Thứ Năm, 24 tháng 6, 2021

TIẾN SĨ VŨ HUY TRÁC VÀ “GIANG NAM LÃO PHỐ THI TẬP”

 

Tác giả Trần Mỹ Giống


        I – TIỂU SỬ TIẾN SĨ VŨ HUY TRÁC


       Tiến sĩ Vũ Huy Trác (gia phả họ Vũ chép là Vũ Duy Trác) hiệu Giác Trai, thuỵ Trung Thận, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1730 tại ấp Lộng Điền, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Ông mất ngày 3 tháng 10 năm 1793. Thân phụ ông là Huấn đạo phủ Trường Khánh Vũ Hưng Nhai, thân mẫu là bà Vũ Thị Ngọ. Theo tộc phả họ Vũ, ông thuộc đời thứ tám tính từ khi cụ thuỷ tổ họ Vũ về lập nghiệp ở Lộng Điền.

       Vũ Huy Trác là một học trò thông minh, hiếu học. Năm lên tám tuổi, ông theo học thầy Kim Lan họ Trịnh là Tri phủ Cẩm Giàng. Năm Đinh Mão (1747) ông dự kỳ thi sát hạch ở huyện Đại An được xếp thứ ba khi mới 18 tuổi. Năm Canh Ngọ (1750) ông theo học Thám hoa Phan Kính(1). Năm Tân Mùi (1751) Vũ Huy Trác thọ nghiệp quan Quốc tử giám trực giảng Trần Văn Trứ(2).

       Năm Quý Dậu (1753) Vũ Huy Trác đỗ Tỉnh nguyên Hương cống. Lúc này cha ông đã mất được ba năm. Theo yêu cầu của mẹ, sau khi hết tang cha, ông lập gia đình với con gái cụ sinh đồ Phạm Khắc Du.

       Sau khi lấy vợ, Vũ Huy Trác vẫn quyết chí học hành để đỗ đạt cao hơn. Ông đã tìm đến nhiều thày giỏi để học tập. Năm Ất Hợi (1755) ông theo học thầy Hà Tông Huân(3). Sau đó ông lại tìm đến tận nhà Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục xin theo học(4). Sau khi đã ra làm quan, ông còn tìm đến theo học Hoàng giáp Nguyễn Tông Quai ở Phúc Khê(5).

       Vũ Huy Trác là người học giỏi, có chí và đức độ nên được tiến cử làm Thị nội thư tả công phiên tùng giảng ứng vụ vào năm Tân Tỵ (1761). Năm Nhâm Ngọ (1762) ông được thăng Binh bộ Tư vụ. Năm Giáp Thân (1764) ông được bổ làm Huấn đạo phủ Tiên Hưng. Năm Mậu Tý (1768) ông làm Tri huyện Nam Chân. Tương truyền, thời gian làm quan Tri huyện Nam Chân ông đã hết lòng giúp đỡ nhân dân nên được dân sở tại rất yêu mến. Thấy ông hiếu học, ham đọc sách, nhân dân trong huyện đã góp tiền mua một mảnh đất làm ngôi nhà ba gian khang trang ở khu đất Long Đàm để ông làm nơi đọc sách. Nhưng ông chưa được ở ngôi nhà đó ngày nào thì phải chuyển đi làm quan ở nơi khác.

       Năm Cảnh Hưng 33 đời Lê Hiển Tông khoa Nhâm Thìn (1772) Vũ Huy Trác đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm Quý Tỵ (1773) ông được thăng Hàn lâm viện hiệu thảo. Năm Giáp Ngọ (1774) ông làm Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoá. Cuối năm này ông lại được đổi làm Hiến sát sứ Kinh Bắc. Năm 1776 ông làm Công khoa đô cấp sự trung. Năm Đinh Dậu (1777) ông được đổi làm Tham chính Thanh Hoá. Năm 1779 ông làm Hiến sát sứ Nghệ An. Ông tỏ ra là viên quan mẫu mực, có tài thu phục nhân tâm, được triều đình tín nhiệm. Nhiều nơi ông đến nhậm chức được dân sở tại xin vẽ hình để thờ phụng. Năm Quý Mão (1783) triều đình cử ông làm Tham chính Kinh Bắc. Năm 1784 ông được thăng Hàn lâm viện thị thư và làm Đốc trấn Lạng Sơn. Ông đã giải quyết nhiều vụ tai ương thấu tình đạt lý, được nhân dân mến phục. Bằng tài đức và tấm lòng chân thực yêu thương con người, ông còn cảm hoá quy tụ được dân phiên mục. Năm Ất Tỵ (1785) ông lại được Triều đình triệu về kinh giao cho chức Hàn lâm viện thị giảng (hàm tòng ngũ phẩm).

       Ngày 2 tháng 12 năm Ất Tỵ (1785) thân mẫu ông qua đời. Ông được về quê chịu tang. Tháng 6 năm 1786 Bắc Bình vương Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh. Vũ Huy Trác đang cư tang mẹ ở quê thì được chiếu của vua Lê liền đến Nhĩ Độ theo việc binh và được cử làm Giám quân đạo Sơn Nam. Ông có công giữ vững thành Vị Hoàng (nay thuộc thành phố Nam Định), được vua Lê ban chức Hàn lâm viện Thị độc, tước Côi Lĩnh bá. Năm 1788 ông về kinh nhận chức Lễ bộ Tả thị lang (hàng tam phẩm) kiêm Quốc Tử giám Tư nghiệp.

       Năm Kỷ dậu (1789) kinh thành thất thủ, Quang Trung đại phá Quân Thanh, vua Lê chạy đi Trung Quốc. Vũ Huy Trác theo vua Lê đến biên giới nhưng vua Lê dụ ông về quê vì ông đã già yếu.

       Sau khi về trí sĩ ở quê, Vũ Huy Trác dạy học, làm vườn, làm thuốc chữa bệnh, làm thơ, sống thanh đạm. Ông là một nhà giáo có nhiều học trò giỏi như Tri huyện Chân Ninh Đặng Xưởng người làng Ninh Cường, Tri phủ Nghĩa Hưng Nguyễn Văn Tường...

       Vũ Huy Trác chẳng những hiếu thảo với cha mẹ mà còn có tình nghĩa với làng xóm. Ông đã dành dụm tiền lương mua gỗ lim làm lại ngôi chùa làng Lộng Điền.

       Ngày 3 tháng 10 năm 1793 Vũ Huy Trác tạ thế, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân làng. Ông được táng ở sứ Hậu Đồng làng Vân Cù (nay thuộc huyện Nam Trực). Sau khi mất ông được thờ phối tự với thành hoàng làng Lộng Điền.

       Quan Đông các hiệu thư Ngô Tiêm (1749 - 1818) người Cát Đằng (nay thuộc xã Yên Tiến, huyện Ý Yên), đỗ Tiến sĩ năm 1779 đã làm câu đối viếng Vũ Huy Trác như sau:

       Vị giang nhất phiến cô trung, Gia Cát vị vong do thị Hán

       Lão bạ lục niên nhiêu hạng, Bá Di trung tử bất thần Chu.

       Câu đối lấy sự tích ở Trung Quốc ca ngợi Tiến sĩ Vũ Huy Trác tài đức như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, trung quân như Bá Di thời Chiến Quốc vậy.

  

       II – GIANG NAM LÃO PHỐ THI TẬP(6)


       Sinh thời Vũ Huy Trác làm nhiều thơ phú, nhất là giai đoạn từ sau khi ông về sống ở quê nhưng không ghi lại thành tập nên ngày nay phần lớn đã bị thất lạc. Người học trò của ông là Nguyễn Văn Tường đã sưu tầm được 50 bài, chép lại đặt tên là Giang nam lão phố thi tập.

       Thơ Vũ Huy Trác bộc lộ tâm trạng yêu nước, thương dân, biết ơn công đức tiền nhân. Ông khẳng định quan điểm sống của mình thật chí lý:

       Vinh vi ngưu mã thân tâm sỉ

       Nhục tác thần tiên miếu tự truyền.

                                               (Thế nhân)

       (Vinh làm trâu ngựa thân thêm nhục

       Nhục được dân thờ lại hoá vinh).

       Cuộc đời ông đã hành động theo quan niệm sống ấy, tất cả vì dân. Bởi vậy, khi làm quan cũng như khi về hưu, ông tự thấy mình “mái cỏ suy tư không vướng vít”, “hành tàng đều không thẹn”.

       Ông viết một loạt bài về chủ đề danh nhân, di tích lịch sử của đất nước với thái độ trân trọng, tự hào: Xuân nhật bái mộ tổ, Nhân quy ngoại tổ gia yết phúc thần miếu, Hoà Lạc miếu, Hiến Nam Cần thôn Dương Hậu miếu, Nguyễn gia tam tướng, Hải Khẩu tiên từ, Độc Cước từ sơn, Nham Sơn động, Tang lâm Thánh Mẫu từ, Dữ Từ Quán Hoàng Tiến sĩ, Tạo sĩ công, Quá Phùng Vương từ, Triệu Vương miếu, Quá Phạm tổ từ, Phạm công miếu, Đức Nhuệ công…

       Trên đường công cán, qua bến Kim Tông thuộc huyện Ý Yên, ông nhớ người họ Đặng thời Trần từng có công bảo vệ và xây dựng vùng đất nơi đây qua bài Kim Tông cổ độ (Kim Tông nơi bến sông xưa):

       Trần mạt Đặng công vi sự quốc

       Thiên sơn vạn thuỷ cảm ngôn nan

       Phúc Thành ngự tặc tiêu Nam sử

       Già cảng trừ Minh khứ vãn lan

       Cổ độ trúc đê tồn tự miếu

       Thuỷ thần thác tích ký từ nhan

       Toán lai chí kim tứ bách tải

       Tư đức hương yên bất cải quan.

       (Trần mạt Đặng công lo việc nước

       Muôn sông ngàn núi chẳng từ nan.

       Phúc Thành gặp giặc ghi Nam sử,

       Cảng Thái trừ Minh lớp sóng buông.

       Ngăn lũ đắp đê dân kể lại,

       Thuỷ thần mượn bóng đặt tên đền.

       Bốn trăm năm trải không thay đổi,

       Nhang khói ơn sâu mãi mãi bền).

       Trước cảnh một số di tích ghi công các tiền nhân bị bỏ hoang phế, ông lấy làm đau lòng, như bài Lê sơn Lý Đại Thành từ (Đền thờ Lý Đại Thành ở núi Lê):

       Mạc thời đại tướng trấn biên cương

       Hải tặc văn thanh bất cảm đương

       Cộng đạo Nam nhân sùng tiết nghĩa

       Như hà hương hoả thái thê lương?

       (Mạc tướng biên cương từng trấn giữ

       Nghe danh giặc biển đã kinh hoàng

       Người Nam vốn trọng điều ân nghĩa

       Sao để nơi này lạnh khói hương?)

       Ông tỏ ra hài lòng trước việc nhân dân chăm sóc nơi tưởng niệm danh nhân, hoặc nhắc nhở người sau phải nhớ công ơn của tiền nhân. Trong bài Hoà Lạc miếu ông ca ngợi công tích đánh đuổi giặc phương Bắc dưới thời Trần của hai anh em được thờ làm thành hoàng làng và nhắc nhở:

       Ký ngữ Nguyễn, Lê thị

       Phụng sự yếu tình thành.

          (Nhắn lời cho Lê, Nguyễn

       Thờ cúng phải chân thành).

       Do điều kiện lịch sử hạn chế, ông luôn tâm niệm quan điểm "Tôi trung không thờ hai chúa", cuối đời còn luyến tiếc nhà Lê:

       Thân cư giang chi nam

       Tâm tại giang chi bắc

                           (Giang nam lão phố.)

       (Thân ở bên bờ nam

       Tâm lại bên bờ bắc).

       Ông thừa hiểu thời thế không thể đảo ngược bánh xe lịch sử, nhưng ông vẫn canh cánh bên lòng nỗi luyến tiếc nhà Lê:

       Lợi độn binh gia nan dĩ vọng

       Quân thần nghĩa tụ huấn lương lân

                                                    (Tạc nhật)

       (Trông thắng việc binh không thể được,

       Dựng cờ dấy nghĩa lại khó khăn).

 

       Phong tiền trà cúc phô xuân sắc

       Thế ngoại hương dân yếm cựu liêu

       Thí bốc hồi kinh chân bất vọng

       Ỷ lan song lý ức đan biều.

                                             (Nhàn ngâm)

       (Trước gió cúc trà khoe sắc mới

       Ngoài đời dân chúng chán vua quan

       Về kinh ngày ấy dường không thể

       Tựa cửa người xưa vẫn nhớ mong).

       Vũ Huy Trác là một y sư có tiếng ở vùng đất Sơn Nam. Trong Giang nam lão phố thi tập của ông có tới 18 bài thơ về các bài thuốc Nam. Ông rất trọng nghề y, coi người làm cha làm mẹ biết nghề y là nhân từ, con cái biết nghề y là có hiếu:

       Phụ mẫu tri y khả dĩ từ

       Nữ nhi học dược hiếu tiên kỳ.

          (Cha mẹ biết y đáng gọi là từ

       Con gái học y là điều đầu tiên của hiếu).

       Ông tuyển chọn những bài thuốc Nam gia truyền đơn giản mà công hiệu, viết thành thơ (Tác dược phương thi) để dạy học trò và cho nhân dân dễ nhớ:

       Gia truyền kinh nghiệm vi thi tụng

       Gia giảm tuỳ thời bất tận quy.

       (Đem các phương gia truyền viết thành thơ cho dễ nhớ,

       Gia giảm phải tuỳ thời mà vận dụng cũng không hết phép tắc).

       Một số bài “thơ thuốc” của ông như Nông nhân tứ thời cảm mạo phương, Giải thử phương, ẩm thực phúc thống phương, Ngược tật phương, Phong thấp tửu, Sang độc gia truyền phương, Trần bì phương... thường ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ thực hành mà hiệu nghiệm, rất thuận lợi cho dân nghèo. Chẳng hạn bài Trị xà giảo phương (Phương thuốc chữa rắn cắn) là một trong số đó:

       Xà giảo tầm thường chúng bất tri

       Mã đề lộ thượng chính kham y

       Địa dương khương thảo phù đao diệp

       Khởi tử hồi sinh lập khả kỳ.

       (Rắn cắn tầm thường mấy kẻ hay

       Mã đề trên lối đắp ăn ngay

       Cỏ gừng, cỏ may, bồ cu vẽ

       Khởi tử hồi sinh mới có ngày).

       Hầu hết các bài trong Giang nam lão phố là thơ Đường luật, chủ yếu là thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt, còn ngũ ngôn bát cú chỉ có ba bài. Nói chung các bài thơ Đường luật của “Thần phú Giác Trai” niêm luật chặt chẽ, đối chỉnh. Một vài bài phá cách khá đẹp hoặc ở thể cổ phong phóng túng. Thơ Vũ Huy Trác ít dùng điển cố, từ ngữ dễ hiểu, hình ảnh giản dị gần gũi với nhân dân, gây được cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc, đồng thời mang tính tư tưởng của tác giả rõ nét, như bài Giai tiền thảo vịnh:

       Trước thềm dải cỏ sinh

       Mây tóc bốn mùa xanh

       Củ rễ dưỡng da, phế

       Xinh tươi đã rõ rành

       Người nằm trên chiếu nghỉ

       Thịt rượu dùng thường xuyên

       Ngày một thêm già yếu

       Vô tình việc nước non.

       Đọc Giang nam lão phố, phần nào ta hiểu được những suy tư tình cảm và tài năng văn học của Tiến sĩ Vũ Huy Trác, một danh nhân của Nam Định địa linh nhân kiệt, tác gia Hán Nôm tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu Bắc Hà thời Hậu Lê, ta thêm tự hào về truyền thống cha ông. Đặc biệt, đối với bạn đọc yêu mến thơ Đường luật, Giang nam lão phố thi tập là tài liệu tham khảo bổ ích.

 

       TMG

…………..

 

Chú Thích:

        (1) Phan Kính (1715 - 1761) người xã Lai Thạch, huyện La Sơn nay thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Thám hoa năm 1743, làm quan đến Đốc đồng Tuyên Quang, có tập Dĩ Trực thi tập để lại ở đời.

          (2) Trần Văn Trứ (1716 - ?) người xã Từ Ô, huyện Thanh Miện nay thuộc xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1743, làm quan đến Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Thiêm đô ngự sử kiêm Quốc tử giám Trực giảng.

          (3) Hà Tông Huân (1697 - 1766) người xã Kim Vực, huyện Yên Định nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1724, làm quan đến Tham tụng, Binh bộ Thượng thư. Ông nổi tiếng là bậc tôn sư, đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt cao.

          (4) Đoàn Nguyễn Thục trước tên là Đoàn Duy Tĩnh (1728 - 1783) người xã Hải An, huyện Quỳnh Côi nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1752, làm quan đến Phó đô ngự sử.

          (5) Nguyễn Tông Quai (1693 - 1767) người xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên nay thuộc xã Hiệp Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Hội nguyên Hoàng giáp khoa Tân Sửu (1721), làm quan đến Hộ bộ Tả thị lang, tước Ngọ Đình hầu.

          (6) Các trích dẫn thơ trong bài theo bản dịch của nhóm Dương Văn Vượng, Trần Mỹ Giống, Hoàng Dương Chương.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét