THƠ CÁT DU CÓ MA KHÔNG ?
Thưa rằng, trong thơ của nhà thơ nữ Cát Du có rất nhiều ma. Ta sẽ cùng nhau khảo sát để xem thơ Cát Du có loài ma nào trong các hệ ma sau: ma lực, ma bút, ma trận, ma thuật, ma xó, ma trơi, ma men, ma túy, ma-ki-ê (maquiller), ma-măng (maman), ma-ra-tông (marathon)…
Cổ
nhân bàn về cái rốt ráo của thi ca, từng nói: “Thi trung hữu qủy” (trong thơ có
qủy thần). Thơ muốn hay, phải có qủy thần núp trong câu chữ để mê hoặc người đọc;
mà qủy với ma thì “người với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”, “nhất
qủy nhì ma thứ ba học trò”.
Xem
ra, thơ muốn cuốn hút người đọc, dứt khoát phải có ma nhập vào câu chữ. Bản chất
của văn học là xúc cảm được truyền đạt thông qua ngôn từ, hình tượng, hình ảnh
đa ngữ nghĩa. Văn học mang đến cho người đọc nỗi ám ảnh khôn cùng của sự biểu
tượng muôn mặt. Thế mà, văn học ta, từ thời du nhập phương pháp sáng tác hiện
thực xã hội chủ nghĩa, trớ trêu thay, lại rất sợ ám ảnh biểu tượng; nên nhà văn
nào bị quy chụp “ biểu tượng hai mặt” là coi như tiêu đời. Bản chất của văn học
là biểu tượng muôn mặt. Từ độ văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa xua đuổi sự biểu tượng muôn mặt ra khỏi câu chữ, cũng có
nghĩa là thi văn đàn tìm mọi cách xua đuổi ma qủy ra khỏi chữ nghĩa thi ca.
Một
nền thơ vắng bóng qủy thần, vắng bóng những con ma. Những câu nói dài dòng, lẩm
cẩm đơn nghĩa, nói toẹt ra như những câu nói thường nhật, xuống dòng liên tù tì
được gọi là thơ, được xưng tụng bằng giải thưởng này giải thưởng nọ khiến ma
càng khiếp hãi mà bỏ trốn các nhà thơ theo trường phái “chân chân chân, thật thật
thật” (Xuân Diệu).Cho nên khi đọc thơ Cát Du, thấy có ma, chúng tôi cả mừng, hi
vọng ma đã hết giận hờn mà trở lại cứu nền thơ.
Cuối
năm 2004 đầu năm 2005 ông Nguyễn Quốc Nhân – chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh
Bình Dương và nhà thơ Trần Bình Dương – tổng biên tập báo văn nghệ Bình Dương
có nhờ chúng tôi đọc chung khảo ngành thơ cho giải thưởng văn học nghệ thuật Huỳnh
Văn Nghệ lần thứ ba (2000-2005). Cát Du tham dự giải thưởng của tỉnh nhà bằng tập
thơ đầu tay của chị : tập “ Cảm”. Trong dự tính trao giải do ban sơ khảo chấm,
thấy đề tập “ Cảm” của Cát Du được xếp giải ba hoặc giải tư. Sau khi đọc tập
thơ của Cát Du, chúng tôi đã trao đổi với ban lãnh đạo Hội văn nghệ Bình Dương
và ban sơ khảo; rằng đây là tập thơ hay nhất của giải này, đề nghị xếp giải nhất.
Chúng tôi còn nhấn mạnh: tập “Cảm” của Cát Du có thể nói là tập thơ hay nhất của
năm 2004 xét trên bình diện thơ cả nước. Đề nghị của chúng tôi đã thuyết phục
được tỉnh Bình Dương. Trong các tác phẩm của toàn ngành văn học nghệ thuật của
tỉnh tham gia giải thưởng, cuối cùng chỉ có một tập thơ “Cảm” của Cát Du được xếp
hạng nhất giải văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ tỉnh Bình Dương lần thứ ba
(2000-2005).
Chúng
tôi rất vui mừng thưa với bạn đọc, thơ Cát Du có rất nhiều ma : ma chữ, ma bút,
ma lực, ma trận… Xin trích bài “Con diều” trang 82, tập “Cảm” (Hội văn học nghệ
thuật Bình Dương xuất bản 2004) :
“Em
như con diều bị đứt dây
Chúi
nhủi giữa từng trời
Không
biết tựa vào đâu
để ngã”
Chừng
như trái tim nữ thi sĩ hóa thân vào vào con diều đứt dây, chao đảo, chúi nhủi
trên khoảng trời trang giấy, trên khoảng trời vô biên của tâm hồn người đọc,
không còn khả năng ngã xuống đất của mặt phẳng trang giấy. Khi bị đứt dây, con
diều như đưa trẻ con rơi khỏi vòng tay mẹ, chới với giữa trời, thèm được ngã,
nhưng không còn điểm tựa. Chợt nhớ Archimèdes từng tuyên bố trong thời cổ Hi Lạp
rằng: “hãy cho tôi một điểm tựa ngoài trái đất, tôi sẽ đẩy được trái đất chuyển
dịch theo ý mình”.
Con
diều bị đứt dây trong thơ Cát Du đang thèm được ngã, thèm một điểm tựa là trái
tim người đọc. Hi vọng, thơ Cát Du, trong niềm u uẩn bơ vơ của tâm hồn đứt dây
chúi nhủi cô đơn trên trời, sẽ tìm được xúc cảm của bạn đọc để ngã xuống trong
ám ảnh khôn nguôi.
Hình ảnh con-diều-kiếp-người chao đảo trong vũ
trụ hư vô luôn luôn là nỗi ưu tư xao động của nữ thi sĩ. Hạnh phúc được bay
lên, chao liệng như chim trên bầu trời danh vọng quả là ước mơ của nhiều người.
Tuy nhiên, tâm hồn con người sẽ hạnh phúc hơn nếu đang chơi vơi trong hư ảo được
ngã xuống thực tại. Chừng như khi con diều thực đấy mà ảo đấy tìm được tình yêu
của gió để sa… ngã. Cát Du chợt hóa thân vào một từ “em” dịu nhẹ mà tìm cách
đánh đắm mình trong cơn lốc tình yêu qua bài “Gió thổi” (trang 22) :
“Gió
thổi về em bốn phía
Em
không cách gì trốn khỏi gió đâu
Gió
thổi vào em phần phật
Như
bão tình vồ vập-môi anh
Gió
có mùi hương của biển
Mùi
tinh khiết của hoa
Mùi
thơm lừng của rượu
Và
đôi khi
Một
chút hương của điếu xì gà”
Bài
thơ chỉ có chín (09) câu mô tả trận bão tình do “môi anh” rót hết vào “em”. Cái
hay của bài thơ nằm trong câu kết. Bài thơ tuy có con ma men “ mùi thơm lừng của
rượu” tham dự nhưng con ma trận (kiệm lời, sắp xếp câu chữ sao cho không thừa
không thiếu) đã khiến “hương vị của điếu xì gà” trong môi anh, miệng anh thổi hết
hương hoa của biển trời vào thân xác và linh hồn em. Đây là bài thơ nữ thi sĩ tả
tình, thậm chí tả cảnh làm tình của đôi trai gái, rất nồng nàn, gợi cảm, rất
sex mà vẫn rất ý nhị, rất văn hóa vậy.
Tâm
hồn nữ thi sĩ tưởng như con diều đứt dây được hạnh phúc trong vòng tay cuồng
nhiệt của gió, rốt cuộc, gió mệt nhoài ngủ lịm, diều rơi xuống rồi, nằm trong
vòng tay tình yêu của đất rồi mà con diều ấy, em ấy, thân xác ấy và tâm hồn ấy,
sau cuộc làm tình của diều-gió ấy, vẫn “ngã phịch xuống chân tường”. Mấy chục
năm nay, chúng tôi chưa từng đọc được bài thơ nào hay như bài thơ “ Thít chặt”
của Cát Du nói về bi kịch tình yêu trai gái :
“Em
thít chặt vào anh
Tưởng
không gì lèn qua được
Vậy
mà
Có
một hạt cát đã lèn giữa chúng mình
Hạt
cát lớn thành viên gạch
Viên
gạch hóa thành bức tường
Bức
tường hóa ra Vạn lý
Cứu
em !
Em
không cách gì bíu anh cho được
Em
rơi
Ngã
phịch xuống chân tường”
Mối lạt tình yêu đã “thít chặt” hai thân xác,
hai tâm hồn trong cuộc tình chất ngất hạnh phúc, tưởng là mãi mãi không có gì
chia lìa đôi lứa, tưởng rằng diều đã tan vào gió, em đã tan vào anh, ai ngờ số
phận chơi khăm, vẫn lèn giữa hai ta một hạt cát chia lìa.
Tưởng
gió xì gà, gió mang mùi rượu chát thổi ra từ đôi môi người đàn ông bão lốc ấy
đã dìu, đã uống, đã “nhắm” con diều cô đơn trong bữa tiệc hạnh phúc; nhưng chạm
đỉnh thì diều kia đã nhìn thấy vực thẳm mất rồi. Con người vừa hoài thai trong
bụng mẹ, tạo hóa đã chơi khăm, lén bỏ vào bào thai kia một hạt cát của sự chết.
Chào đời, sự sống lớn lên, con người lớn lên thì sự chết như một hạt cát trong
thân xác kia cũng lớn lên.
Hạt
chết kia sẽ có ngày lớn trùm sự sống, đưa con người trở lại trò chơi sinh diệt
tạo hóa mà thành hư không. Hóa ra, cái “thít chặt” kia, hạnh phúc kia, bão tình
môi anh kia tưởng rằng đã chiến thắng, đã vô địch, nào ngờ số phận vẫn lèn vào
giữa hai ta hạt cát siêu bé , siêu chia lìa, siêu phá đám kia một cục gạch, một
bức tường, một vạn lý…
Con
diều đang hạnh phúc trong bão tình của gió đã bị gió buông rơi, đành “ngã phịch
xuống chân tường”…Hèn gì, ngày xưa, Xuân Diệu từng viết: “Em mãi là em anh mãi
là anh ? Có thể nào qua được vạn lý trường thành ?”.
Bản
thể cô đơn của vũ trụ chính là hình ảnh của con người ngơ ngác trên mặt đất.
Chúng tôi xin lấy bài thơ “Củi than cùng rét” của mình (TMH) để minh họa cho
bài thơ trên của Cát Du:
“Chúa
ạ lâu rồi con mới rét
Chúa
mới vùi con giữa gối chăn
Con
như thanh củi lăn vào bếp
Yêu
đến thành than rét vẫn hàn”
Anh
là thanh củi cô đơn, được lửa tình em đốt cháy. Anh sướng quá mà sáng lên, nóng
lên, tỏa nhiệt ngời ngời, mà thăng hoa nổ lốp bốp reo mừng hạnh phúc. Nhưng khi
qua cơn nứng-lửa, em thải anh ra khỏi lò tình, anh không còn là củi nữa, anh chỉ
còn là loài than thôi.
Mà
than thì lại càng rét hơn thân phận củi. Hóa ra, qua lửa tình yêu, củi cô độc
hóa thành than cô đơn, cả hai cùng chết… rét.
Bài
thơ trên của Cát Du làm tôi vô cùng kinh khiếp hạt cát bé nhỏ nhoi đang lớn lên
giữa các mối quan hệ con người. Cát ngủ là sa mạc, thức dậy nổi giận thành bão
cát từng phủ lấp nhiều nền văn minh trên trái đất. Làm sao rửa sạch, phủi sạch
cát bụi khi chính con người được sinh ra từ cát bụi : “ Rồi cát bụi lại trở về
cát bụi” (Kinh Thánh).
Hèn
gì người xưa lấy cát bụi mà đặt tên thế giới này : trần gian (trần = cát bụi =
bụi trần = trần cấu). Mới hiểu vì sao giáo sư dạy triết ở Sài Gòn xưa là ông Trần
Bích Lan đã lấy cát của Chúa Trời để đặt bút hiệu Nguyên Sa cho thơ mình. Và
người đàn bà Bình Dương Phan Kim Dung,
cũng thuộc nòi cát bụi dám cả gan lấy hạt cát rong chơi để làm bút danh Cát Du,
đã viết được một bài thơ về bi kịch tình yêu do cát sinh ra: “Thít chặt” đầy xúc
cảm, đầy tư tưởng sâu xa hay là thế.
Cứ
tưởng con diều cô đơn kia, thân phận tình yêu của người đàn bà từng chúi nhủi,
chao đảo lơ lửng con cá vàng trên trời gió táp mưa sa kia đã bị hạt cát xô đẩy
xuống chân tường “ngã phịch xuống chân tường” , được tường cho cư trú dưới chân
mình, đặng sống chết cô đơn gửi hồn vía dưới chân tường thế là yên, là xong một
kiếp người.
Ai
dè chân tường kia, đường cùng kia cũng từ chối “em yêu”, chân tường hủi thế vẫn
làm cao xua đuổi “ em yêu” :
“Vết
nứt ở chân tường
Có
một vết nứt ở chân tường
Bao
giờ em cũng nhận ra có một vết nứt ở chân tường
Vào
phút giây trọng đại
Vào
những tích tắc mà con người ta không thể nào chữa được
Những
hỏng hóc của mình
Dù
rất nhỏ
Chỉ
như
Một
vết nứt ở chân tường”
(Vết nức ở chân tường – tr. 13)
Chao
ôi là kiếp người, một hạt cát rong chơi, bị tình yêu và niềm cô đơn, bị nỗi chết
và hư vô đuổi bắt, bị dồn đến chân tường rồi mà chân tường kia, đường cùng kia
còn xua đuổi, còn xuất hiện một vết nứt ngay dưới chân tường. Vết nứt chân tường
đang dần há miệng chờ sung, chắc chắn sẽ học theo phép lớn dần lên của hạt cát
qủy thần nọ mà đổ sụp lên “em yêu”, đổ sụp lên thế giới này như một công đoạn
cuối cùng của Chúa Trời trong ngày tận thế.
“Tồn
tại hay không tồn tại”, sự hoài nghi triết học của chàng Hamlet xưa giờ vẫn còn
day dứt thi ca Cát Du. Tâm hồn nữ thi sĩ chừng như vẫn còn bị sự cô đơn truy nã
tận sào huyệt của hạnh phúc. Chả thế mà, trong bài thơ “Thít chặt” viết về nỗi
kinh hoàng trước hạt cát lèn giữa hai thân xác yêu đương, Cát Du đã thất thanh
kêu “cứu em”.
Có
ai cứu nổi một hạt cát rong chơi giữa trời ? Hình như chúng ta đến thế giới này
để kêu cứu, để tự cứu và cứu nhau, để tìm một chân tường, tìm một đường cùng mà
tồn tại ? Nhưng than ôi, Cát Du ơi, bạn đọc ơi, đến cả đường cùng cũng từ chối
không cho chúng ta cư trú, đành phải núp vào thi ca, núp vào tôn giáo, nhờ vả cầu
xin Trời Phật, Chúa Trời “cứu vớt chúng con qua khỏi mọi sự dữ A men” (Kinh đạo
Chúa).
Nhưng
Chúa ơi, Ngài đã đuổi tổ tiên chúng con ra khỏi thiên đàng trần thế (vườn địa
đàng), vì tội ông tổ Adam bị tình yêu của người đàn bà khỏa thân Eva mê hoặc, bị
tình dục (hay rắn ?) xui ăn trái cấm để được thông thái. Loài người đã đánh đổi
cái chết để lấy tình yêu và sự hiểu biết .
Mang
sự hiểu biết trong người để đau khổ, để đi đâu cũng gặp sự dữ chặn đường. Những
“em yêu”, những nàng búp bê cát bụi yêu kiều xinh đẹp luôn bị một loài thú dữ
ăn thịt không biết no trông rất dễ thương có tên là tình ái đọa đầy, đành “vứt
tình vào tối” để “ đi hoang” :
“Đêm
qua có một cuộc chia ly
Cuộc
chia ly vĩnh hằng của hai trái tim không thuộc về nhau nữa
Trái
tim lớn lạnh lùng quay quắt
Trái
tim nhỏ se thắt buồn đau
Nàng
quay lưng đi về phía không có ánh mặt trời
Vứt
tình vào tối
Đêm
đông
Cành
khô buốt
Có
chú dế rủ rê đi hoang
“ Ừ,
thì đi”
Gió
đông gì cũng mặc
Nàng
buông !
(Đi hoang-tr.87)
Tiếng
thi ca dường như đang khản kêu trong hoang mạc: “Cứu em”. Tai nạn do tình yêu
gây ra trên đất nước này, trên thế giới này nhiều gấp bội phần quốc nạn giao
thông, nhưng dường như chỉ có thi ca đến cứu ?
Mà
thi ca, bằng vũ khí run rẩy và xao động phiêu du mỏng manh dễ vỡ của mình, dường
như cũng đang bất lực trong công cuộc cứu giúp những hạt cát cô đơn? May thay,
còn có những tiếng vọng từ khuya đêm như tiếng dế cứu nàng. Ô hay, sao lại là
tiếng dế, tiếng kèn sẽ hát ru chúng ta vĩnh hằng ngủ ngon trong những nấm cỏ
xanh mai hậu?
Hóa
ra, Cát Du khôn thiệt, nàng chọn anh bạn tiếng dế, một kẻ thủy chung nhất với
con người mà đi hoang, mà buông mình khỏi thế giới như con diều đứt dây chờ im
gió đáp xuống, trốn xuống đất mẹ. Vâng, trước sau gì nàng cũng buông, rời tay
bám níu vào trang giấy mà ngoại tình với giun dế, mà “từ bỏ” chốn “Chẳng còn
ai/ để yêu”, chẳng còn gì để giải khát cơn hư vô của mình:
“Em
từ bỏ anh
Như
từ bỏ niềm tin
Không
mạ lỵ
Em
từ bỏ anh
Như
từ bỏ vầng trăng
Không
kêu than
Người
đàn bà đi trong hoang mạc
Thấy
nước ở đằng đông
Chạy
đến
Nước
lại ở đằng tây
Khát
!
Bỏng
cháy
Niềm
tin nhập nhoạng
Nàng
xoay tư bề
Chẳng
còn ai
Để
yêu
( Từ bỏ – tr.91)
Trang
giấy biến thành sa mạc cho hạt cát rong chơi bỏng khát kiếm tìm giọt nước vô vọng.
Nước mát đang vẫy gọi nàng ở chân trời, niềm tin đang vẫy nàng ở chân trời.
Nàng biến thành con lắc cho các chân trời chơi trò lúc lắc. Nàng bị các chân trời
phản bội, bị niềm tin vào nguồn nước mát hư ảo dối lừa.
Nàng
là tác giả tập thơ này mà cũng không hẳn là con người cụ thể Cát Du. Nàng là biểu
tượng cho một sự kiếm tìm cái toàn bích, cái toàn thiện toàn mỹ trên thế giới
không có sự hoàn thiện, tìm kiếm tình yêu trong một thế giới không có tình yêu…
Cát
Du trong 60 bài thơ thật ngắn và khá ngắn của tập “Cảm” này, có khoảng hơn mười
bài thật hay, vài chục bài khá, còn lại là những bài thơ trung bình, thậm chí
có bài còn dở. Ngay tập thơ “ Lửa thiêng” của Huy Cận, từng được dư luận lâu
nay cho là tập thơ hay nhất thời hiện đại của Việt Nam, cũng chỉ có hơn mười
bài thật hay, hàng kiệt tác, vài mươi bài thật khá còn lại là những bài trung
bình, thậm chí xoàng xĩnh.
Chúng
tôi không có ý so sánh Cát Du với Huy Cận. Tuy nhiên, để được nói lên điều như
lời kêu cứu của chúng tôi với hiện tình thơ nói riêng, văn học nói chung của nước
ta hiện nay rằng, xin các nhà phê bình văn học hãy tỉnh thức, thoát khỏi cơn ngủ
mê mấy chục năm mà phê bình các tập thơ dở đang lụt lội cả văn đàn. Ngay những
tên tuổi nghe rất lớn của nền thơ cũng hầu như đang sản xuất một thứ câu chữ nước
ốc rồi ngộ nhận là thơ để ăn hết giải thưởng này sang giải thưởng khác.
Vì
vậy, phát hiện ra một Cát Du với nhiều bài thơ hay trong tập thơ đầu tay của chị,
chúng tôi mừng vui mà thông báo với mọi người, rằng thơ hay nhất định phải như
chiếc công tắc điện, phải được bật sáng trưng văn đàn để người yêu thơ đỡ có cảm
giác bị thơ phản bội.
Cát
Du vừa ra mắt đã có phong cách riêng, không bị cây đa cây đề nào cớm nắng như
hàng loạt cây bút mới gần đây viết hao hao giống các bậc đàn anh, toàn một giọng
bắt chước thô thiển mà cũng được giải này giải nọ.
Thơ
Cát Du đúng nghĩa là thơ hiện đại, kiệm lời, thoát mọi vần điệu, dùng hình ảnh,
hình tượng và câu chữ tưng tửng lạ thường, rất bình dân mà vẫn hết sức sâu sắc.
Cát Du là một nhà thơ có tư tưởng.
Triết
học của thơ nàng đã hóa thành cảm xúc, thành sự chân tình tưởng rất đỗi ngây
ngô. Cát Du còn tiến xa hơn nữa nếu biết vượt qua mình. Tiếc rằng, thi đàn Hà Nội
bị nhiễu, không còn đủ cảm xúc và trái tim thơ mạnh mẽ để bắt nổi sóng điện từ
phát đi rất mạnh của nữ thi sĩ xứ Bình Dương xa xôi này.
Sau
tập “Cảm”, Cát Du còn cho in tập thơ “Nàng” (NXB Hội Nhà Văn 2010). Theo tôi
“Nàng” là tập thơ hay nhất của năm 2010 mà các thứ giải thưởng văn học xa xỉ ở
Hà Nội vì khuất nẻo đã không nhìn thấy “Nàng”. Chúng tôi, xin trích ra ngay sau
đây, năm (05) bài thơ hay của tập thơ “Nàng” để hầu quý bạn đọc. Vâng, thơ Cát
Du rất có ma… lực, sẽ ám ta mãi nếu ta đem trái tim thơ ra mà thành tri âm tri
kỷ cùng tác giả.
Sài Gòn ngày 29-02-2012
NĂM BÀI THƠ TRÍCH TRONG TẬP
“NÀNG” CỦA CÁT DU:
Ừ THÌ EM CÓ ĐỢI ĐÂU
Em
có chờ ai đâu!
Chỉ
là tựa cửa thôi mà
Em
có chờ ai đâu!
Hình
như cơn gió thoáng qua
Hình
như lá xào xạc cuốn trong chiều vàng êm
Hình
như dấu rêu mòn một chút
Như
là có dấu chân ai?
Em
có chờ ai đâu!
Chỉ
là đứng đợi cơm sôi
Chỉ
là vớt bọt nồi canh thôi mà
Ồ!
Hình như có tiếng xe
Tiếng
xe ngoài ngõ, người dưng đấy mà!
Ư,
thì em biết người dưng
“Người
dưng” đi mãi “người dưng” không về
Ư,
thì em có đợi đâu?!
04/8/2004
CHỈ CẦN AI ĐÓ ĐỂ CƯỜI...
Anh
yêu!
Chiều
nay em vui quá
Em
cười nói một mình
Múa
may một mình
Cái
bóng trên tường cũng vui,
ngất
ngưỡng
Em
thèm có ai đó để cười
Không
cần hôn cũng được
Không
cần cần hôn
Chỉ
cần có ai đó để cười.
18/9/2004
RỜI KHỎI GIẤC MƠ...
Em
rời khỏi giấc mơ của anh
để
chấp chới bay vào giấc mơ của những đàn ông khác
người
trẻ có, người già có,
nhàng
nhàng cở anh cũng có
Nhưng
em không dám dừng lâu trong giấc mơ của mỗi người
Vì
sợ
sẽ
nhìn thấy
ở
phía cuối giấc mơ
tình
yêu bợt ra
ánh
nhìn bợt ra
Hãi
lắm!
và
em lại phải hối hả bay vào giấc mơ của một đàn ông khác nữa
để
thấy mình được yêu
như
thực
trong
đời.
23/6/2005
MƠ...
Đêm
qua anh ngủ mơ
Thấy
trăng tròn vành vạnh
Vỡ
òa trên mặt anh
Ôi
trăng thơm quá!
Trăng
mùi thiếu nữ
Trăng
mùi phù dung
Trăng
biến thành em
Thơm
hương đàn bà
Trăng
mùi quỉ sứ
Mùi
em
Ngái!
28/3/2006
ĐEN
Sao
chân em đen thế!
Em
dẫm phải bóng mình ư?
Ư,
em dẫm bóng mình
Bóng
mình đen
Chân
em đen
Chân
đen chạy khỏi bóng đen
Bóng
đen chôp bàn chân nhỏ
Á!
Chân
nhỏ tõm vào đêm
thút
thít
thút
thít
Có
tiếng nấc
Đen!
21/3/2006
Chú thích ảnh: nhà thơ Cát Du
khi viết tập thơ "Cảm" được giải nhất cuộc thi văn học nghệ thuật tỉnh
Bình Dương.
"ĐỪNG MÚC CẠN NỖI BUỒN" - CỦA
NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH - MỘT TẬP THƠ HAY HIẾM CÓ.
Vừa
qua, có một nhà thơ trẻ gọi cho tôi : “ Chú ơi, chú đã viết bài khen thơ hai nữ
thi sĩ Nam Kỳ là Cát Du và Đinh Thị Thu Vân, còn một tài năng thơ quê Long An
là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh sao chú bỏ quên không viết bài khen ngợi ?”. Tôi trả lời
: “ Chú mới chỉ đọc được chừng hơn chục bài của Ánh Huỳnh in trên báo mạng, khi
nào chị ấy in tập thơ, có thể chú sẽ viết”. Nhà thơ trẻ kia ngạc nhiên quá,
trách tôi thờ ơ với thời cuộc văn học, rồi ngay lập tức, anh cho người xe ôm
chuyển đến nhà tôi tập thơ “ Đừng múc cạn nỗi buồn” ( NXB Hội Nhà Văn 2008, 50
bài) của nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh. Tôi đã đọc ngấu nghiến tập thơ này, rất
thích và viết bài ngay.
Đọc
xong tập thơ của Ánh Huỳnh, tôi rất buồn vì nước ta nhìn chung, hầu như thiếu
nhà phê bình có con mắt xanh, toàn là một thứ bốc thơm nhau vô tội vạ. Ánh Huỳnh
làm thơ tự do, ít khi có vần. Thơ chị hầu như bài nào cũng có tứ hàm súc, ẩn chứa
tư tưởng sâu xa, có nhiều câu hay đến giật mình như khi chị viết về mùa thu,
hay đến mức chưa có thi sĩ nào viết về mùa thu hay thế : “ Thương lá vàng làm
con ở mùa thu”.
Tôi
chưa từng được đọc một tập thơ nào trong vòng 40 năm nay lại hay như “Đừng múc
cạn nỗi buồn”. 50 bài thơ trong tập toàn từ khá tới hay, hầu như không có bài dở.
Xin trích bài thơ đầu tiên của tập :
TỪ GIẤC NGỦ SINH RA
Có
phải trời theo gió leo vào mũi con
Đất
hóa thành cơm chui vào bụng con
Sông
nước mượn cơn khát chảy vào máu thịt con
Nên
khi con nhắm mắt
Vẫn
nhìn rõ bầu trời
Khi
con ngủ say
Vẫn
sờ được tay vào sông vào bể
Con
là hạt ủ mầm trong lòng mẹ
Con
là chồi vươn tự khoảng trời cha
Cái
con nhìn thấy khi thức
Nhỏ
hơn nhiều lần từ giấc ngủ sinh ra !
Ánh
Huỳnh gói tư tưởng mình vào cảm xúc để nó bừng lên ở hai câu cuối, rất thăng
hoa : “ Cái con nhìn thấy khi thức / Nhỏ hơn nhiều lần từ giấc ngủ sinh
ra”.Chao ôi, con có thể đi hết cái thế giới của thực tại, của ý thức, nhưng con
không bao giờ đi hết được thế giới trong giấc mơ của mình. Hình như chúng ta được
sinh ra từ giấc mơ của Chúa Trời, từ giấc mơ của cha mẹ ? Ánh Huỳnh, thi sĩ
thoát thực tại và được sinh ra từ giấc mơ thi ca.
Chúng
tôi xin trích nguyên một bài thơ cuối cùng của tập : “Đừng múc cạn nỗi buồn” :
KIẾP TRƯỚC MÙ TĂM
Đôi
khi khùng
em
ước
treo
cổ lên cọng cỏ
như
một giọt sương
sướng
nhá
em
long lanh
tan
ra
cho
chồng con kiếm tìm chơi
lại
hoảng
vì
trước khi hóa giọt sương
em
chưa rửa chén
làm
người
thật
khó bốc hơi
chuồn
khỏi thế giới này
em,
con bé lá vàng mặc quần áo đất
chơi
trốn tìm với gió
rên
rỉ hồn thu
ú…
u …
có
khi tỉnh queo
kiếp
trước mù tăm
tai
em thành hang dế
ai
kêu trong đầu mình
những
tiếng ngàn xưa
rích
..rích …
buồn
quá
đành
phải vui
ai
đang hát
yêu
đi yêu đi
nhạt
miệng kinh khủng
thử
lấy tay nắm tóc
tự
kéo mình lên khỏi thế giới
để
làm gì
em
không biết !
Ánh
Huỳnh viết bài thơ này rất hiện đại, có phần đùa chơi, thậm chí nhí nhảnh con
cá cảnh, nhưng quả tình sâu sắc, khiến người đọc buồn vui giật thót. Bài thơ
này là phong cách đặc biệt Ánh Huỳnh, không hề giống ai, và không ai bắt chước
được lối thơ có vẻ cà rỡn này của chị. Siêu ! Dường như chị bị đời sống thường
ngày dồn tới chân tường, muốn thét mà không thể thét, muốn la mà không thể la,
muốn khóc mà không thể khóc, muốn chết quách cho xong mà không thể chết : một
cái tức cười nghèn nghẹn, đùa tếu mà đau thương mới thốt ra giọng điệu thơ này
: “ buồn quá / phải đành vui” Chị than : “Làm người / thật khó bốc hơi”. Nhưng
nhà thơ ạ, chị đã bốc hơi thành thi ca và phả sương mù vào làm cay khóe mắt người
đọc. Tư tưởng của bài thơ là tư tưởng mù tăm – một khóe cười rơm rớm nhân sinh.
Thơ
Ánh Huỳnh có cấu tứ rất chặt, lối cấu tứ của ngẫu nhiên hứng khởi không phải cấu
tứ của ý thức. Dường như mạch thơ đã nằm sẵn trong tâm hồn chị, như nham thạch
trong đất ứ đầy phụt lên núi lửa, nên rất khó trích, đành để nguyên cả bài thơ
giữa tập này để bạn đọc thưởng lãm :
BÌM BỊP KÊU THƯƠNG
chim
bìm bịp
ai
bịp mày chim ơi
mà
bìm bịp suốt đời
hay
sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi
lấy vợ
hay
Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi
lấy chồng
bìm
bịp
tiếng
chim kêu
làm
góa cả buổi chiều
cho
chị ngủ nốt đêm Cần Đước
kêu
thương chi cho đau lòng nhau
bật
máu cây trạng nguyên
đốt
cháy tán bàng
cứ
bíp bịp hoài
chị
không về Sài Gòn đặng
sợ
chồng ghen
có
ai lại lấy tiếng chim bìm bịp làm chồng ?
thôi
chị phải bỏ đi
không
dám ngủ trọn một đêm với tiếng kêu thương
tiếng
chim có bùa ngải
bìm
bịp bìm bịp…
tiếng
kêu vò xé cả trời
nghe
chim
có
thể chết người
như
không !
Ánh
Huỳnh có lẽ là nhà thơ viết hay nhất về chim bìm bịp. Bài thơ như một kiệt tác
thi ca, chặn hết lối của nhà bình thơ, không còn cách gì khen chê được nữa. Đọc
bài thơ mà mắt rơm rớm. Cái rơm rớm hơn mọi lời bình . Ôi chao là những câu thơ
rớm máu :
ai
bịp mày chim ơi
mà
bìm bịp suốt đời
hay
sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi
lấy vợ
hay
Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi
lấy chồng
bìm
bịp
tiếng
chim kêu
làm
góa cả buổi chiều
cho
chị ngủ nốt đêm Cần Đước
kêu
thương chi cho đau lòng nhau
bật
máu cây trạng nguyên
đốt
cháy tán bàng.
Hình
như Ánh Huỳnh có nuôi một con chim bìm bịp trong hồn. Một hôm nó bay ra và đậu
lên trong giấy. Và trang giấy chợt bật khóc nghẹn ngào. Tác giả bài thơ sợ tiếng
chim kêu ma ám quá, sợ chồng ghen, đành bỏ chạy khỏi đêm Cần Đước :
cứ
bíp bịp hoài
chị
không về Sài Gòn đặng
sợ
chồng ghen
có
ai lại lấy tiếng chim bìm bịp làm chồng ?
thôi
chị phải bỏ đi
không
dám ngủ trọn một đêm với tiếng kêu thương
tiếng
chim có bùa ngải…
Không
hẳn tiếng chim bắt hồn mà thơ chị có bùa ngải. Hình như cả tập thơ này đều ám ảnh
bởi tiếng chim bìm bịp kêu thảm khốc, khiến nhà thơ mất hết hồn vía, sợ chồng
ghen ! Thế này, ai mà là chồng nữ sĩ phải chấp nhận sự lãng mạng này : cái gì
đã lọt vào mắt và thơ chị, cái đó bị Ánh Huỳnh hóa, bị thi ca hóa, bị cuồng si
hóa. Nghe tiếng chim kêu trong đêm mà phải bỏ chạy về Sài Gòn thì trên đời này,
chỉ có nữ thi sĩ quê Cần Đước Long An thôi ! Sợ vãi !
Trong
thơ mình, chủ thể xưng ngôi thứ hai là chị, xưng là vợ, xưng là em, xưng là mẹ…có
thể là chính tác giả mà có khi không phải là tác giả. Ngôi thứ nhất trong thơ
chị, chìm đi, nhòe đi, nửa hư nửa thực hiện ra hình ảnh một người đàn bà sống
cam phận, gần như một nô lệ tại gia, trong cảnh chồng chúa vợ tôi, có ông chồng
( ông xã, ba sắp nhở) ghen trời thần đất lở. Tiếng thơ chị cũng là tiếng kêu
than đòi quyền sống của người đàn bà, nói gọn lại là đòi nữ quyền, đòi quyền được
đối xử dịu dàng, đả đảo mọi sự thô bạo. Chưa có nhà thơ nữ nào trong đời như chị,
thèm sự dịu dàng như bóng đêm thèm ban mai. Cả thế giới này, chẳng lẽ không ai
đem đến cho chị sự dịu dàng hay sao mà lời thơ chị lại nghẹn ngào dường này,
như một kẻ ăn mày sự dịu dàng của cả loài người. Xin bạn đọc đừng làm bay mất sự
dịu dàng khi đọc bài thơ “Dịu dàng ơi” của Ánh Huỳnh :
DỊU DÀNG ƠI
Dịu
dàng quá dịu dàng không chịu nổi
(Olga
Bergon)
Se
sẽ thôi ba của sắp nhỏ ơi
Vì
ngoài kia hoa quỳnh đang nở
Tươi
tỉnh lên ba của sắp nhỏ ơi
Vì
ngoài thềm ánh trăng đang tỏ tình với hoa lài
Rạo
rực lên ba sắp nhỏ ơi
Vì
ngoài đại dương lưỡi sóng đang liếm cát
Thảnh
thơi lên ba của sắp nhỏ ơi
Vì
trên mái nhà ta trời dịu dàng đang ôm đất
Từ
từ thôi ba của sắp nhỏ ơi
Vì
ngoài sông phù sa đang hoài thai …
Ôi
sự dịu dàng
Có
thể biến sư tử thành nai
Thiếu
sự dịu dàng
Con
nai trong nhà ta có khi thành sư tử
Tôi
được hưởng sự dịu dàng trong giấc ngủ
Của
người đàn ông ảo không rõ mặt
Ba
của sắp nhỏ ơi
Đừng
ghen với kẻ hào hoa cuối cùng đang đợi để ga – lăng tôi
Kẻ
đó có tên là Đất
Để
chết rồi tôi được dịu dàng ôm…
Ánh
Huỳnh làm chúng ta bất ngờ vô cùng ở câu kết : “Để chết rồi tôi được dịu dàng
ôm”. Hóa ra sự dịu dàng của mẹ đất là sự dịu dàng đời đời sẽ được ôm ấp người
phụ nữ bất hạnh; sự dịu dàng của nỗi tủi thân ôm phận người ngủ say dưới nấm cỏ.
Nói cho cùng, đất và cỏ mới chính là tình nhân vĩnh hằng, là người chồng muôn
thuở của thi ca chị. Cám ơn người đàn ông ảo nào đó đã đi về trong giấc mơ để
ban tặng nữ thi sĩ món quà của Chúa Trời là sự dịu dàng vô tận trong cuộc đời
thô bạo, bỗ bã hố hầm này.
Người
đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh hi vọng sinh ra để được “sướng muốn chết”:
SƯỚNG MUỐN CHẾT
Anh
bảo em :
–
Má mày lấy tao sướng muốn chết !
–
Không lấy tao chắc giờ này bán vé số !
Ngày
ấy không gặp anh
Em
vẫn là con chim manh manh
Lẻ
loi đậu tít cành chanh
Lấy
chồng như lấy mảnh sành đứt tay…
Lấy
chồng sướng muốn chết
Làm
mẹ ba đứa nhỏ sướng muốn chết
Thành
bà nội được làm ôsin sướng muốn chết
Sướng
muốn chết khoảng trời xanh sau bếp
Mưa
cho suối chảy trong nhà
Có
khi trời xuống la đà nồi niêu
Sướng
muốn chết mùi dạ lan hương ngạt thở
Ăn
ở với cà với dưa
Đẻ
ra mắm muối mà chưa biết tình
Sướng
muốn chết đàn ông dạy vợ
Thương
lá vàng làm con ở mùa thu
Đám
mây muốn chết thành mưa
Tự
dưng chim hót tưởng chưa có chồng…
Có
cảm tưởng như Hồ Xuân Hương tủi phận hóa thân thành Ánh Huỳnh khiến ngòi bút chị
bỗng cay đắng vô vàn, tủi phận vô vàn : “Ăn ở với cà với dưa / Đẻ ra mắm muối
mà chưa biết tình”. Tiếng kêu đòi quyền làm một người đàn bà đích tực luôn dằn
vặt, vò xé tâm hồn nữ sĩ. Chị là “ lá vàng làm con ở mùa thu” ! Cái đẹp của tàn
tạ, của héo úa vẫn có lúc le lói trong thơ chị thành niềm lạc quan, dù là lạc
quan tếu, đọc lên mà xót xa, mà mủi lòng :
“Đám
mây muốn chết thành mưa
Tự
dưng chim hót tưởng chưa có chồng…”
Nhờ
nữ sĩ, ta mới biết đám mây chết hóa thành mưa; và chia vui với chị, dù trong
cái bếp khói um, tiếng chim vẫn lọt vào rủ rê chị về cái thuở “ chưa có chồng”,
cái thuở chị được quyền ngoại tình với cả trời đất, như trong bài thơ lục bát rất
Nam Kỳ, rất Ánh Huỳnh, rất hay như sau :
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIỄN CHINH
Có
ai đang đi ngoài kia
Vào
đây chút để tôi chia muộn phiền
Bàng
hoàng cơn gió nổi điên
Xé
tan tành đám mây thiền trời xanh
Tôi
ngồi dưới mái nhà tranh
Mà
tâm hồn chạy loanh quanh ngoài đường
Chồng
tôi bảo tôi đáng thương
Chuyện
nhà lo ít muôn phương lo nhiều
Tôi
không nói cũng lắm điều
Hồn
tôi như một con diều đứt dây
Tại
trời xanh hút lòng cây
Giấc
mơ cũng bị trời gây phiền hà
Lại
còn chim bướm còn hoa
Lá
vàng dụ dỗ tôi ra khỏi mình
Hồn
tôi là cuộc viễn chinh
Người
chung thủy thích ngoại tình thiên nhiên .
Xin
chào người đàn bà viễn chinh, người đàn bà phải lòng với tất cả, “ngoại tình với
thiên nhiên”. May mà cái thế giới ảo trong tâm hồn người đàn bà này vẫn còn
nguyên cả thiên nhiên trinh bạch, còn nguyên chàng gió, còn nguyên trời xanh cứu
rỗi. Ta tìm thấy một tuyên ngôn thơ tuyệt vời của nữ sĩ :
“
Hồn tôi như một con diều đứt dây”
Chỉ
có gió mới ghen với con diều đứt dây này mà thôi. Không một người thực tại nào
đuổi bắt được tâm hồn “đứt dây” của chị, dù người ấy là “ba sắp nhỏ” đi chăng nữa.
Không
phải trai hay ông râu xồm râu quặm nào rủ rê nổi người đàn bà này bỏ bếp núc, bỏ
chồng con đi bụi, mà chính chàng “Sở Khanh” có tên là “lá vàng” dám lẻn đến rủ
rê tâm hồn chị đi ngoại tình với mùa thu. Đây cũng là một tuyên ngôn thơ thú vị
của Ánh Huỳnh :
“
Lá vàng dụ dỗ tôi ra khỏi mình”
Một
câu thơ hay tuyệt. Trời ơi, chỉ một chiếc lá vàng rơi đã “dụ dỗ” được chị ra khỏi
hồn mình phiêu du với anh gió, với chị mây. Hình như thân xác ta càng bị kẻ
khác dồn vào bế tắc cùng đường thì tâm hồn ta càng tìm mọi cách tự giải thoát
mình ra khỏi hoàn cảnh, càng thích phiêu du với trăng sao sông nước. Cám ơn Trời
Phật, cám ơn Chúa đã ban cho ta linh hồn biết bay nhảy khắp vũ trụ, biết tìm thấy
sự an ủi của tha nhân, dù là tha nhân ảo như thơ Ánh Huỳnh đã tìm được tri âm tri
kỷ lá vàng.
Người
đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh đã tìm ra hạnh phúc ngay trong nỗi bất hạnh hôn
nhân. Bài thơ “Trăng sừng bò” là bài thơ tình hay một cách hóm hỉnh, cái hay của
tiếc nuối thời con gái, chấp nhận tàn phai vì chồng con, hi sinh cho hạnh phúc gia
đình. Xin trích cả bài :
TRĂNG SỪNG BÒ
Anh
bảo em :
ngước
mắt lên dòm buổi tối trên đầu
trăng
sừng bò nằm trên nhà ta
ôi
trăng sừng bò
anh
đã yêu em bởi vầng trăng vểnh ngược
con
bò đi chơi
chỉ
để lại cặp sừng
em
nghênh
đêm
anh
ơi
ngày
xưa ta chớm đôi mươi
anh
với tay lên trời
bẻ
trăng sừng bò xuống
cho
các con anh bú
giờ
chỉ còn trăng
không
phải sừng bò !
Bài
thơ là một niềm vui sống nơi người đàn bà của chịu đựng, của bếp núc, của chén
bát nồi niêu, nhọ nồi khói bếp. Thật bất ngờ câu thơ :
anh
với tay lên trời
bẻ
trăng sừng bò xuống
cho
các con anh bú
Người
đàn bà đã mang vầng trăng sừng bò thiếu nữ trên ngực mình, đặng dâng hiến cho
chồng con, làm thiên chức phụ nữ. Cái dáng “anh” trong bài thơ thật ngạo nghễ,
thật phi thường : “bẻ trăng sừng bò xuống / cho các con anh bú”.Ôi chao, người
đàn bà cao lớn như vũ trụ, như thiên nhiên, dùng vú trăng nuôi nấng các hài đồng.
Để mấy chục năm người đàn bà ngó xuống : “ giờ chỉ còn trăng / không phải sừng
bò”. Cám ơn những người mẹ đã nuôi lớn cả loài người bằng cả tâm hồn mình từng
cong vút hai sừng bò sự sống. Thơ Ánh Huỳnh đã chạm vào trái tim những kẻ từng
bú sữa sừng bò của bà mẹ trẻ ngày xưa, trong đó có người đang bình tán thơ chị.
Thơ
Ánh Huỳnh trong tập này, hầu như bài nào cũng khá, cũng hay, không thể trích ra
cả tập để khen được. Chúng tôi đành trích câu để bình phẩm hầu độc giả :
Người
đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh có thứ vũ khí vô song, như một trái bom thu nhỏ bằng
hạt sương, mạnh hơn bom nguyên tử. Ấy chính là nước mắt. Nữ thi sĩ dặn con :
khi
yêu
có
nước mắt dẫn đường
Có
thể nói, con đường nước mắt đã dẫn Ánh Huỳnh tới thi ca. Chừng như kẻ ác không
biết khóc ? Khóc là dấu hiệu của nhân tính, của trái tim yêu đạt đến tột cùng.
Hình như cả Phật và Chúa đã đi theo con đường này để đến với nhân loại ? Chị dặn
con hãy tin vào giọt nước mắt và đi theo nó đến cuộc đời này. Câu thơ hay một
cách kinh ngạc. Hình như con đường của dân tộc ta đang đi cũng là con đường nước
mắt, con đường đau thương mà thi ca Ánh Huỳnh đã trải qua. Chị lại viết thật
hay về nước mắt, chao ôi chết rồi nằm trong mồ sao lệ vẫn còn tuôn :
Mẹ
giấu nước mắt vào thơ
Cám
ơn giọt lệ bơ vơ làm người
Cám
ơn khóc núp trong cười
Cám
ơn nước mắt chết rồi còn tuôn…
Tôi
yêu “giọt lệ bơ vơ làm người” này biết bao nhiêu cho vừa. Hèn gì Huy Cận từng
viết : “ Trái đất ba phần tư nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không gian”. Từ “giọt
lệ bơ vơ” đến trái đất bơ vơ chừng như chỉ cách một câu thơ của Ánh Huỳnh và
Huy Cận ? Người đọc nhờ thi ca mà tìm được cái bơ vơ của bản thể vũ trụ. Chính
vì bơ vơ quá, anh phải tìm em mà núp. Chúng ta chừng như đang bơ vơ giữa sa mạc
cuộc đời. Cần phải níu vào nhau mà tồn tại. Bơ vơ à ơi hỡi bơ vơ…
Thơ
Ánh Huỳnh đầy những phát hiện sâu sắc. Mẹ sinh ra con, đồng thời mẹ cũng sinh lại
chính tuổi thơ mình. Con là tâm hồn mẹ, tuổi thơ mẹ được tái sinh. Xin đọc ba
câu thơ rất hay của Ánh Huỳnh ca ngợi con mình đã sinh ra tâm hồn mình :
Cám
ơn con
Mẹ
đã sinh ra thân xác con
Nay
con chợt sinh ra tâm hồn mẹ !
Con
chợt sinh ra tâm hồn mẹ ! Câu thơ nhân ái vô cùng và hay khôn xiết không chỉ bởi
tính triết học của nó. Triết học trong thơ Ánh Huỳnh là triết học thơ ngây, triết
học của xúc cảm ! Nhờ câu thơ này, tôi mới phát hiện ra rằng tâm hồn ta cần con
trẻ, cần sự bi bô hài nhi để được sinh ra mãi mãi. Chả thế mà Chúa đã phán : “
Này ta bảo cùng Phê rô: nếu ai không hóa thành con trẻ thì nước trời không thuộc
về kẻ ấy”. Tâm hồn ta tồn tại trong kẻ khác, bằng kẻ khác. Hãy làm cho tâm hồn
mình hóa hài nhi, thưa bạn, bạn đã đạt được Niết Bàn hay thiên đường. Tôi chưa
tìm thấy một câu thơ nào trên đời như câu thơ viết về mối quan hệ mẹ con hay
như Ánh Huỳnh đã viết : mẹ sinh ra thân xác con, con sinh lại tâm hồn cho mẹ.
Nhưng
tâm hồn cũng như thân xác, cần được nuôi bằng thực phẩm riêng của nó. Thân xác
phải ăn, phải uống, phải hít thở mới tồn tại. Người chồng bảo người vợ trong
thơ Ánh Huỳnh sao không lo cái hầu bao, chỉ lo cái tào lao vớ vẩn. Nhưng những
món tào lao, món vẩn vơ, món không đâu, món ấm ớ nửa hư nửa thực kia mới chính
là thực phẩm của tâm hồn. Xin hãy đọc khổ thơ sau của tác giả để cảm nhận cùng
chị, rằng để có một tình yêu, một tâm hồn mơ mộng lãng mạn, đặng cân bằng với
thực tế phũ phàng hầu như không phải là chuyện dễ :
Một
đời nô lệ hầu bao
Một
đời bỏ cái tào lao theo chồng…
Bỏ
đóm đóm miệt vườn về phố
Ngất
ngây hương lúa thơm tào lao
Suýt
chết đuối đáy hầu bao
Nhờ
đom đóm miệt vườn cứu thoát
Nhờ
tiếng chim hót quên mất mình là ai
Như
chết đuối sông sâu níu được vạt lục bình
Nổi
lên mới biết còn mình
Cái
không ăn được là tình đó anh.
Xin
cám ơn những món không ăn được kia, những miệt vườn đom đóm, những vạt lục bình
bâng quơ, những sớm mai chim hót, những bờ bao hương lúa xôn xao trong thi ca,
trong cuộc đời đã cứu rỗi tâm hồn ta.
Ánh
Huỳnh thường thấy những buổi chiều liêu trai bị thực tại hắt đổ đi như đổ một
bát nước. Câu thơ rất hội họa, rất điện ảnh này đang cầu cứu chúng ta hốt lại
những buổi chiều thi ca bị thói vô cảm đổ sông đổ biển :
Đám
mây màu bã mía
Đã
hắt chiều
Đổ
đi !
Chao
ôi là những đám mây màu bã mía, những đám mây bị gió vắt kiệt cùng đã hắt chiều
đổ đi. Ai đã đổ chiều vào đêm, đổ anh vào em cho cái hôn bão táp, cái hôn bốc lửa
:
Nhớ
tối nào
anh
hôn em
bầm
dập cả trăng non
Cái
hôn “ bầm dập cả trăng non” làm nảy đom đóm mắt, làm nhòe nát cả trời khuya tưởng
còn quằn quại câu thơ, vết thương yêu tưởng nuốt mất môi người :
ước
gì trời rét
để
em được gói đôi môi mình
vào
chiếc khăn len.
Môi
đã bị thương vì cái hôn thi ca, muốn được gói vào khăn len gửi tình xa rét mướt.
Thi ca, chừng như đã vượt qua mọi giới hạn thực tại để tới miền đất hứa của
mình là tưởng tượng, là vô biên. Và người đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh chết rồi
còn thấy rét, còn cần chiếc chăn của tình yêu có tên là nấm cỏ đắp lên cho ấm
thi ca, cho ấm hồn người :
Mai
sau
Em
ngủ giấc muôn đời
Chỉ
còn sóng
Thuỷ
chung
Anh
đắp lên mồ em
Từng
sóng cỏ …
Những
câu thơ tỏ tình với gió của Ánh Huỳnh sao buồn thương thế, ám ảnh thế, mênh
mông thế :
Thế
rồi gió cướp em đi
Bóc
em như bóc hành khi điên cuồng
Gió
ngoan thì thổi ngoài đường
Sao
vô phòng ngủ gió lường gạt em ?
Nhà
thơ bị cơn gió tình si lường gạt rủ rê hoài : đi đi, thoát khỏi cái thế giới tẻ
nhạt và buồn đau này để đến với bao la, đến với cái không bờ bến của hư vô, của
cõi địa đàng thăm thẳm xa xưa vẫn nằm trong mộng tưởng. Nàng thơ rủ cả thế giới
chưa trưởng thành này đi làm vua, những ông vua xách dép, vua cởi truồng, vua bị
mẹ rượt mếu máo khóc ù ơ :
Nào
các anh hai, anh ba …
theo
em đi làm vua
ta
trở về thời con nít
một
thế giới chưa trưởng thành
ai
cũng thích làm vua !
Thơ
Ánh Huỳnh tồn tại trong nỗi buồn; xin độc giả đừng múc cạn nỗi buồn trong chiếc
giếng cô đơn của nữ thi sĩ :
xin
anh
đừng
múc cạn nỗi buồn
trong
đôi mắt em
để
em còn là giếng nước.
Xin
đọc những câu thơ rất hay, rất thi sĩ này của Ánh Huỳnh mà chia sẻ với những buổi
chiều góa bụa hoàng hôn, những buổi chiều tâm hồn chị trải lá vàng cho thi ca
se sẽ dấu chân chim :
ôi
những buổi chiều
không
có hôm qua
em
vẫn còn anh
mà
goá những buổi chiều
chiều
hôm nay ơi
anh
ơi
nhẹ
chân thôi
chúng
ta đang dẫm lên
xác
những buổi chiều
Linh
hồn những chiều đã bị thi ca bắt mất. Xin hãy nghiêng mình mặc niệm cho “xác những
buổi chiều” của chị được yên nghỉ dưới hoàng hôn thi tứ…
Tôi
tin rằng thi phẩm kỳ lạ “ Đừng múc cạn nỗi buồn” của nhà thơ Ánh Huỳnh sẽ còn
mãi trong tình yêu thi ca bạn đọc. Tiếc thay, tập thơ đã ra đời 9 năm, hôm nay
tôi mới được đọc. Tôi sẽ mang “những buồi chiều không có hôm qua” của nữ nhà
thơ đi vào cõi lặng, để chiêm nghiệm và để yêu tiếng Việt của chúng ta đến trọn
đời.,.
Sài
Gòn ngày 01-9-2017
Trần Mạnh
Hảo
Ảnh : nhà thơ Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét