.
Với
những chuyện chú tiểu Lý Công Uẩn ăn oản trước Phật, bị phạt rồi Ngài tức mình
đã đuổi không cho Phật ở Chùa (thích chữ vào vai tượng Phật "đồ tam thiên
lý"- đày ba nghìn dặm và mỗi dấu chân của Ngài đều in hình chữ
Vương(Vua). Đến thăm Chùa Dận hôm nay
ngoài việc tham quan cổng Chùa (Tam Quan) nơi bà Phạm Thị sinh ra Đức Ngài còn
được xem quả chuông đúc năm Minh Mệnh 20(Kỷ hợi 1839), đề là "Cổ Pháp tự
chung" có khắc thơ cổ đúc chuông:
Lam
danh Cổ Pháp
Thắng
chiêm Nam thiên
Bồ
chung sơ tạo
Phạm
các thị chung. . .
Lễ
hội Chùa Cổ Pháp hàng năm tổ chức vào ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch kỷ niệm
ngày hóa của Lý Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng thái hậu Phạm Thị.
Bài 8: VẠN HẠNH & ĐA BẢO
Khi
Lý Công Uẩn lớn lên thì Thiền Sư Vạn Hạnh và Đại Sư Khuông Việt đều đã cao tuổi
, do đó Vạn Hạnh đã gửi học trò của mình cho Thiền Sư Đa Bảo kèm cặp thêm
. Theo sách Thiền uyển tập anh thì sư Đa
Bảo tu ở chùa Kiến Sơ , làng Gióng ( Phù Đổng , Huyện Tiên Du )- không biết là
người ở đâu ,và cũng không biết họ là gì . Khi Đại Sư Khuông Việt dạy tại chùa
Khai Quốc (Đại La) , Sư Đa Bảo đến tham học , được Đại Sư khen là ngừơi gặp việc
thì chóng hiểu , xử sự cẩn thận , nên riêng cho nhập thất . Sau khi đắc Pháp ,
Sư chỉ một mình một bát , tiêu dạo ngoài vật .
Sau được chùa Kiến Sơ , bèn đến ở đó .
Lý Công Uẩn lúc mới gặp còn là chú tiểu , Sư thấy tướng mạo anh tuấn
khác thường , bèn bảo : “ Trẻ này cốt tướng phi phàm , một ngáy kia sẽ làm Vua
, ắt là người này đây”. Lý Công Uẩn cả
kinh , thưa : “ hiện nay Thánh thượng anh minh (Lê Đại Hành ) còn đó ,trong nước
đang yên vui , Thầy sao lại nói lời phản nghịch, nếu nhà Vua nghe được thì sẽ bị
tội tru di?”
Sư
bảo ; “ Mệnh trời vốn tiền định , dù người muốn trốn cũng chẳng được nào . Giả như lời ta mà đúng thì mong (nhà ngươi với
ta) chớ bỏ nhau”.
Khi
Lý Công Uẩn lên ngôi Vua , đã nhiều lần mời sư Đa Bảo vào cung , hỏi bàn yếu chỉ
củaThiền và ơn lễ Sư rất hậu . Đến cả việc
chính trị của triều đình,sư Đa Bảo đều tham dự phần quyết định . Vua ( Lý Thái Tổ) xuống chiếu trùng tu chùa
Kiến Sơ. Sau không rõ Sư tịch ở đâu ?
Qua
truyện trên ta biết : Sau Vạn Hạnh thì sư Đa Bảo là thầy dạy dỗ rèn cặp Lý Công
Uẩn thuở còn hàn vi , rồi đến khi Lý Công Uẩn làm Vua thì lại tham gia quyết
đoán việc triều chính .
Theo
nhà Sử học Lê Mạnh Thát thì trước khi sư Đa Bảo về trụ trì ở chùa Kiến Sơ ( vào
khoảng năm 990, Sư đã gần 40 tuổi ) ở đây có đền Phù Đổng lúc đó mới chỉ là thờ
một vị thổ thần của hương Phù Đổng . ( Đến các sách Việt Điện U Linh và Lĩnh
Nam chích quái thế kỷ XV coi Phù Đổng như một vị tướng dẹp giặc Ân thời Hùng
Vương ) – và sau này vua Lý Thái Tổ , vốn học thầy Đa Bảo ở đây, đã tôn vinh thần
Phù đổng là Xung Thiên Đại Vương, đền thờ thổ thần Phù Đổng ở chùa Kiến Sơ ,
trước đó do sư Cảm Thành - vào khoảng năm 820 , có một nhà giàu trong làng , họ
Nguyễn , đã hiến cả dinh cơ của nhà mình để Sư lập lên chùa Kiến Sơ ( Thờ Phật)
đồng thời lập nhà thờ thổ thần mé bên phải nhà chùa . ( chưa tôn thành Thánh
Gióng . Phù Đổng Thiên Vương như sau này
). Ngày tháng xói mòn, dân trong làng biến
khu chùa đền đó thành nơi cầu đảo thờ quỉ ma , gọi bậy là “dâm từ” . Đến khi sư Đa Bảo đến trụ trì , để dẹp đi …
Sư đã sang tác “ sấm thi” . . một hôm , tại cây cổ thụ trước đền thờ thổ thần
hiện 1 bài thơ “Kệ” rằng :
Phật
pháp ai hay hộ
Giữ
Đức ở vườn kỳ
Nếu
không ta giống cây
Sớm
đã xứ khác đi
Chẳng
chở kim cương bộ
Na
La Diên dấu kỳ
Đầy
trời nhiều bụi tạp
Chùa
Phật chứa yêu ma
Một
ngày khác , Người ta nghe thấy trên không trung có tiếng đáp :
Phật
pháp từ bi lớn
Ánh
thiêng phủ cả trời
Nguyện
thường theo thọ giới
Vườn
kỳ mãi giúp thôi
Có
sách viết là: bài “Kệ” trên hiện ra cây cổ thụ trước dền Phù đổng. Sư nói là:thấy
làm lạ bèn lại thiết đàn trì giới cho thần. ( có trì giới là để trừ tà ác , để
thanh tịnh , dễ bề tụ định và phát tuệ , để chúng sinh có Phật tính … tu mới đắc
đạo). Đức Vua Lý Thái Tổ lúc còn tiềm
long ( rồng chưa xuất hiện) biết sư Đa Bảo đức hạnh cao thượng , ở cương vị học
trò đã cùng làm đàn việt ( vị thí chủ) cho thầy . Khi đã lên ngôi vua , tự thân
về thăm chùa Kiến Sơ với Thầy ở đó . Thiền
sư nghênh giá đi qúa bên chùa . Sư cất
tiếng hỏi ; “ Phật tử , người sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng Đức tân thiên
tử ?” Thần (Phù Đổng) ứng thanh, hiện ra nơi da cây ( vỏ cây cổ thụ)4 câu thơ :
Đức
Đế càn khôn lớn
Oai
thanh yên tám miền
Cõi
âm nhớ ân huệ
Nhuần
thấm phong xung thiên .
Thái
Tổ trông thấy , đọc rất biết ý (đề xuất) của thần , liền ban hiệu ( cho Thần
Phù Đổng) là Xung Thiên Đại Vương . Bài
thơ (ở da cây) tự dưng biến Mất . Vua lấy
làm lạ , sai thợ tạc tượng thờ thần Xung Thiên Đại Vương (Thánh Gióng)dung nghi
hùng vĩ và tướng hầu 8 pho . Sơn thếp
xong rồi ,lại thấy hiện ở cây đại thụ 4 câu thơ :
Một
bát nước công đức
Tùy
duyên hóa thế gian
Sáng
choang còn chiếu đuốc
Bóng
mất trời lên non.
Sư
đem bài “Kệ” trên trình vua . Thái Tổ
không hiểu rõ câu sấm đó nói gì? Câu sấm này tiên tri ứng với nhà Lý tồn tại 8
đời Vua thì truyền ngôi cho nhà Trần .
Chữ “ Bát” là y bát ( chiếc bát khất thực) và chữ Bát là số 8 đồng âm (1
lối chơi chữ ) 1 bát tức như 8 , vua Lý Huệ Tông tên Sảm , đấy gọi là “trời lên
non” Sấm thi (thơ Sấm) nó thần diệu như vậy đó . Cũng có ý kiến cho là bài sấm thi trên do Sư
Vạn Hạnh sáng tác . Như vậy sự tích
Thánh Gióng (Xung Thiên Đại Vương ) có từ thời sư Đa Bảo và Vua Lý Thái Tổ , đến
đời Trần được tôn vinh thành một vị thiên tướng thời Hùng Vương , đại biểu cho
tinh thần chống ngoại xâm (ở thời sư Đa Bảo trở thành một Phật tử , rồi được
vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Đại Vương) . Sách Việt Sử Diễn Âm sau này cũng đưa sự kiện
này trong mô tả lịch sử như sau :
Thái
Tổ lại nhớ đến thầy
Ở
chùa Phù Đổng ngày rày viếng chơi
Thiên
tăng thấy vua đến chơi
Đến
Thần Vương miếu có lời rằng bây
Có
tân Thiên Tử đến đây
Thần
Vương xá lại , đường này mừng Vua
Thần
liền hiện đến bốn câu
Dòng
dòng vào quạt nên thơ bảo Thầy
Thi
văn:
Nhất
bát công đức thủy
Tùy
duyên hóa thế gian
Quang
minh trùng chiếu diệu
Miệt
ảnh nhật đăng sơn
Thiền
tăng lại bảo rằng bay
Ấy
lời phản phúc xa thay khôn lường
Thần
Vương lại bảo tỏ đường
Thơ
khác lại chép vào tường cho hay
Thi
văn ;
Đế
đức càn khôn lại
Uy
quang chiếu bát điên
Đình
âm mong huệ hải
Phú
ốc bái Xung Thiên
Qua
chuyện trên , đời nay ta thấy : Thần Phù Đổng từ một vị thần làng (muốn) trở
thành thần quốc gia( của cả một nước tôn thờ, 1 trong tứ bất tử) dã xuất phát từ
nhà vua (chính quyền) phong tước (Xung Thiên Đại Vương) , có như vậy mới linh ứng
(thiêng) và mới được toàn dân tôn thờ .
Dân gian có câu ; hòn đất nặn nên Bụt , khúc gỗ tạc lên (tượng) thánh thần
…. qủa là chí lý !
Công
lao của sư Đa Bảo với Đức vua Lý Thái Tổ là đã dẹp đền thờ thần Phù Đổng ở dạng
dâm thần mà Sư Cảm Thành đã dựng lên (tạo ra) ở chùa Kiến Sơ …từ do tạo ra một
vị thần mới (Thánh Gióng- Xung Thiên Đại Vưong) đáp ứng được nhu cầu tâm linh (
lễ bái , cầu nguyện) của nhân dân , đồng thời đề cao dược tinh thần yêu nước chống
ngoại xâm của dân tộc mình . Như vậy là
các vị trí thức (Quốc Sư ), Vua chúa đã sáng tạo ra Thần Thánh để phục vụ đắc lực
cho công cuộc Quốc thái dân an – đó là một kỳ diệu ở trên thế gian này- nước Đại
Việt ta.
Bài 9: VẠN HẠNH & LÝ CÔNG
UẨN
Với
Lý Công Uẩn (sau này là Vua Thuận Thiên , Thái Tổ nhà Lý) thì Thiền Sư Vạn Hạnh
đích thực là thầy học ( có thể là cha dẻ) ngừoi đã dạy dỗ, dìu dắt , tiến cử
vào làm Quan với Vua Lê Đại Hành , làm tới Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (như
chức bộ trưởng Quốc phòng- tổng tư lệnh quân đội)để rồi đến lúc “ tật Lê chìm bể
Bắc , hạt Lý mọc trời Nam” lên ngôi Hoàng Đế .
Ngay
từ buổi đầu , ở Viện Cảm tuyền ( ở Chùa Lục Tổ ) nơi Thiền Sư Lý Khánh Văn đang
nuôi và dạy Lý Công Uẩn ( lúc còn trẻ thơ ) , Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng : “
Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm (cho đời)
mà làm Minh Chúa của Thiên hạ”.
Sư
Vạn Hạnh quả là một vị Quốc Sư có con mắt tinh đời (con mắt của nhà tướng số),
tiên tri “trông mặt mà bắt hình dong” kỳ tài là vậy
Sau
này nhà thơ Huy Cận , sau 985 năm đã có bài thơ “mắt Lý Công Uẩn” như một sự tiếp
nối của hai thầy trò (cha con) nhà Lý .
Mắt chứa không gian – chứa
thời gian
Nhìn trước nghìn năm – mắt
địa bàn
Vạn dặm phù sa bồi lịch sử
Dời Đô , dất nước đã sang
trang.
Vĩ
nhân , Thánh nhân hơn người đời bình thường là có con mắt nhìn thấu tương lai
là vậy . ( Đời bây giờ có Chủ Tịch Hồ
Chí Minh cũng có nhiều dự báo như thế) .
Sư
Vạn Hạnh và Sư Lý Khánh Văn là hai anh em ruột lên sự giao lưu đi lại giữa hai
chùa Lục Tổ , chùa Tiêu ở cùng trong 1 vùng cách nhau độ hơn 3 cây số (trong
Hương , rồi là châu Cổ Pháp , ;là thường xuyên . ở chùa Lục tổ có viện Cảm Tuyền
1 loại trường học thời bấy giờ để dạy con em trong vùng (có Lý Công Uẩn) học ở
đấy .
Vào
thời điểm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi một loạt các “điềm” xấu tốt đã xuất hiện
. Sử sách đã chép ; “ bấy giờ Ngoạ Triều
bạo ngược , Trời và người đều chán . Lý
Công Uẩn lúc ấy làm Thân Vệ chưa nhận truyền ngôi . Trong khoảng thời gian này , những điềm đan
xem như chó trắng ở Viện Cảm Tuyền , chùa Ứng Thiên Tâm ( 1 tên khác của chùa Dận
) lông trên lưng chó hiện thành chữ Thiên Tử (vua) . Sét đánh vào cây Gạo (ở thôn Đình Sấm , hương
Cổ Pháp ) để lại bài văn (Thụ căn diểu diểu …).
Ở xung quanh mộ Hiển Khánh Vương (cha Lý Công Uẩn ) đêm có nghe tiếng đọc
tụng ( sấm thi) . Cây đa ở chùa Song Lâm
( làng Nành). có sâu ăn vào vỏ cây hằn lên thành chữ Quốc . Ấy , đại khái , những việc này (điềm báo )
tùy theo nơi tai nghe mắt thấy . Sư dã
xét bàn , mỗi điều đều hợp với điềm Lệ diệt Lý hưng”
Cái
điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn sinh năm Giáp
Tuất (cầm tinh con chó) Đại Việt Sử ký toàn thư cũng chép “…kẻ thức giả nói : bởi
đó là cái điềm của người sinh năm Tuất sẽ làm Thiên Tử”. đến lúc ấy , Vua sinh năm Giáp Tuất mà làm
Thiên Tử , quả đúng’’.
Ở
Trung Quốc và Việt Nam ta (cũng như nhiều nước trên thế giới ) cái chuyện sấm
vĩ kiểu này xưa nay vẫn được lan truyền khá thú vị “sấm” nhiều khi là do người
đời sau đặt ra như là “để hợp pháp hóa” khẳng định một sự kiện có thật đã được
tiền định (trời làm ra thế) để củng cố một niềm tin đích thực . Các bài sấm thi mà người ta nghĩ là do Sư Vạn
Hạnh sang tác nhằm tạo dư luận , phò Lý Công Uẩn xây dựng sự nghiệp Đế Vương đã
bắt nguồn từ Sư Định Không và Sư La Quí (đất Cổ Pháp sẽ sinh ra một vị Đế Vương
đủ sức làm chủ đất nước không còn bị ngoại bang đô hộ và làm cho Phật giáo(Quốc
giáo) hưng thịnh.
Quan
điểm chính trị của Sư Vạn Hạnh ( Thầy của Lý Công Uẩn ) là rất rõ ràng. Đó là phảiđấu tranh giành được Tổ quốc độc lập
, quan điểm chi phối đã gần 300 năm phất triển của lịch sử tư tưởng văn hóa Việt
Nam cho đến hôm nay có lẽ vẫn là còn nguyên giá trị .
Sử
sách còn chép lại : Ngày Lý Thái Tổ lên ngôi , Sư Vạn Hạnh đang ở chùa Đà (chùa
Lục Tổ) linh tính đã biết trước , gọi 2 Vương chú Bác của Lý Công Uẩn tới nói :
Thiên tử (Ngoạ Triều) đã băng , Lý Thân Vệ đang ở nhà ( Hoa Lư) . Tay chân họ Lý túc trực trong thành (Hoa Lư)
lên tới số nghìn.
Nội
trong ngày Thân Vệ ắt sẽ được thiên hạ Bèn yết bảng ở đường cái nói rằng .
Cây Lê chìm bể Bắc
Chồi Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo lặng
Tám cõi được bình an.
(Tật lê trầm bắc thủy
Lý tử thọ Nam thiên
Tứ phương qua can tỉnh
Bát biểu hạ bình yên).
Hai
vương nghe Sư nói , rất sợ , sai người đi hỏi , quả đúng như Sư đã nói .
Qua
đó cho thấy việc Lý Công Uẩn lên ngôi Vua là sự sắp dặt công phu của thầy (cha
đẻ) mình và đấy là niềm hạnh phúc nhất của Sư Vạn Hạnh , nó đặt hy vọng của
không biết bao nhiêu vị Thiền Sư , tiền bối (đất nước độc lập , Phật pháp hưng
thịnh).
Sử
sách thời Tiền Lê còn ghi : Sau khi Đại Hành hoàng Đế băng , Trung Tông ( Long
Việt) vâng lên chiếu lên nối ngôi , Long Đĩnh làm loạn , Trung Tông vì tình anh
em cùng mẹ không nỡ giết , tha cho . Sau
Long Đĩnh sai bọn trộm cướp ban đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông ( vừa
lên ngôi được 3 ngày ). Bầy tôi đều chạy
trốn , duy có Điện tiền Quân là Lý Công Uẩn ôm xác (Vua Trung Tông) mà khóc ,
Vua (Ngoạ Triều) , khen (Công Uẩn) là người,trung nghĩa, trọng dụng . Chính vì thế có lần ăn quả Khế thấy hột mận
(chữ Lý có nghĩa là cây mận) tuy đã từng được nghe lời sấm vĩ ( cây Lê chìm bể
Bắc , chồi Lý mọc trời Nam…” Vua (Ngoạ Triều) đã ngầm tìm người họ Lý giết đi ,
thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh , rốt cuộc cũng không ngờ . Đến khi Ngoạ Triều băng (do ốm liệt gường, chết
tại Điện ngủ) , Vua nối ngôi còn bé , Công Uẩn (tả điện tiền chỉ huy sứ ) cùng
với Nguyến Đê – Hữu điện tiền chỉ huy sứ , mỗi người được đem 500 quân Tùy Long
vào làm túc vệ ( bảo vệ ấu chúa) khi ấy Lý Công Uẩn 36 tuổi ; trong cung lúc ấy
có Chi Hầu Đào Cam Mộc do biết Lý Công Uẩn muốn lên ngôi , bèn bóng gió nói
khích rằng : mới rồi chúa thượng u tối bạo ngược , phần nhiều làm việc bất
nghĩa , Trời chán ghét cái Đức ấy , nên không cho sống lâu , con nối thơ ấu
chưa cáng đáng nổi những khó khăn ; cơ sự rắc rối , Trăm quan không ưa , dân
đen ngao ngán , đi tìm chân chúa . Thân
Vệ sao không nhân lúc này , vận dụng mưu cao , ra quyết định sáng suốt , xa thì
theo dấu chân Vua Thang Vua Vũ , gần thì noi việc Dương (thị) – Lê(Hoàn) , trên
thuận lòng trời dưới theo ý dân ? Sao mà còn khư khư ôm lấy cái điển tiết chăng
?
Lý
Công Uẩn tuy trong bụng hài lòng về lời nói đó , nhưng còn ngờ có mưu gian . ,
mới vờ mắng Cam Mộc răng : “ Sao ông dám nói những lời như vậy ? ta phải bắt nộp
cho triều đình”Cam Mộc chậm rãi đáp : tôi thấy thiên thời và nhân sự như vậy
nên mới dám trình ra , nay muốn bắt nộp triều đinh, thực không sợ chết !” Công
Uẩn nói : “ta sao lỡ tố cáo ông , nhưng sợ lời kia để lộ ra thì 2 ta cùng bị giết”. Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn : “Người trong nước
đều nói họ Lý đáng thay họ Lê , lời sấm đã thành sự thật , không thể giấu được
, chuyển họa thành phúc là lúc này đây ; Thân Vệ còn ngờ chăng ?” Công Uẩn nói
! Ta xem chí công ông không khác ý Vạn Hạnh, quả như lời nói ấy , có kế sách gì
không ? Cam Mộc rằng : “nay đang lúc trăm họ mệt mỏi , dân không chịu noi lệnh
trên , Thân Vệ nếu lấy ân đức mà vỗ về , họ sẽ vui vẻ đi theo như nước dồn về
chỗ trũng , ai có thể chặn được”. Cam Mộc
biết có sự gấp gáp , để chậm e sinh biến , bất lợi , ông nói với khanh sĩ trong
Triều , ngày hôm đó cũng họp ở triều đường , bàn rằng : nay muôn triều người có
lòng khác , dưới trên bỏ Đức , người ta oán tiên Vương hà khắc bạo . ngược ,
không muốn theo tự quân (Vua còn bé nối dõi ) mà chỉ muốn suy tôn Thân Vệ , bọn
ta không nhân lúc này lập Thân Vệ làm Thiên Tử , nếu bất chợt có biến , thì có
giữ được đầu cổ của mình không ?Do thế , họ cùng nhau dìu Công Uẩn lên làm
chính Điện , lập làm Thiên tử . Khi lên
ngôi trăm quan ở dưới sân rồng đều sụp lạy , trong ngoài đều hô “vạn tuế” tiếng
vang khắp cả triều đình .
Như
vậy là ( ta thấy) việc lên ngôi của Lý Công Uẩn : 3 nhân vật có vai trò quyết định
là Thiền Sư Van Hạnh , Chi Hậu Đào Cam Mộc và Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn
Đê . (1)
Với
Vạn Hạnh , có lẽ : ngày lên ngôi của Lý Công Uẩn là ngày hạnh phúc nhất của cuộc
đời Sư sau bao nhiêu năm đấu tranh, nó thỏa mãn được nguyện vọng của Sư , cũng
như của biết bao nhiêu vị Thiền sư tiền bối ( đât nước được đôc lập , Vua ta
làm chủ nước ta , Phật giáo cũng được phát triển và hưng thịnh cùng đất nước )
– Phật giáo không thể phát triển bên ngoài dân tộc và càng không thể hưng thịnh
khi dân tộc mất chủ quyền . Nói như nhà
Sử học Tiến sỹ Lê Mạnh Phát ; “ việc Vạn Hạnh phấn đấu đẻ yểm trợ và tạo điều
kiện cho Lý Công Uẩn làm chủ đất nước thể hiện quan điểm chính trị (nêu ở trên)
là rất tiến bộ . Quan điểm chính trị này
có thể nói đã chi phối 300 năm phát triển lịch sử tư tưởng và văn học việt nam…
(1).
Nguyễn Đê là con trai của Định Quốc Công Nguyễn Bậc . Khi Nguyễn Bậc bị Lê Hoàn giết còn đang du học
ở Bác Giang , Ông là bạn thân của Lý Công Uẩn , sau được Vua Lê phong tước
ngang với Lý Công Uẩn ( hữu Thân Vệ) .
Con cháu sau này truyền đến Hoài đạo hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn , tổ tiên
của dòng họ Nguyễn Trãi , Nguyễn Gia Miêu (các Chúa Nguyễn và Vua Gia Long)
. Truyền thuyết ở Hoa Lư thì : Lý Công Uẩn
là con rể của Dương Thái Hậu ( Vân Nga)_ Hoàng Hậu của 2 Vua Đinh Tiên Hoàng và
Lê Đại Hành . 29 năm sau khi Lê Hoàn lên
ngôi Hoàng Đế thì lịch sử Đại Việt ta đã diễn lại một cách tương tự : Lý Công Uẩn
cũng như Lê Hoàn là những Ông « Vua bầu » ( do Triều Đình suy tôn ).
Bài 10: CHIẾU DỜI ĐÔ (1010)
và
BÀI NGỰ CHẾ BI KÝ (1018) của
LÝ THÁI TỔ
Sử
sách đã chép: cuối năm 1009,Triều Tiền Lê suy yếu, được các triều thần , quân đội
và giới phật giáo ủng hộ đã suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi
vua lập ra vương triều Lý (1009 – 1225). Đó là ngày Quý Sửu mồng 2 tháng 11 năm
Kỷ Dậu (21/11/1009).
Rằm
tháng 3 năm canh tuất (1010) tại kinh đô Hoa Lư, triều đình Đại Cồ Việt chính
thức làm lễ đăng quang. Bầy tôi dâng tôn hiệu là “Phụng thiên chi lý ứng vận tự
tại thánh minh Long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình
khâm minh quang trạch chương minh vạn bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên man
duệ mưu thần trợ thánh trị tác thiên đạo chính hoàng đế”(50 chữ). Đặt niên hiệu
là Thuận Thiên (thuận theo ý trời) – Nhà vua ở tuổi 35.
Sau
khi lên ngôi, năm 1010 vua Lý Thái Tổ đưa ra một quyết đinh vô cùng quan trọng
là dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (Hà Nội) và đổi tên là thành Thăng Long.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết: Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ nhất (1010),mùa
xuân, tháng hai… Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp,không đủ chỗ ở của Đế
Vương,muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu dời đô (thiên đô chiếu).
Bầy
tôi bèn nói:”Bệ hạ vì thiên hạ lập kế lâu dài,trên cho nghiệp Đế được thịnh vượng
lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi thế ai dám không
theo” Vua cả mừng.
Mùa
thu,tháng 7,Vua và quần thần từ thhành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở Đại La, tạm
đỗ thuyền dưới thành,có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành
gọi là thành Thăng Long.
Thiên
đô chiếu (chiếu dời đô) là một bài văn gồm 214 chữ Hán (linh ứng với 214 năm cầm
quyền của “Lý bát đế”. Xin chép bản dịch nghĩa:
Chiếu
Dời Đô
Lý
Thái Tổ
“Ngày
xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần
dời đô, há phải các vua dời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm
như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời,
trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận
nước lâu dài, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng,
coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô
nơi đây; đến nỗi thế đại không dài,vận số ngăn ngủi. muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không
thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương,ở giữa khu vực trời
đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi
sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa;
dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh, xem
khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương,
đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? ".
Đây
là một bản hùng văn, mở đầu cho thể văn chính luận của nước Đại Việt ta, với ý
nghĩa và tác dụng đặc biệt của nó. Tuy
là Hoàng đế , nhưng những viẹc đại sự đã không "độc tài" dùng ý chí
(theo ý riêng mình). Việc dời đô xưa nay
không phải là vệc tuỳ tiện, nó phải đặt lợi ích quốc gia- dân tộc lên trên hết,
hợp với "ý dân" và cả "mệnh trời". - Kinh đô Hoa Lư trước sau không đáp ứng đượ
yêu cầu cơ bản này. Tiếp đó, Đức Lý Thái
Tổ chỉ rõ vị trí ưu việt của kinh đô mới, với những ưu thế thiên thời, địa lợi,
nhân hoà là "thắng địa" muôn đời cho con cháu, là "nơi hội tụ của
4 phương đất nước" nơi "tượng trưng của muôn đời đế vương".
Qua
"Thiên đô chiếu" chứng tỏ Đức Lý Thái Tổ là nhà lãnh đạo quốc gia có
tầm nhìn xa trông rộng về vận mệnh triều đại do mình khởi đầu, biết đón trước
xu thế phát triển của đất nước và lịch sử (không để lỡ bước, mất thời cơ như một
số triều đại sau này, làm cho đất nứoc tụt hậu, chìm đắm trong các cuộc đánh
nhau, nghèo nàn lạc hậu).
Lịch
sử Việt Nam ta, có lẽ sau "Chiếu dời đô" là "Bình Ngô Đại
Cáo" của Nguyễn Trãi và "Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hồ Chí Minh…được
coi như những lời truyền ngôn linh diệu, báo hiệu thời kỳ đất nước lắm anh
hùng.
Về
văn nghiệp của Đức Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn, xưa nay tưởng chỉ có"Thiên đô
chiếu" (1010). Gần đây những năm cuối thế kỷ XX, nhà Hán học Nguyễn Tiến
Đoàn (sinh năm 1932) ở Thái Bình đã phát hiện trong gia phả họ Bùi ở Vũ Tiên
(TP Thái Bình) một bài văn bia của Lý Thái Tổ viết về danh tướng Bùi Quang
Dũng, một tướng tài của Đinh Tiên Hoàng, đã có công lớn trong việc dẹp yên 12 sứ
quân và giữ yên vùng bờ biển Sơn Nam hạ; sau khi về dưỡng lão ở quê một thời
gian thì ông qua đời - đố là năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) ngày 15 tháng 6, thọ
97 tuổi.
Được
tin ông mất, Đức Lý Thái Tổ vô cùng thương xót, cho quan Bộ Lễ về làng thăng tước
cho Thượng Tướng Bùi Quang Dũng là "Trinh Quốc Công" và tổ chức lễ an
táng ông ở bản ấp Hàm Châu.
Tháng
8 năm ấy (1018) vua Lý tự tay ngự đề văn bia sử trang "Ngự chế bi ký về
thái tổ họ Bùi" sai khắc nên đá phiến cho đem về từ đường Bùi tộc để thờ.
Tháng
8 năm 1994 tạp chí Hán Nôm của Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) đã đăng toàn bộ
bài viết Nôm 148 câu của bài văn bia trên.
Quý
I - 2009, Nhà thơ Gia Dũng biên soạn cuốn "Văn chương Thái Bình mười thế kỷ"
đã tuyển cho in toàn văn (phần chữ Hán, phiên âm và bản dịch của Tiến sĩ Mai Hồng)
trong tuyển tập.
Nghìn
năm bia đá không còn. Đây chỉ là một văn
bản chữ Hán chép tay truyền lại trong gia phả Bùi tộc…độ tin cậy tới đâu còn chờ
sự xem xét của các nhà khảo cứu, nay NK xin chép lại phần phiên âm và dịch
nghĩa để bạn đọc cùng tham khảo và suy ngẫm :
Phiên
Âm
Bài
Ngự chế Bia Ký về Thái Tổ Họ Bùi Của Vua Thái Tổ Triều Lý
Trẫm
duy! Khai cơ kiến quốc chủ trương, tuy tại hồ nhân quân, nhi bạt loạn bình
nhung nỗ lực đa tư ư lương tướng. Tự cổ
giai nhiên; lý dã; diệc thế dã.
Tuy
nhiên xử phong thái hy minh chi thời nhi vi lương thần giả dị; đương truân bĩ
điên đảo chi nhật nhi vi trung thần giả nan. Huống xử nan nhi đắc kỳ trung giả
hựu vưu nan. Đắc kỳ trung nhi năng bảo kỳ toàn giả, hựu vưu nan trung chi tối
nan dã.
Như tiền Đinh triều: Đặc tiến khai quốc
Thiên Sách Thượng tướng Minh Triết Phu tử, Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng giả. Mỗ dĩ Việt địa long lưu; Nam Thiên hổ tướng,
đắc Càn Khôn chí chính khí; bẩm sơn nhạc chi tinh anh. Văn vũ siêu quần, phong nghi xuất chúng. Thiếu thời dĩ khiêm cung hiếu đễ danh văn. Tông tộc dĩ tri kỳ tất phi thường nhân
dã. Cập trưởng hiên ngang khảng khái,
háo độc kỳ thư; lân lý dĩ tri kỳ tố hữu đại chí dã. Sơ Ngô Kiều nhị Sứ quân, mỗi mỗi triệu chi,
nhi mỗ từ dĩ nông gia tử, duy hiểu điền sự, bất hiểu am thế sự, kiên bất khẳng
hành. Chân quận dĩ phục kỳ tiết tháo
dã. Hậu tòng Đinh Tiên Hoàng bình thập
nhị sứ quân, tắc long vân tế ngộ, ngô phượng phùng thì, thừa phong phá lãng;
ưng dương nhi hải ngạc trầm lân. Tây thảo
đông chinh, hổ biến nhi sơn hồ bình tích.
Thiên hạ giai xưng kỳ vi anh hùng hào kiệt hỹ. Thời Đinh Hoàng hỗn nhất thống lý cửu trùng,
mỗ dĩ Anh dực Tướng quân sung Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự, tắc Long
Chương chước thái, nhi công nghiệp hiển hỹ.
Dĩ nhi Kỳ Bố hải tặc phục khởi, Mỗ hựu sung vi Trấn Đông Tiết độ sứ. Mỗ nhất lai nhi hải tặc tất bình. Nãi thăng Đặc tiến Khai quốc Thiên Sách Thượng
tướng, tiến tước Tĩnh An hầu. Kế hữu chế
sách tặng kỳ tiên phụ vi Khải Tá hầu, tiên mẫu vi Khải Tá hầu Phu nhân. Phượng chiếu tăng quang, nhi quốc sủng cực hỹ. Khởi phi tử dĩ huân liệt vinh nhi phụ mẫu dĩ
tử quý gia? Hựu dĩ Mỗ hữu đại huân lao? Đặc tứ chi Hàm Châu thái ấp dĩ cư. Quy trù hiệp cát nhi thiên mệnh vĩnh hỹ. Khởi phi nhân dĩ địa nhi điện ấp; địa dĩ nhân
nhi đắc danh gia? Mỗ chi công liệt huân danh hách hách như tư, dương hồ tại
nhân nhĩ mục dã. Cập Đại Hành thoán vị,
Đinh Điền Nguyễn Bặc mật thư lai báo, Mỗ văn biến, tức đề binh lai nhi nhị nhân
dĩ tử tiết. Mỗ liệu kỳ độc lực tự bất
năng chi. Nãi nhập vu Trinh Thạch động,
tự thủ cô trung, tương vi hậu đồ. Kỳ
trung dũng trinh liệt,thành vi thế gian sở khoáng kiến dã. Hạnh nhi trẫm thừa thiên quyến, đại ngược dĩ
khoan, mặc tuần chí công, phủ lâm triệu thứ, chiếu thư tam đáo, nhi Mỗ vị khẳng
lai triều. Trẫm tối ái kỳ kiên trung,
nhi gia kỳ cao tiết dã. Thời nhân Bố Hải
nghịch tặc phục khởi, ích tứ xương cuồng.
Trẫm dĩ tam phiên mệnh tướng, nhi vị năng để bình. Cập mệnh Nguyễn Uy lai thảo, nhi Dũng chí tự
nhiên kinh chi ngữ; trì kiến ư tặc nhân khẩu vẫn chi trung (thời Nguyễn Uy dẫn
binh lai thảo, hải tặc phất cố, chỉ ván viết: "Chiến tướng vi thùy?
". Uy ứng viết: "Khâm sai
chinh đông Đại tướng Nguyễn Uy". Tặc
đáp viết:
"Uy
lai bất túc úy
Dũng
chí tự nhiên kinh"
Hựu
lộ gian mục đồng dao vân:
"Uy
mặc Uy, chẳng sợ chi
Có
ông Dũng đến vậy thì mới kinh"
Trẫm
hựu tri Mỗ chi uy đức, tố phu ư hải quốc dã.
Trẫm nãi khiển Nguyễn Uy tê trẫm thủ thư nhập động dĩ sự thực cáo, thả
ty từ dụ chi, nhi Mỗ thủy ứng thư để khuyết.
Trẫm tức dĩ Tân Sư chi lễ, đãi chi.
Bái hiệu viết: "Minh Triết phu tử". Mỗ nhân tiến kỳ tử Bùi Quang Anh. Trẫm toại dĩ Mỗ nguyên chức (Anh Dực tướng
quân, trấn Đông Tiết độ) Tứ chi. Mệnh xuất
trấn Kỳ Bố địa phương (trấn thủ Tổng Thống Tam đạo), tịnh mệnh đình thần tống Mỗ
phục hồi Hàm Châu ấp. Ư thị Mỗ dữ Mỗ tử
đồng hành, để xứ nhi hải tặc tức tự lai hàng.
Mỗ chi uy đức như tư, trẫm hựu ích gia hâm mộ hỹ.
Chí
kim liên Mỗ thọ cửu thập thất tuế, ư nguyệt tiền bệnh đốc. Trẫm mệnh đình thần tê dược liệu tịnh thư đặc
lai úy vấn, thả phỏng dĩ hậu sự nhi Mỗ hữu vân: "Thập bát tử" phù sấm
ngữ:”Xã tắc truyền gia, tối ái bát tự”.
Hựu vân: "Tha nhật hữu sự vu trung triều, Mỗ tôn khả sử". Mỗ chi ngôn dương dật vu trẫm nhĩ, đinh ninh
vu trẫm tâm, thả vi trẫm thần tử hậu lai giả nhất giám. Chí lục nguyệt thập nhị nhật dạ, đình thần
thượng tấu: " Vọng kiến đông nam tinh trụy". Việt thập ngũ nhật hốt kiến điệp chí cáo ai
vân: "Tiền Đinh triều khai quốc Thiên Sách Thượng tướng, Tĩnh An hầu Minh
Triết phu tử, Bùi tướng công tốt".
Trẫm nãi vũ nhiên thán viết: Thiên phương quyến ngã Lý thị, hồ cự đoạt
thử triết nhân? Nhân vi chi giảm thiện tịch lạc. Nãi mệnh đình thần tê tụ long đồng quan ngọc
quách, cẩm tú các tam sất, hoàng kim ngũ thập lượng, bạch ngân ngũ bách lượng,
tịnh điếu ngữ, để trợ tang nghi, tinh gia chế sách tặng Mỗ vi Trinh Quốc công,
hựu dĩ Mỗ sinh tiền: Cương nghị bất khuất; chính trực bất a. Nãi gia thụy viết: Cương Chính Tướng công, tịnh
truy phong Mỗ tiên khảo vi Khải Tá công, tiên mẫu vi Khải Tá công Phu nhân, dĩ
biểu Mỗ trung thành chi tâm, nhi phó trẫm hiếu hiền chi niệm.
Ô
hô! Mỗ chi hiếu trung lưỡng đắc.
Tiết
nghĩa kiêm toàn.
Thành
vi quán cổ hy văn; khoáng thế hãn kiến dã.
Trẫm dục bất hủ kỳ danh; nhi thả vi thiên hạ hậu thế nhân thần giả
giám. Cố liệt kỳ sự trạng dĩ vi chi
ký. Duy nguyện thiên địa giám Mỗ chi
trung liệt. Hựu thử Bùi gia thế thế tử
tôn anh tài kế xuất, trợ ngã Nam quân,bảo ngã Nam Quốc, tế ngã Nam dân, chính
thị quả nhân chi thâm vọng dã.
Thuận
Thiên cửu niên bát nguyệt thập nhị nhật Ngự chế
Khuông
Việt thái sư (thần) LÝ PHÁP CHÂN phụng tả
Thạch
công PHẠM CÔNG THẮNG phụng thuyên
Dịch
nghĩa
Bài
Ngự Chế Bia Ký Về Công Tích Vị Thái Tổ Họ Bùi Của Hoàng Đế Thái Tổ Triều Lý
Trẫm
cho rằng công cuộc mở nền dựng nước dù chỉ là chủ trương của bậc nhân quân,
song việc dẹp loạn bình nhung phần lớn trông cậy vào sự nỗ lực của các tướng
soái tài ba. Từ xưa đến nay đều như thế. Đó là lý và cũng là thế vậy.
Tuy nhiên ở vào thời thái bình thịnh trị,
bổn phận làm người bề tôi tốt thì dễ. .
Nhưng nếu ở vào cái thế cục bế tắc điên dảo, mà làm kẻ trung thần mới
khó. Huống chi ở vào tình thế khó khăn
mà tìm được trung thần lại càng khó. Tìm
được bậc trung thần mà người đó lại biết bảo toàn sinh mệnh mình lại càng khó
hơn nhiều.
Tỷ như chuyện vị quan: Đặc tiến Khai quốc
Thiên sách Thượng tướng, Minh Triết phu tử, Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng triều
Đinh thuở trước.
Mỗ(*)
vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là nòi hổ tướng trời Nam, là khí
thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông. Văn tài võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng. Thuở nhỏ nổi danh bởi đức tính khiêm cung hiếu
đễ, tông tộc ai cũng cho rằng Mỗ ắt sẽ là người phi phàm. Đến tuổi trưởng thành, hiên ngang khảng khái
ham đọc sách lạ (kỳ thư), làng xóm biết ngay Mỗ là người có chí lớn. Ban đầu hai sứ quân Ngô Kiều(**) từng triệu mấy
lần Mỗ đều lấy cớ là con nhà nông, chỉ biết việc đồng áng mà không tường thế sự,
kiên quyết không theo. Khắp châu quận ai
cũng nể phục tiết tháo ấy.
Sau về với Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp mười
hai sứ quân. Đó là duyên kỳ ngộ phượng đậu
cành ngô, rồng mây tế ngộ, cưỡi gió rẽ sóng khúc nào chim ưng dương cánh mà
kình ngạc mất tăm.
Oai hổ đánh đông dẹp bắc; mà cáo cầy tan
tác dấu chân. Thiên hạ đều ngợi ca là bậc
anh hùng hào kiệt. Khi Đinh Tiên Hoàng
thống nhất giang sơn một mối, bước lên chín bậc cửu trùng lấy Mỗ từ chức Anh Dực
tướng quân sung vào Điện tiền Chỉ huy sứ, kiêm Thiên sự; triều nghi rực rỡ,
công huân lẫy lừng. Thế rồi bọn giặc bể ở
Kỳ Bố lại khởi loạn, Mỗ lại được sung chức Trấn đông Tiết Độ sứ. Mỗi khi Mỗ tới thì giặc biển liền ta. Trẫm lại cho thăng lên Đặc tiến Khai Quốc
Thiên Sách Thượng tướng, tiến tước Tĩnh An hầu.
Kế đó ban sách tặng phong cho tiên phụ của Mỗ là Khải Tá hầu, tiên mẫu
là Khải Tá hầu Phu nhân.
(*)
Tức chỉ Bùi Quang Dũng mà tác giả bài ký xưng hô.
(**)
Hai sứ quân Ngô Kiều: Ngô Xương Xí và Kiều Công Hãn.
Chiếu vua ban tăng thêm vẻ sáng phương
nêu rõ sự sủng ái của quốc gia là rất mực vậy.
Đây chẳng phải bởi con có huân công oanh liệt mà cha mẹ được vẻ vang? Lại
bởi vì Mỗ có công lao lớn, nên trẫm ban thái ấp lưu làm nơi ở thuộc đất Hàm
Châu. Đó là cái điềm hợp cát của người
hiền ở vào đất tốt, thì mệnh trời sẽ được bền lâu mãi mãi. Há chẳng phải người lấy đất để bền chắc móng
nền mà chính là đất lấy người để đất nổi danh? Chiến công lẫm liệt, huân danh lẫy
lừng của Mỗ như vậy đã hiển hiện ra trước tai mắt mọi người ai ai cũng thấy. Kịp khi Lê Đại Hành cướp ngôi, Đinh Điền Nguyễn
Bặc mật đưa thư tới báo, Mỗ biến sắc tức tốc đề binh lên đường, tới nơi thì hai
người đều đã tử tiết. Mỗ liệu sức mình
đơn độc khó bề chống chọi, bèn lui vào động Trinh Thạch tử thủ, ôm nỗi niềm cô
trung, đợi thời mưu sự về sau. Tinh thần
trung dũng quả cảm ấy của Mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của Mỗ về thế
gian này. May thay trẫm được trời rủ
lòng thương mến, lấy khoan dung để thay bạo ngược, lặng lẽ thuận tình, hành sự
chí công, vỗ về trăm họ. Chiếu thư mời gọi
ba lần mà Mỗ vẫn chưa chịu về triều, trẫm rất lấy làm ái mộ đức tính kiên trung
ấy lại càng đáng khen cho khí tiết thanh cao của con người ấy. Bấy giờ có giặc lại nổi loạn ở của biển Kỳ Bố
rất ngông cuồng tàn bạo, trẫm đã ba phen khiển tướng chinh phạt mà chưa dẹp yên
được. Đến khi sai Nguyễn Uy đem quân đi
đánh thì vẫn còn nghe câu nói từ miệng giặc : 'Hễ ông Dũng đến là tự nhiên kinh". Lúc Nguyễn Uy đến, giặc chẳng màng để tâm, chỉ
có điều chúng cần biết viên tướng đem quân tới là ai thôi. Tướng Uy lên tiếng: Khâm sai Chinh Đông Đại
tướng Nguyễn Uy. Giặc liền hát câu vè:
"Uy
đến chẳng đáng sợ
Dũng
đến tự nhiên kinh"
Trên
đường lại nghe trẻ chăn trâu hát câu đồng dao:
"Uy
mặc Uy chẳng sợ chi
Có
ông Dũng đến vậy thì mới kinh"
Trẫm
lại biết thêm về uy đức của Mỗ vốn nổi danh ở miền duyên hải (hải quốc) vậy. Trẫm bèn sai Nguyễn Uy thảo thư đưa vào động
nói rõ sự thực còn dặn thêm Uy: Hãy tìm lời dụ Mỗ. Mãi tới lúc ấy Mỗ mới chịu nghe lời trẫm về
triều. Trẫm vội lấy lễ khách bậc thầy để
tiếp đãi với bái hiệu là Minh Triết phu tử.
Nhân đó Mỗ liền tiến cử người con trai của mình là Bùi Quang Anh cho Trẫm.
Trẫm lấy nguyên chức như ngày trước mà phong tặng: Anh Dực Tướng Quân trấn đông
Tiết độ sứ,phái đi trấn thủ miền đất Kỳ Bố (với nhiệm vụ Tổng Thống trấn thủ ba
đạo) lại sai đình thần tiễn Mỗ trở lại đất Hàm Châu. Đường về Hàm Châu ngày ấy Mỗ cùng người con
trai của mình là Bùi Quang Anh đồng hành.
Vừa về đến nơi thì giặc đã tự tới đầu hàng. Thấy rõ uy đức của Mỗ đến như thế, trẫm càng
tăng lòng hâm mộ.
Tới
nay Mỗ ở tuổi thọ 97 bị đốc bệnh từ tháng trước, trẫm lệnh đình thần chăm lo
thuốc thang trị liệu, viết thư ân cần thăm hỏi, lại cũng không quên hỏi han về
việc hậu sự. Mỗ có lời đáp rằng;
"Trong câu sấm Thập Bát Tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền gia thì thần
thích nhất chữ "bát", lại dặn thêm: "Ngày sau nếu triều đình hữu
sự thì trẫm có thể sai khiến sử dụng đứa cháu của Mỗ". Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai trẫm; đinh
ninh mãi trong tim trẫm! Trẫm nghĩ cử chỉ ấy của Mỗ chính là một tấm gương để
cho các tôi thần của trẫm sau này soi chung vậy. Tới ngày 12 tháng 6 đình thần dâng tấu rằng;
"Họ trông thấy phương đông nam có ngôi sao rơi, lặn tất". Qua ngày rằm bỗng có tờ điệp cáo phó tới:
"Khai Quốc Thiên Sách Thượng tướng Tĩnh An hầu Minh Triết phu tử Bùi Tướng
công triều Đinh ngày trước tạ thế!".
Trẫm bùi ngùi than thở; Trời vừa mới thương họ Lý ta mà sao vội cướp đi
một triết nhân như vậy. Nhân đó trong
triều giảm bớt một bữa ăn, bớt vui chơi.
Trẫm lệnh cho đình thần thay trẫm lo việc tang lễ, sắm cỗ quan đồng
quách ngọc; ban gấm vóc mỗi loại ba súc, vàng 50 lượng, bạc 500 lượng, cùng với
điếu văn để trợ giúp lễ nghi tang tế.
Trẫm
ban thêm chế sách tặng Mỗ là Trinh Quốc công; lại gia phong mỹ tự dựa trên đức
độ bình sinh của Mỗ: "Cương nghị, bất khuất, chính trực không a
tòng". Và ban tên thụy: Cương Chính
tướng công. Lại truy phong cho tiên khảo
(cha) của Mỗ là Khải Tá công, tiên mẫu (mẹ) là Khải Tá công Phu nhân. Để biểu dương tấm lòng của Mỗ và cũng là để bộc
bạch tấm lòng chuộng hiền của trẫm vậy.
Ô
hô! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường.
Tiết
nghĩa song toàn hai chữ.
Đó quả là điều hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ
cổ chí kim ở thế gian này. Trẫm mong cho
tính danh của Mỗ sẽ bất tử; hơn nữa nó là tấm gương cho các thế hệ bề tôi của
trẫm mãi về sau soi vào. Cầu mong trời đất
hãy chứng giám cho đức tính trung liệt của Mỗ, giúp cho con cháu nhà họ Bùi này
đời đời luôn có anh tài xuất hiện, để giúp đỡ vua nước Nam ta, bảo vệ giữ gìn
nước Nam ta, cứu giúp dân chúng nước Nam ta.
Đó
chính là điều trông đợi sâu xa nhất của quả nhân vậy.
Ngày
12 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) Ngự chế
Thái
sư Khuông Việt (thần) LÝ PHÁP CHÂN vâng mệnh chép
Thợ
khắc đá PHẠM CÔNG THẮNG vâng mệnh khắc bia
Hà
Nội ngày 17 tháng 7 năm 2008
Tiến
sĩ MAI HỒNG
Giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Phả học Việt Nam Phiên âm, dịch chú
Lời bàn của Nguyễn Khôi:
Điều
đáng lưu ý là đoạn giữa bài văn bia, vua Lý có nhắc lại lời đáp của Thượng Tướng
Bùi Quang Dũng; "Trong câu Sấm thập bát tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền
gia thì thần thích nhất là chữ "Bát"…
Lối
viết (thưa) này rất ăn nhập với các câu Sấm ký tương truyền là của Vạn Hạnh Thiền
Sư vào thời điểm Lý Công Uẩn sắp được truyền ngôi. Từ đây (căn cứ vào chỗ này) cho ta hai lý giải:
một là, đây đích thực là bài văn của Lý Thái Tổ, được Thái Sư Khuông Việt (Lý
Pháp Chân) phụng tả (vâng mệnh chép lại - Hai là, nếu là người đời sau thác lời
Lý Thái Tổ viết văn bia tuyên dương công trạng Danh tướng Bùi Quang Dũng thì
cũng là người có học vấn thâm hậu rất am hiểu Sử liệu và văn phong của Lý Thái
Tổ cùng các vị Quốc sư Vạn Hạnh và Khuông Việt thời nhà Lý mới lập nghiệp. Ngôn ngữ và giọng điệu bài "Ngự chế bi
ký" có thể xếp tiếp theo bản hùng văn "Thiên Đô Chiếu" xứng
ngang tầm thời đại "Rồng bay lên" rất chi là tương đắc, tuyệt tác.
Góc
Thành Nam Hà Nội, Ngày 19 tháng 8 năm 2009
Bài 11: VẠN HẠNH
và
BÀI KỆ "THỊ ĐỆ TỬ"
Tả Thân Vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn,
được quần thần triều đình Nhà Tiền - Lê tôn vinh lên ngôi Hoàng đế (ngày qúy sửu,
tháng mười năm kỷ dậu - 1009). Mùa thu,
tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) từ thành Hoa Lư dời Đô ra kinh phủ ở
thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên (có thể là những
dải mây vàng như hiện nay thường xuất hiện vào những ngày mùa thu ở Hà Nội),
nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long (rồng bay lên). Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức, thành
Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc Giang (Đuống) gọi là sông Thiên Đức
(cùng với sông Cầu gọi là Nguyệt Đức, sông Thương gọi là Nhật Đức). Những năm
tháng sau đó là những năm tháng xây dựng đất nước Đại Việt với hùng khí Thăng
Long mở đầu thời kỳ nghìn năm văn hiến ngày một hưng thịnh. . . Nhưng Thiền Sư
Vạn Hạnh tuổi tác ngày một cao đến ngày rằm, tháng năm, năm Thuận Thiên thứ mười
sáu (1025), Sư không bệnh , gọi học trò lại thuyết kệ:
Thị
Đệ Tử
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm
vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh
suy như lộ thảo đầu phô
Nghĩa
là:
Bảo
(dặn) học trò
Thân
như chớp lóe có rồi không
Cây
cối xuân tươi, tiết thu lại héo
Đã
tu đến trình độ Nhậm vận thì không còn sợ hãi trước sự thịnh suy dời đổi
Thịnh
suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ
Tạm
dịch:
Bảo
học trò
Thân
như ánh chớp có rồi không
Cây
cối xuân tươi, thu héo cong
Hiểu
vận thịnh suy không sợ hãi
Như
trên đầu cỏ hạt sương trong
Thuyết
kệ xong , Sư còn tâm sự với các đệ tử" các con muốn đi đâu, về đâu?, thầy
không lấy chỗ trụ để trụ , không nương vào chỗ không để trụ " - Sư nói
xong giây lát thì tịch, thọ gần 95 tuổi (ta).
Bài
thơ thị tịch này là một trong những bài thơ thiền nổi tiếng nhất của thơ ca Việt
Nam, nó đúc kết cả một triết lý hành động mà suốt đời Vạn Hạnh theo đuổi.
"Kệ"
là loại thơ của Phật, là một thể văn ở trong kinh Phật(người ta thường nói kinh
kệ là thế) đó là lời tán tụng, răn bảo, dặn dò, khuyên nhủ - diễn dịch ý từ
trong kinh ra "vận" với ý tưởng của người nói (viết ) là một bài văn
(thơ) do Sư viên tịch để lại.
Bài
kệ "Thị đệ tử" của Vạn Hạnh, kẻ đi qua cầu lịch sử quan 5 triều đại
khác nhau từ Dương , Ngô, Đinh, Lê cho đến Lý. Cuộc đời của Thiền Sư đã kinh
qua những cảm nhận của một nhà hiền triết, trí thức hàng đầu của thời đại. Sư
vào đời bằng Nho , ở lại với đời bằng Lão và đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo.
Ở Sư đó là sự tích hợp được tinh hoa của Nho-Phật-Lão giúp Thiền Sư hóa hợp được
Tu và Hành gói trong một bản thể yêu mình là yêu người , tự giác là giác tha là
thế.
Bài
kệ tuy chỉ có bốn câu tứ tuyệt (ở thời điểm thế kỷ thứ X) ấy ở xứ ta chưa có mấy
ai đạt như vậy. Bài thơ với 28 chữ, bốn câu hàm xúc vậy thôi mà chứa đủ cả triết
cả thơ nắm hết được bí quyết của tạo hóa, hiểu được lẽ đời. Nói theo cách bây
giờ là Nó có tư tưởng khai sáng, chỉ đạo mở ra một thời đại mới cho dân tộc.
Câu đầu là một cái nhìn về chính bản thân con người xuất hiện trên mặt đất này
đúng như một ánh chớp so với thời gian của vũ trụ thì chỉ là một cái lóe lên rồi
tan biến(từ cát bụi trở về với cát bụi, từ hiện hữu lại tan biến vào cõi hư
không) hình tượng thơ "tia chớp" vừa diễn tả tính tạm bợ (sống gửi )
ngắn ngủi của kiếp nhân sinh, đồng thời nó cũng biểu thị một nét cao sang có
tính thần thánh của tia chớp vừa bừng bừng lóe sáng cả góc trời (mà sau này thi
sỹ Xuân Diệu đã ao ước"thà một phút huy hoàng rồi chợt tối") thật là
tâm đắc. Con người là vậy, nó vừa
"bi" vừa "hùng" ở trên thế gian này.
Câu
thứ 2 là một sự khái quát hóa về thế giới vạn vật của "đáy đĩa mùa đi nhịp
hải hà" nói theo cách nói của thi sỹ Nguyễn Xuân Sanh , đây là cái nhìn(đã
hiểu được) quy luật phát triển của thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh ta
(tươi - héo, sinh - tử là một tất yếu của sự sống). Cách nay 1000 năm mà hiểu
được như vậy là rất duy vật, rất biện chứng không phải là dễ!
Câu
3, câu 4 là cái nhìn về quy luật phát triển của xã hội. Xã hội nào, triều đại
nào (gia tộc nào) có thịnh rồi cũng có suy (một lẽ biến đổi của âm dương). .
. câu 3 là câu "chuyển" theo
luật của Đường thi là câu quan trọng, chuyển là chuyển sang tứ mới, là câu đột
biến. . . ở đây là "Nhậm vận thịnh
suy" xưa nay các bản dịch thường bỏ qua hai chữ "Nhậm vân" là do
không hiểu hoặc không dịch nổi câu này?
Nói
theo Thiền Sư Thích Mãn Giác thì: Bài kệ "Thị Đệ Tử" với 2 chữ đã gói
ghém cái bí quyết liễu ngộ, thành đạt Bồ Đề , ấy là cái bí quyết " Nhậm vận"
của Sư. Theo Phật giáo thì thành quả
hành Thiền đã được trình bày bóng bảy qua mười giai đoạn trong bức tranh chăn
trâu (mục ngưu đồ) gồm mười cấp hành thiền là : Tầm ngưu, kiến tích , kiến ngưu,
đắc ngưu, mục ngưu, kỵ ngưu, vọng ngưu tồn nhân (cấp 7 : Nhậm vận ) nhân ngưu cộng
vong, độc chiếu (trở lại cội nguồn), song dẫn (xuôi tay nhập trần).
Ở
Vạn Hạnh, hình như Sư đã tự đánh giá mình tu mới đạt tới cấp 7 của Thiền, còn 3
cấp nữa, Vạn Hạnh chưa đạt tới 3 cấp cuối cùng của Thiền là: tương vong, độc
chiếu, và chân như. Phải chăng Sư chỉ muốn
dừng lại cấp 7 của Thiền để Đạo và Đời hòa hợp, để có điều kiện cùng Triều Đình
(phò Vua) và đồng bào (giúp đỡ chúng sinh) để cùng lo cái lo của thiên hạ, đưa
dân tộc ta vào kỷ nguyên Đại Việt độc lập - Thăng Long cất cánh rồng bay mở ra
nghìn năm văn hiến.
NGUYỄN KHÔI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét