Thứ Tư, 23 tháng 6, 2021

TIỂU THUYẾT "CƠN GIÔNG" CỦA LÊ VĂN THẢO RẤT DỞ, VIẾT CÂU VĂN CÒN SAI NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT VẪN ĐƯỢC GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC ASEAN VÀ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC HỒ CHÍ MINH / Trần Mạnh Hảo

 


       Hơn một tháng trời qua, nhờ bạn bè và nhờ một số thư viện, chúng tôi (TMH) đã có đầy đủ 20 tác phẩm của 09 nhà văn được hội đồng tuyển chọn Hội nhà văn Việt Nam đề cử dự giải thưởng văn học Hồ Chí Minh 2011 (trừ hai vị Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm xin rút), 279 tác phẩm của 68 tác giả được hội đồng này đề cử giải văn học nhà nước 2011 (trừ nhà văn Sơn Tùng và gia đình nhà văn Sơn Nam xin rút).

       Chúng tôi đã, đang và sẽ đọc 300 tác phẩm của các “đỉnh cao văn học” trên và sẽ lần lượt in các bài phê bình từng tác giả, tác phẩm này trên các trang báo mạng, ngõ hầu rộng đường dư luận.

       Có điều lạ là trong danh sách đề cử giải thưởng nhà nước 2011, chúng tôi thấy một số nhà văn có tác phẩm hay hơn rất nhiều các vị được đề cử giải cao hơn là Hồ Chí Minh; ví như hai nhà phê bình hàng đầu thời trước năm 1945: Thiếu Sơn và Trương Tửu; ví như các nhà văn có đóng góp lớn khác như: Hữu Loan, Sơn Nam, Nguyễn Thành Long, Trang Thế Hy, Hoàng Ngọc Hiến… Một số nhà tiểu thuyết như Đào Thắng, Hoàng Minh Tường, Văn Lê, Thái Bá Lợi, Xuân Cang, Văn Linh, Phù Thăng, Nguyễn Phan Hách, Hồ Anh Thái… có tên trong danh sách đề cử giải thưởng nhà nước không những không thua kém mà chất lượng tác phẩm của họ còn khá hơn Lê Văn Thảo, Hồ Phương… là những vị được đề cử giải Hồ Chí Minh. Một tập truyện ngắn “Tuồi thơ im lặng” của Duy Khán (đề cử giải nhà nước) cũng có thể vượt lên hầu hết mấy vị viết truyện ngắn được đề cử giải Hồ Chí Minh. Các nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc như Lê Minh Khuê, Nguyễn Dậu… chỉ được đề cử giải Nhà nước trong khi chất lượng tác phẩm của họ chí ít cũng hơn một số vị được đề cử giải HCM. Về thơ, các tập thơ của Nguyễn Trọng Tạo, Anh Ngọc, Hoàng Nhuận Cầm, Bế Kiến Quốc, Trần Ninh Hồ, Lâm Xuân Vy… chỉ được đề cử giải nhà nước, trong khi các tập thơ dở hơn của Hữu Thỉnh (“Trường ca biển”, “Thương lượng với thời gian”), Phạm Tiến Duật (“Đường dài và những đốm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”) thì vì sao lại được đề cử giải cao hơn là Hồ Chí Minh?

       Chỉ cần liếc qua danh dách đề cử hai loại giải thưởng trên, những người theo dõi văn học Việt Nam trong 50 qua đã thấy nhãn tiền là các tiêu chuẩn, tiêu chí giá trị chất lượng tác phẩm bị đảo lộn, bị đánh tráo, không đúng, không công bằng, chỉ tổ gây mất đoàn kết và gây mất uy tín cho nhà nước Việt Nam mà thôi. Mặt khác, hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng, tiền xương máu của nhân dân lấy ra làm tiền giải thưởng sẽ bị ném vào trò chơi của các giá trị ảo…

       Xin trở lại phần chính của bài này là phê bình tác phẩm đỉnh cao của Lê Văn Thảo, tiểu thuyết “Cơn Dông” (NXB Trẻ 2011). Trên bìa đầu cuốn sách này, thấy có ghi “Giải thưởng văn học ASEAN 2006”. Lê Văn Thảo đã từng hai lần được giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam vào năm 1998 và 2003. Năm 2007, ông đã được giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Lê Văn Thảo trong mười năm (2000-2010) là chủ tịch Hội nhà văn TP.HCM, nguyên phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam khóa bảy (2005-2010). Lần này, 2011, tiểu thuyết “Cơn dông” của ông cùng ba tác phẩm khác được đề cử giải thưởng văn học Hồ Chí Minh.

       Không biết nhà văn Lê Văn Thảo đã đọc kiệt tác “Giông tố” của văn hào Vũ Trọng Phụng do nhà xuất bản Văn Thanh Hà Nội in từ năm 1937 chưa mà ông lại lấy tên tác phẩm của mình gần như trùng với tên tác phẩm lừng danh của người xưa, tưởng là điều nên tránh?

       Xin đọc một đoạn văn ngắn của “Cơn giông”, được tác giả in chữ to ngoài bìa bốn để quảng bá “phong cách” của văn mình: “Cả khu chợ tan hoang. Quán Hai Chất bị tốc mái, khách khứa vẫn tấp nập. Bằng lên quán uống cà-phê, mặc Thủy và gã con trai tìm người phụ cáng đưa bà mập đi bịnh viện. Hai Chất vẫn yên vị trên chiếc ghế mây, như không hề có cơn giông, báo tin ông Sáu Thiên đã đưa đứa con gái mù ra chợ Cà Mau gặp tay người Mỹ, tránh được cơn giông, kêu Bằng ra đó có chuyện cần bàn. Rồi lại báo tin trại cải tạo cho người đi tìm Bằng”. Đoạn này về mặt văn học không có gì, chỉ là lời kể lể hơi bị lủng củng, dây cà dây muống trong câu văn thứ tư; nó chỉ thông báo cái điều quan trọng nhất của tác phẩm là Bằng phải trở lại trại cải tạo.

       Chủ đề chính của “Cơn giông” nhằm minh họa cho chính sách của đảng và nhà nước Việt Nam sau năm 1975: con người tha hóa của chế độ cũ chỉ có thể được cải tạo thành người tốt thông qua lao động chân tay trong trại cải tạo.

       Nhân vật chính trong “Cơn giông” là Bằng có một số phận hẩm hiu từ lúc năm, sáu tuổi: một cơn giông lớn đã nhấn chìm chiếc ghe cùng cha mẹ anh (Bằng); chỉ một mình cậu bé sống sót trên vùng đầm nước mênh mông Cà Mau. Bằng được người cha nuôi mang về, phiêu bạt giang hồ, ăn nhờ ở đậu trên nhiều ghe khác cho đến lúc 12 tuổi lên chợ làm thuê đủ mọi nghề cực nhọc. Đến tuổi trưởng thành, người cha nuôi mang Bằng lên thành phố kiếm sống bằng nhiều nghề khổ cực. Gặp lúc quân giải phóng đánh vào thành phố, Bằng chạy qua chỗ giao tranh, thấy có lá cờ giải phóng anh phất đại khi người cầm cờ bị thương. Rồi vận may đến, Bằng được người cha nuôi tìm cách gài vào lấy một cô gái con nhà giàu. Chàng trai giang hồ bạt tử bỗng chốc trở thành giám đốc, lại bỗng chốc bị đi tù vì thụt két.

       Tiểu thuyết bắt đầu từ lúc Bằng ra tù, li dị vợ, được vợ chia cho cục vàng khá lớn bèn về quê hương mũi Cà Mau dựng nghiệp. Một cục vàng anh bán để đóng chiếc ghe đẹp nhất xứ Cà Mau; một cục giấu dưới tấm ván đáy ghe phòng thân. Bằng một mình chặt đước dựng nhà nơi heo hút nhất bờ sông Ông Trang.

       Trên miền sông nước vô cùng tận đó, các nhân vật trôi nổi như những dề lục bình dạt vào số phận anh, với những cuộc đời khác nhau: hai anh em thằng sinh đôi mồ côi mẹ nghèo khổ thất học, bà mập và ông già ròm quái ác, Thủy - cô tiếp viên không đẹp nhưng nhân hậu, Long Cụt du côn du đãng bị lão ròm từng chiêu hồi theo giặc đâm chết, bỏ lại đứa con gái mù tội nghiệp… Một nhân vật có tên là Sáu Thiên, cán bộ cách mạng, thương binh, tốt cực, mà gàn cực, giang hồ cực, xuất hiện như chỉ để cứu vớt đời Bằng. Sau giải phóng, Sáu Thiên do ít chữ nghĩa và do chính trực đã xin nghỉ hưu, không cửa nhà cố định, phiêu bạt nay đây mai đó trên sông nước, gia tài chỉ có chiếc ba lô, thoắt ẩn thoắt hiện chuyên làm việc thiện, y hệt một ông thánh không vợ con, không gia đình, không tài sản, lúc nào cũng lạc quan, cười nói tưng tửng.

       Bằng là một tay anh chị chính hiệu, từng ra chiêu du đãng đo ván nhiều tên du côn khác. Do nghi ngờ Thủy ăn cắp cục vàng giấu dưới đáy ghe, Bằng ra đòn độc ác vô cùng với phái yếu. Đây là lời Bằng với Thủy trước khi thượng cẳng tay, hạ cẳng chân: “Vậy ai lấy? Có ma qủy ở đây hay sao? Xin cô biết cho, tôi chưa giết người, nhưng côn đồ quậy phá cũng đã từng, cô thật dại khi đụng vào tôi. Trừ phi cô nói cho tôi biết tại sao cô lấy tiền tôi, ăn cắp hay muốn trả thù, hay chuyện gì khác. Hay để tôi nói dùm cô?”. “Nhưng Bằng không nói nữa, đã hết ngôn từ rồi, đứng dậy bước tới túm lấy tóc cô gái lôi xuống sàn ghe bắt đầu cuộc đấm đá. Anh đánh vào mặt, vào cổ, vào bất cứ chỗ nào vớ được trên người cô gái, cô quằn quại kêu rên, ra sức chống đỡ anh càng nổi cơn điên khùng, tung những cú đấm cho tới lúc cô gái gục xuống, anh cũng bò lết đến nằm gục ở mũi ghe”…

       Sau cú đánh  Thủy thập tử nhất sinh chỉ vì nghi cô ăn cắp cục vàng, Bằng được ông Sáu Thiên đưa vào trại học tập cải tạo… Trong trại cải tạo, nhờ lao động trồng đước và nhờ những bài giáo dục chính trị, được ăn cơm tù ngon và nhiều đồ ăn như ăn tiệc, Bằng đã cải tạo được con người du côn độc ác thành một kẻ có lòng nhân từ vô bờ bến. Anh đã chinh phục được tay đại bàng Long Cụt ngay trong tù. Khi Long Cụt ra trại đi công việc, bị đâm chết, bỏ lại đứa con nuôi là cô gái mù bơ vơ tội nghiệp, Bằng đã vui mừng nhận cô gái mù làm con nuôi…

       Sau khi cải tạo xong, Bằng đã hóa thành người tốt quá mức, mở lòng ra đón nhận tình yêu của người con gái anh đã đánh gần chết là Thủy. Bằng quyết về sống với cô mở trại tôm bằng tiền do cô ăn cắp của anh lúc anh chưa đi tù…

       “Cơn giông” của Lê Văn Thảo là motif  “văn học minh họa” đã lỗi thời, đã bị nhà văn tài danh Nguyễn Minh Châu làm bài ai điếu. Chuyện này của Lê Văn Thảo viết rất lằng nhằng, nhiều chi tiết ngẫu nhiên, lan man, chuyện nọ xọ chuyện kia, đọc rất mệt, hầu như không có sức hấp dẫn. Những nhân vật trong tiểu thuyết này được miêu tả khá sơ sài, công thức, mờ nhạt, khiên cưỡng, áp đặt, thiếu tự nhiên. Ông Sáu Thiên, đảng viên cộng sản, cựu chiến binh thì tốt còn hơn thánh. Ông Sáu Thiên được mô tả là ít chữ mà sao toàn đứng trong bóng tối “lãnh đạo”, “định hướng” cuộc đời nhân vật Bằng bằng những lá thư tràng giang đại hải phi logic thế? Bà mập với lão ròm (từng là bộ đội chống Mỹ ra chiêu hồi) thì xấu đến mức phi lý. Nhân vật Ông Già coi trại tù thì nhân đức, thương người đến phát khóc…

       Không hiểu sao Lê Văn Thảo lại dám mô tả trại tù này giống như một thiên đường dưới thế? Tiểu thuyết tô hồng này hoàn toàn không chinh phục được cảm tình người đọc. Vả, “Cơn giông” được viết với một ngòi bút thiếu nghề, thiếu nghệ thuật. Rất nhiều đoạn trong cuốn sách này được viết rất cẩu thả, văn phong lủng củng, chấm phảy lộn tùng phèo. Xin lấy một số thí dụ:

       Trang 12, thử trích một câu văn của Lê Văn Thảo: “Trời sáng ra nắng lên, nhìn rõ hai bên bờ nhà san sát, lòng sông dập dìu xuồng ghe ngược xuôi, anh thấy vui lên một chút, ghe bán đồ ăn thức uống từ trong bờ đâm ra chào mời inh ỏi anh mua đủ thứ, chè trôi nước xôi đậu đen bánh canh, uống nước dừa sữa đậu nành, đám thanh niên bên chiếc ghe chài ngồi chồm hỗm nhìn sang ngạc nhiên như nhìn thấy lần đầu, anh cười đưa tay vẫy chúng vây lại, rồi chúng quay ra kêu mua đồ ăn chọc ghẹo cô gái bán hàng”

       Đoạn văn trên Lê Văn Thảo quên mất bốn dấu chấm câu.

       Trang 18, câu văn này tác giả đã quên bốn dấu chấm câu: “Bên kia đám thanh niên leo lên mui cười giỡn, bà mập la lối, ông ròm ngồi lặng thinh, cô gái leo lên xuống bưng bê, cả ghe tụ lại ăn tiếp tục cười giỡn la lối”..

       Trang 19, trong câu văn này tác giả đã quên ba dấu chấm câu: “Chiếc ghe vẫn đậu kề bên, đám thanh niên cười đùa, bà mập quát tháo, ông ròm lặng thinh, cô gái biến đi đâu mất”.

       Trang 52, tác giả quên chấm câu: “Con chó vẫn không nhúc nhích, anh dọn dẹp châm trà ngồi xếp bằng ngó ra sông”

       Trang 110, tác giả đã quên ba dấu chấm câu: “Người lái xe lôi dưới sàn ra giỏ đồ ăn, người công an bới cơm đưa cho mọi người, ghe vẫn chạy trong ánh chiều dát vàng”.

       Trang 152,153, câu văn tràng giang đại hải này tác giả đã quên khá nhiều dấu chấm câu: “Bằng lấy thêm bánh trái nước ngọt cất vào trong túi xách, men lại gần người lái ghe chỉ bến ghé, người lái ngạc nhiên nhưng vẫn cho ghe ghé vào, mọi người trầm trồ căn nhà, cô dâu đòi chụp hình, khách khứa ồn ào kéo lên đứng giăng hàng ngang cạnh chiếc vỏ, Bằng là ông chủ đứng chính giữa, người thợ chụp hình chạy lom khom tới lui bấm máy lắc rắc”.

       Chúng tôi còn có thể dẫn ra đây hàng chục dẫn chứng về việc nhà văn Lê Văn Thảo không biết cách chấm câu văn sao cho đúng tiếng Việt.

       “Cơn giông” một tiểu thuyết từng được giải thưởng văn học ASEAN, sắp được giải thưởng văn học Hồ Chí Minh, tức là thuộc tác phẩm đỉnh cao, trên mức tác phẩm xuất sắc là giải nhà nước, lẽ nào lại là một tác phẩm tô hồng thô kệch, nhạt nhẽo, phi nghệ thuật, thậm chí không biết viết một câu văn tiếng Việt cho chuẩn xác, không trang nào có văn như thế này ư?

       Hay đây là giải Hồ Chí Minh ngược, nghĩa là dùng để tôn vinh những tác phẩm dở nhất nước?

       Sài Gòn ngày 23-9-2011

                     T.M.H.



Ảnh: nhà văn Lê Văn Thảo - nguyên phó chủ tịch Hội nhà văn quốc doanh Việt Nam, nguyên chủ tịch Hội nhà văn quốc doanh thành phố Hồ Chí Minh...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét