VỀ
LẠI CHỢ GIỒNG
Nhiều năm đi biệt không tăm
tích
Về chẳng còn ai nhận được
ta
Đường cũ thay tên nhà đổi chủ
Lối vào kỷ niệm… biết đâu
là
Chợ Giồng đó buổi ta thăm lại
Ở ấp Đông mà nhớ ấp Tây
Ở ấp Thượng mà thương ấp Hạ
Lòng ta bởi thế cứ vơi đầy
Ta nhớ Vĩnh Bình thương Vĩnh Lợi
Chưa nguôi ngày cũ tuổi thơ hồng
Chiều nay trở lại bờ sông vắng
Biết kể cùng ai chuyện đục
trong
Trôi giạt đâu rồi bao bạn lứa
Thời tươi thắm nhứt mái trường
thơ
Đứa còn đứa mất ngàn dâu biển
Kí ức mù giăng lớp bụi mờ
Tóc thề ngả hẳn sang màu bạc
Bạn học giờ thành U60
Ai đứng bên nhà bồng cháu nội
Ngỡ vầng mây bạc… lặng lờ
trôi
Phố mới dựng trên nền chợ
cũ
Toà ngang dãy dọc Chợ Giồng
ơi!
Đường thi xưa Hạ Tri Chương
cũng
Về lại thăm quê phải hỏi người!
Trần Ngọc Hưởng
LỜI BÌNH CỦA CHÂU THẠCH
Nhà thơ Trần Ngọc Hưởng sinh ra ở xã Tân
Thới thuộc cù lao Lợi Quan (nay là huyện Tân Phú Đông) giữa bộn bề sông nước Tiền
Giang.
Trươc năm 1975 nhà thơ là sinh viên Đại Học
Sư Phạm và Văn Khoa Sài Gòn. Thời kỳ nầy nhà thơ đã cọng tác với một số tờ báo
văn học ở miền Nam. Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm sau mùa hè đỏ lửa 1972, nhà thơ
làm nghề thầy giáo suốt 40 năm và viết văn làm thơ, đã xuất bản 9 tác phẩm.
Trần Ngọc Hưởng tâm sự rằng; “Chợ Giồng là
chợ Giồng ông Huê, quận lỵ Hòa Đồng xưa, thị trấn Vĩnh Bình, nay của huyện Gò
Công Tây, tỉnh Tiền Giang, cách Tân Thới quê tui mươi cây số. Năm chín tuổi
tránh giặc giã tui qua đây học cuối lớp nhì và trọn năm lớp nhứt.Nơi đây có các
ấp: Thượng, Hạ , Đông và ấp Tây.”
Kỷ niệm về tuổi thơ là kỷ niệm thắm thiết,
nhớ rất lâu dài. Khung trời tuổi thơ thường hiện ra nhiều trong những giấc ngủ,
làm cho ta nôn nao muốn quay lại để nhìn lại cảnh vật, để thăm lại người quen,
để hít lại không khí của một thời xa xưa mà kỷ niệm còn đọng hoài trong ký ức của
ta. Cũng bởi vì vậy mà nhà thơ Trần Ngọc Hưởng đã quay lại chợ Giồng, và đem đến
cho ta một nỗi buồn đúng là “hồn thu thảo, bóng tịch dương”, nhưng không phải dấu
tích của một hoàng thành xiêu đổ như thơ bà Huyện Thanh Quan, mà là dấu tích của
một “quê hương chùm khế ngọt” trong tâm hồn tác giả.
Khổ thơ đầu, Trần Ngọc Hưởng đã đem đến
cho ta sự lạc lỏng tựa như Từ Thức ngày ấy đi xa ngàn năm, từ xứ tiên quay lại
trần gian:
Nhiều năm đi biệt không tăm
tích
Về chẳng còn ai nhận được
ta
Đường cũ thay tên nhà đổi chủ
Lối vào kỷ niệm… biết đâu
là
Đọc khổ thơ ta biết ngay tâm trạng thất vọng
của tác giả, tâm trạng quay về háo hức mà sự đón chào thì lạnh nhạt. Người xưa
không còn một ai, đường thay tên nhà đổi chủ, cho đến lối vào kỷ niệm cũng
không biết là có đúng hay không, tất cả vẫn còn nhưng tất cả quay lưng, tất cả
không có cảm xúc quen thân, khiến người quay lại ngỡ ngàng như nhìn vào khuôn mặt
ai đó, giống người yêu của mình mà không phải người yêu của mình.
Bốn câu thơ chỉ bình dị thôi, rất dễ hiểu,
nhưng bốn câu thơ truyền cảm xúc cho hàng vạn người bỏ quê hương ra đi, xa chốn
cư ngụ một thời yêu mến, khi quay lại thấy niềm vui không như mong muốn, và khi
rời đi lại, lòng bâng khuâng, nặng nề như một nỗi đau nhẹ quyện mãi trong
lòng.
Qua khổ thứ hai, Trần Ngọc Hưởng diễn tả sự
nôn nóng háo hức trong lòng mình, muốn thăm lại hết những chốn xưa, như muốn gặp
lại tất cả niềm thân yêu mà mình ấp ũ trong lòng, qua năm tháng trở thành nhu cầu
cấp bách chất chứa trong con tim:
Chợ Giồng đó buổi ta thăm lại
Ở ấp Đông mà nhớ ấp Tây
Ở ấp Thượng mà thương ấp Hạ
Lòng ta bởi thế cứ vơi đầy
Khổ thơ thứ nhì cho ta hiểu, mặc dầu cảnh
xưa đã đổi thay, gần như trở thành xa lạ, nhưng niềm vui trong lòng tác giả vẫn
dậy lên bồng bột khi “Ở ấp Đông thì nhớ ấp Tây/Ở ấp Thượng mà thương ấp Hạ”. Niềm
vui đó làm cho tác giả lúc “vơi” lúc “đầy” tùy theo sự còn hay mất, sự thay đổi
ít hay nhiều của cảnh vật năm xưa mà tác giả gặp lại bây giờ. Điều nầy thật dễ
hiểu, bởi ai quay lại chốn xưa mà lòng không rung động.
Dầu chốn xưa có đổi thay nhưng lòng ta đâu
có đổi thay. Con đường đã thay tên nhưng con đường vẫn còn đó, ngôi nhà đã đổi
chủ nhưng ngôi nhà vẫn còn đây, người không quen nữa nhưng người đang sinh hoạt
trong khung trời cũ, tất cả đều đem đến cho người quay về niềm vui của sự đoàn
tụ và nỗi buồn của sự mất mát mà không ai tránh khỏi được khi trở về sau tháng
năm dài xa cách.
Qua khổ thơ thứ ba và thứ tư, là tiếng kêu
trong lòng tác giả. Nỗi sầu ấp ũ trong lòng bao lâu nay, nhân cơ hội cảnh cũ đổi
thay, người xưa không còn, tác giả thốt lên lời thở than buồn não nuột:
Ta nhớ Vĩnh Bình thương Vĩnh
Lợi
Chưa nguôi ngày cũ tuổi thơ hồng
Chiều nay trở lại bờ sông vắng
Biết kể cùng ai chuyện đục
trong
Trôi giạt đâu rồi bao bạn lứa
Thời tươi thắm nhứt mái trường
thơ
Đứa còn đứa mất ngàn dâu biển
Kí ức mù giăng lớp bụi mờ
Trở lại bờ sông vắng, nhớ những người bạn
tuổi thơ, nhà thơ than: “Biết kể cùng ai chuyện đục trong”. Chuyện đục trong là
chuyện thăng trầm của cuộc đời không xảy ra tại nơi đây, nhưng nhà thơ ao ước tại
nơi đây có bạn xưa để tâm sự.
Ở khổ thơ trên, nhà thơ hướng suy tư về cuộc
đời chìm nổi bao nhiêu năm của mình. Vì sao? Vì nhà thơ đang đứng trước một
khung trời bình an mà nhà thơ đã hưởng trong tuổi thơ ngây. Bây giờ, nhà thơ muốn
kể cho nghe những năm lưu lạc của mình, nhưng cảnh củ xa lạ còn người xưa thì
không còn nữa. Cho nên câu thơ “Chiều nay trở lại bờ sông vắng/Biết kể cùng ai
chuyện đục trong” khơi gợi lên sự cô đơn của tâm hồn trước khung cảnh bờ sông vắng
vẽ, làm cảnh và tình thấm lạnh vào hồn, cho ta nỗi buồn mênh mang, điệp điệp của
nước và nỗi ưu tư thầm lặng của người.
Ở khổ thơ dưới nhà thơ cất tiếng than về sự
vô thường trong kiếp sống. “Thời tươi thắm nhất mái trường thơ” không còn nữa,
bạn bè đứa còn đứa mất như chịu biến động của cả ngàn năm bãi biển hóa nương
dâu, ký ức cũng bị lu mờ dưới lớp bụi thời gian. Bốn câu thơ là nỗi bi quan chứa
đọng nỗi nhớ nhung, tiếc thương, bày tỏ một cõi lòng đông tuyết, bày tỏ cả dòng
sông ký ức của nhà thơ đang chảy trước khung trời quá khứ, với sự cô đơn tận
cùng, với sự chiêm nghiệm lẽ vô thường thấm thía trong con tim mình.
Bước qua khổ thơ áp chót, trần Ngọc Hưởng
chợt nhớ đến mình đã ở tuổi 60, chợt hoài niệm về người con gái ở tuổi còn thơ
chưa yêu, cũng có thể đã yêu mà chưa biết:
Tóc thề ngả hẳn sang màu bạc
Bạn học giờ thành U60
Ai đứng bên nhà bồng cháu nội
Ngỡ vầng mây bạc… lặng lờ
trôi
Bài thơ đến đây, nhờ khổ thơ nầy mà trở
nên man mác, tình yêu phơn phớt nhưng nhớ mãi không thôi chắp đôi cánh cho bài
thơ bay vào không gian tinh khôi, trong trắng, đánh động tâm hồn những ai đọc
thấy, đều liên nghĩ đến tuổi thơ của mình cũng có những bóng dáng đáng yêu đáng
nhớ và một chút đáng buồn như hình ảnh “Ai đứng bên nhà bồng cháu nội/ Ngỡ vầng
mây bạc…lặng lờ trôi”. Câu thơ không nhắc đến tóc bạc màu, chỉ nhắc dáng ai như
vầng mây bạc, vầng mây bạc đó lặng lờ trôi, lặng lờ trôi trong cuộc đời và trôi
trong nỗi nhớ cúa thi nhân. Câu thơ đẹp làm dáng người năm xưa trở nên thi vị,
như là hình tượng của sự phôi pha, của màu thời gian nhuộm lên con người, tựa
như nhuộm lên vầng mây bay trong không gian vô định.
Bình về hai câu thơ trên, nhà thơ ZuLu DC
đã viết:
“Ai đứng bên nhà bồng cháu nội
Ngỡ vầng mây bạc ..... lặng lờ
trôi”
“Chữ
“ai” đa đoan, duyên nợ. Chữ “ai” hờ hừng, đáng thương hay đáng ghét đây - chữ
ai này nó gieo vào người đọc sự tò mò, ai là cô hàng xóm, là bạn học hay người
yêu mà “Tóc thề ngả sang màu BẠC” , màu bạc làm tác giả “Ngỡ vầng mây BẠC”. Dụng
hai lần chữ BẠC trong một khổ thơ thì nhất định có lý do: bạc bẽo bạc tình,
nghĩa là “AI” chính là người yêu năm xưa của chàng.
Hai
câu thơ độc đáo, vượt lên “Hồi hương ngẫu thư “ của Hạ Tri Chương xưa!”
Tác giả cho biêt đến chợ Giồng hồi còn 9
tuổi, hai năm sau ra đi, thì tình sâu
đậm hay sự bạc tình, bạc bẽo chắc không có. Thế nhưng với một đứa bé có tâm hồn
thi nhân, thì dầu 9 tuổi sự rung cảm của quyến luyến tự nhiên hay rung cảm của
ái tinh buổi sơ khai đã có trong hồn. Tác giả dùng chữ “Bạc” trong thơ ở tuổi
60, chữ bạc nầy dầu thật hay là hư cấu thì nhận định của nhà thơ ZuLu DC vẫn
chính xác, bởi câu thơ độc đáo mang nhiều ý nghĩa, nói hộ cho chúng ta, những
người có một “ai” nào đó không bạc tình cũng bạc tóc mà dáng xưa còn ở mãi
trong lòng.
Qua khổ cuối bài thơ, Trần Ngọc Hưởng mô tả
sơ về chợ Giồng ngày nay. Nhà thơ nhắc lại bài thơ của một thi nhân thời xa xưa
ngàn năm trước, để nhấn mạnh cái lẽ vô thường luôn luôn xảy ra, như một lời an
ũi cho mình, cho người, làm vơi đi bao nhiêu trăn trở vì những đổi thay xảy ra
trước mắt, hầu cho cõi lòng dịu xuống khi quay bước ra về, bỏ lại chốn xưa
trong tương lai sẽ còn thay đổi nhiều hơn thế nữa:
Phố mới dựng trên nền chợ
cũ
Toà ngang dãy dọc Chợ Giồng
ơi!
Đường thi xưa Hạ Tri Chương
cũng
Về lại thăm quê phải hỏi người!
Khổ thơ nhắc đến Hạ Tri Chương, một thi
nhân nỗi tiếng thời Đường, để lại cho đời bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tựa đề là
Hồi Hương Ngẫu Thư mà Trần Trọng Kim đã dịch ra quốc âm như sau:
Về Quê Tự Dưng Viết
Bé đi, già mới về nhà,
Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng
thưa.
Trẻ con trong thấy hững hờ,
Cười ồ, hỏi khách lại từ
phương nao.
Tất nhiên tâm sự người xưa và Trần Ngọc Hưởng
ngày nay thật giống nhau. Bé đi, già mới về, và chắc chắn Hạ Tri Chương thuở ấy
cũng như Trần Ngọc Hưởng ngày nầy: “Về thăm lại quê phải hỏi đường”. Câu thơ cuối
khẳng định quy luật của trời đất, tất cả sẽ lui về quá khứ và quá khứ sẽ tồn tại
trong tâm hồn, còn mọi vật thì vô thường, sẽ biến đổi với thời gian.
Bài thơ “Về Lại Chợ Giồng” của nhà thơ Trần
Ngọc Hưởng là tâm sự một cuộc trở về, lời thơ bình dị, nhẹ nhàng, thế nhưng từ
tâm sự đó, đã mang về cho mỗi người chúng ta một khung trời quá khứ của mình, một
tuổi thơ ngây của mình, để yêu, nhớ và trân trọng những tháng ngày ta có. Những
tháng ngày đó không bao giờ có nữa cho dẫu ta đi tìm khắp trên thế gian nầy
./.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét