Nhà văn Thủy Điền |
Năm học thứ 2
Chuyện gì rồi cũng quen dần, từ nơi ăn, chốn ở, tình bạn và học
tập. Chỉ trong vòng một năm mà dường như chúng tôi là anh em cùng chung một Gia
đình không hơn, không kém.
Sau một tháng Hè trở lại, tay bắt, mặt mừng, sự hội ngộ tăng niềm vui sướng, kể
lể nhau nghe trăm ngàn mẩu chuyện thật là lý thú vô cùng. Cũng như năm đầu
tiên, khi bước vào niên học mới, giờ giảng đầu chỉ là giờ nhắn nhủ, làm quen,
chuyện trò với một Thầy Chủ nhiệm mới.
Ông ta
là một Kỹ sư Địa chất vừa từ Bắc vào Nam công tác. Tên là: Đinh sĩ Liển,
tuổi trạc bốn mươi, người Hà tỉnh nói tiếng trọ trẹ khó nghe nhưng mềm mại và
dịu dàng. Nên cũng dễ thu hút các nàng thiếu nữ phương Nam. Hồi đầu ông
nói rất khó nghe, cứ hỏi đi, hỏi lại nhiều lần cảm thấy thấy vô duyên, dần dần
hơi quen, cuối cùng ngày nào cũng nghe trên mục giảng mãi rồi trở thành bình
thường. Về mặt tình cảm ngoài giờ làm việc ông ta rất thoải mái và dễ chịu hay
nói cách khác làm gì cũng được, đừng vượt quá những gì không cho phép. Nhưng
khi vào làm việc thì rất là nguyên tắc, vì thế nhiều anh thanh niên Nam bộ khoá tôi
không hiểu rõ về ông hoặc hiểu một cách cạn cợt mà sau nầy phải hối hận dài
dài.
Lời
nói đầu tiên của ông ta chơi ra chơi, làm ra làm, học ra học thì mới đạt kết
quả tốt. Như tôi đã kể phần trên là một số anh em trong lớp sau nầy phải hối
hận về việc làm của mình tôi nghĩ là đúng, đừng bao giờ trách ông ta sao quá
đáng. Bởi vì ngay buổi đầu, ông đã nói đi, nói lại chuyện chơi và làm việc rất
nhiều lần mà không màng đến.
Vào
đề! Ông nhấn mạnh những khuyết điểm tồn tại của năm học vừa qua mà không đưa ra
một ưu điểm nào cả. Rõ ràng đâu có ưu điểm mà nêu lên để khen ngợi. Ông đề nghị
thay đổi ngay bộ máy Lãnh đạo lớp cũ trong vòng ngày hôm nay, thì mọi việc có
thể thay đổi được và hướng phát triển lớp sẽ khấm khá hơn. Hầu thực thi đúng
đường lối, phương hướng thi đua của nhà trường một cách triệt để. Lạ thật bản
chất của lớp tôi hồi ấy từ ngày đầu cho đến khi ra trường trước sau như một,
không cầu tiến, ba phải, thế nào cũng gật đầu cả.
- Ông hỏi tất cả có nhất trí không?
- Tất
cả đồng nhất trí, công bằng mà nói khi ông muốn là trời muốn, anh em chúng tôi
chỉ biết bỏ phiếu thuận vì đây là một sự lựa chọn sẵn từ cấp trên.
Sau khi đã đồng ý, ông tuyên bố giải tán Ban Cán sự cũ và bầu Ban Cán sự mới.
Tuy là giải tán Ban Cán sự cũ nhưng trong đó chỉ phân nửa mà thôi, người đâu mà
thay một lượt cho đủ. Trong số những người ra đi đầu tiên là anh Hậu kế đến là
tôi và vài ba anh chị khác. Người thay thế lớp trưởng kỳ nầy là anh Đức. Anh
Đức vốn là một Đoàn viên uy tín của nhà trường và là Bí thư của lớp, anh có vẻ
am hiểu tâm lý anh em, tính tình hiền hậu, dễ mến.
Chính những ưu điểm và lợi thế đó nhà trường muốn đặt
anh vào vị trí lớp trưởng. Tôi nghĩ cũng đúng thôi, bởi vì lãnh đạo một tổ chức
phải cần có con người như thế.
Qua phần bầu bán tôi thấy gương mặt Thầy Chủ nhiệm rất dễ chịu và hy vọng
rất nhiều. Bắt tay anh Đức ông ta chúc mừng và gởi hết niềm tin vào đó.
Phần kế đến ông ta đi thẳng vào ngành nghề. Ví dụ như: Những môn học chuyên
môn, cách thức học tập thế nào để đạt được kết quả cao. Năm thứ hai nầy chúng
tôi phải học các loại máy Khoan, khoan thăm dò, khoan Địa tầng, đánh giá Địa
tầng, cách xử lý sự cố, đo vẽ trắc đạc, lấy mẩu đất, vẽ bản vẽ, viết thuyết
trình báo cáo. Ngoài ra chúng tôi phải học thêm những môn phụ như Thể dục thể
thao, Quân sự, cách tổ chức Đội khoan và tính toán Lao động tiền lương. Tiếp
theo ông nhấn mạnh vấn đề quan trọng là sau khi học Lý thuyết năm thứ hai xong.
Chúng tôi phải lên đường đến một cơ quan Thủy lợi nào đó để thực tập tay nghề
Công nhân, thời gian là một tháng. Nơi nào và chừng nào thì hiện tại chưa rõ.
Điều cần nhất là chúng tôi phải chuẩn bị tinh thần. Mọi tin tức sẽ được thông
báo trong thời gian tới.
Công việc học tập năm thứ hai khác hẳn năm đầu tiên rất nhiều, ông chia chúng
tôi thành từng nhóm một, lẫn lộn người giỏi, người trung bình và người kém với
nhau, mỗi nhóm làm ba người. Sau khi lên lớp vào buổi sáng xong, thì buổi chiều
tập trung lại ôn tập, người nào giỏi có nhiệm vụ giúp đỡ và hướng dẫn người
kém. Nếu trường họp không giải quyết được vấn đề sẽ có Thầy Chủ nhiệm hoặc Giáo
viên bộ môn trực tiếp hướng dẫn. Có nghĩa là làm thế nào mỗi học viên đều phải
thấu hiểu vấn đề một cách thừng thuộc. Trên nguyên tắc và lý thuyết thì thấy
rất là ngoạn mục, chính bản thân tôi cũng công nhận và cho đây là một phương
pháp tuyệt vời. Tôi nghĩ. Có lẽ ông đem những kinh nghiệm của ông từ những năm
học Đại học ngoài Bắc vào để áp dụng cho nhanh chóng và hiệu quả hơn. Nhìn một
cách khái quát năm thứ hai nầy ngành chúng tôi sẽ tiến nhanh vượt bực.
Sau ba tiếng đồng hồ, nào là bầu bán, thảo luận dự án nầy, dự án nọ, tôi nhận
thấy tinh thần anh em bắt đầu bải hoải, ông ra lệnh cho nghỉ trước một tiếng về
nhà nghỉ cho khỏe để chuẩn bị ngày mai lên lớp bình thường.
Với những giây phút vật lộn với đất và đá ở trường lớp vất vả, mệt nhọc có lúc
muốn bù đầu, bù cổ. Bởi những danh từ chuyên môn mới, khó hiểu, nhưng khi thoát
được về nhà thì như đàn Chim vỡ Tổ. Anh thì đàn, chị thì ca hát, chọc phá ầm
vang. Thậm chí ảnh hưởng đến hàng xóm gần bên, rồi tai tiếng lên Ban Giám hiệu
nhà trường, cho nên ông Chủ nhiệm có nhiều lần nhắc nhở và họp tới, họp lui tìm
Thủ phạm. Nhưng rất tiếc không ai chịu cha ăn cướp.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng nhanh như chốp mắt, lần lượt đi vào những kỳ thi
cuối môn, chúng tôi phải tranh thủ thời gian, có lúc phải thức rất khuya trong
chiếc mùng ngủ, bên ánh đèn Nến loe loét để hoàn thành những Bản vẽ và ôn lại
những bài vở để thi cho được kết quả cao.
Điểm qua những đường lối và kiểu cách học tập mới, kỳ thi năm nay tất cả đều
đạt kết quả. Tuy không cao lắm, nhưng cả Thầy lẫn trò ai cũng hài lòng.
Sau khi thi xong, chúng tôi được tập trung lại để nghe thông báo, cũng như bàng
kế hoặc lên đường đi thực tập. Cuộc đi thực tập tay nghề Công nhân kỳ nầy được
tổ chức rất rình rang và chu đáo, vì số lượng người khá đông, trên dưới bốn
chục người. Thời gian qui định là một tháng, địa điểm là Ty Thủy lợi Tỉnh Sông
bé, một tỉnh lỵ thuộc miền Đông Nam Bộ. Tất cả từ Vật dụng đến Thức ăn là phải
tự túc từ trường mang đi, do đó rất cồng kềnh và phức tạp. Cơ quan nơi đó chỉ
tạo điều kiện cho chúng tôi thực tập và chỗ ở. Ngoài ra không có gì hết.
Đầu tháng
7-1979 chiếc xe khách họp đồng của Xí nghiệp quốc doanh Tiền giang đã chờ trước
cổng trường đúng tám giờ sáng, chúng tôi cho tất cả hành lý lên xe, rồi cùng
nhau mỗi người khuân vác những vật dụng cần thiết như Gạo thóc, đồ dùng tập thể
lên sau. Ông Chủ nhiệm bắt đầu kiểm tra lần cuối, đúng chín giờ như dự định,
chiếc xe dần dần chuyển bánh. Anh em trong đoàn tỏ vẻ vui mừng, cười nói xôn
xao, đàn hát vang trời, thật là sinh động y như một cuộc du ngoạn không hơn,
không kém.
Khoảng mười giờ, chiếc xe qua khỏi cầu Tỉnh Long an, giữa cánh đồng trống rộng,
mênh mông. Những ngọn lúa non hai bên đường phất phới theo làn gió, gọp thành
những lượn sóng nhấp nhô trông rất đẹp mắt. Nhìn màu lúa mạ xanh ngát một trời,
đang vươn mình trong nắng ấm, xuyên qua cửa sổ tôi miên man và cảm nhận rằng,
chúng tôi những người đi làm Địa chất cần phải phác huy và làm đẹp hơn
nữa để cánh đồng luôn mãi một màu xanh. Gió trời
nhè nhẹ thổi, dịu mát lòng người len lén qua từng ô
cửa sổ, phủ lấp những giây phút tưng bừng náo nhiệt, thỉnh thoảng tôi quây đầu
về phía sau, nhìn quanh thì thấy những anh chị yêu quí của tôi đang im lìm
trong giấc ngủ. Có lẽ Họ mệt lả vì đêm liên hoan tối qua. Nhưng Họ chỉ chộp mắt
trong khoảnh khắc rồi trở lại vui mừng, hớn hở. Không vui sao được, khi được đi
xa sau hai năm dài học tập mệt mỏi nơi nhà trường. Tôi nghĩ tâm trạng Họ bây
giờ như đang được du hí một vòng, mà không ngỡ mình đang đi thực tập hay đang
đi học. Tuổi trẻ ăn chưa no, lo chưa tới, chúng tôi rất hồn nhiên và bình dị.
Ra khỏi Bình chánh, rồi Bình điền, Phú lâm xe rẽ trái vào xa lộ Đại hàn chạy một
mạch về thị xã Lái thiêu và điểm cuối cùng là Thủ Dầu Một. Rất tiếc là xe không
xuyên qua thành phố Hồ chí Minh để ngắm nhìn Sài gòn hoa lệ, cảnh náo nức nhộn
nhịp của một thủ đô ngày nào được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông. Gần đến Bình
dương thì ai ai cũng đều tỉnh giấc để nhìn hai bên đường vẻ đẹp của xứ Măng
cục, Lôm chôm và những vườn Cao su mung mút một trời.
Thật đúng nghĩa của một Miền Đông Nam Bộ, mới mười một giờ trưa mà nắng chói
chang, oi bức, hừng hực như lửa cháy rất khó chịu, cơ thể khô khan dường như
chất nước bị bốc đi dần trong đáng sợ. Cái nắng khác hẳn Miền tây Nam Bộ. Tuy,
nắng chẳng thua gì nhau nhưng không oi bức đến thế. Vừa bước xuống xe thấy cái
Giếng ai cũng muốn nhào đến đó tát mạnh vài Gàu cho đả mát.
Chúng tôi đến Ty Thủy lợi khi Mặt trời vừa đứng bóng. Anh em bụng đói rã rời,
thân xác mỏi mòn vì cả nửa ngày trời ngồi trên xe chật hẹp và cúm núm. Ban lãnh
đạo Đoàn làm việc với Ty xong, chúng tôi được đưa về những dãy nhà vừa mới cất
của Ty để tạm nghỉ đôi hôm, để chờ ngày lên đường đi Công trường. Lúc nầy mạnh
ai nấy tự sắp xếp riêng cho mình chỗ nghỉ tạm. Nam theo nam, Nữ theo nữ rõ ràng.
Phần ăn uống có toán chị nuôi của nhà trường đi theo phục vụ cho nên cũng an
tâm. Trọn nguyên buổi sáng hôm ấy, anh em chỉ ăn tạm vài miếng khoai mì và cốc
Cà- phê đen trước khi đi, cho nên ai cũng đói rã người. Chúng tôi chờ mãi đến
chiều mới có cơm vào bụng, thật là vất vả.
Ty Thủy lợi Sông bé được tọa lạc cách thị xã Thủ dầu một khoảng đường bốn cây
số về hướng nam, nằm trên ngọn đồi trọc không cao lắm, diện tích đất rộng lớn,
xung quanh trồng chừng mười cây Bã đậu che mát. Những cơ quan trực thuộc Ty Thủy
lợi như: Văn phòng Trưởng ty, Đoàn Khảo sát thiết kế, Công ty xây dựng Thủy
lợi, Phòng Hành chánh Tài vụ, khu nhà ở tập thể của Cán bộ và Công nhân viên
tất cả đều được qui tụ chung trong khu vực nầy. Bởi thế mọi quan hệ cũng như
sinh hoạt rất dễ dàng. Phía phải Ty là một thung lũng, dọc theo thung lũng nầy
người ta trồng rất nhiều thứ như: Mì sắn, Chuối và Rau muống. Chính giữa là con
Suối chạy dài chỉ có nước vào mùa mưa, còn vào mùa nắng thì khô cạn. Phía sau
Ty là một vùng đất trống rộng hàng ngàn mẫu đất thênh thang dài vô tận, không
cây cối và cỏ dại, xa xa lố nhố vài ngôi Mộ cổ. Điều đáng nói ở đây cái
gì cũng có thể thông cảm và chấp nhận được, nhưng tình trạng nước nôi rất khan
hiếm vào mùa khô. Chính lẽ đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của con
người nói chung và Cán bộ Công nhân viên nói riêng nhất là phụ nữ.
Hai ngày trôi qua với mọi thông báo, sinh hoạt, hội họp trực tiếp với Ban lãnh
đạo Ty và Đoàn Khảo sát thiết kế, chúng tôi chuẩn bị hành trang lên đường đi
công trường. Trong chuyến đi nầy chúng tôi công tác trực tiếp chung với hai đội
khoan của Ty. Hiện tại Họ hóa chúng tôi như một công nhân chính thức mà không
còn là một học sinh nữa. Họ đòi hỏi chúng tôi phải vận dụng hết những kiến thức
đã học vào công việc, ban ngày chúng tôi phải làm việc, ban đêm về nghiên cứu
học thêm. Thời gian cứ thế cho đến khi công trình hoàn tất.
Một đoàn xe gồm ba chiếc, vừa họp đồng vừa của Ty lẫn lộn chở nặng cồng kềnh
những máy móc, dụng cụ và người di chuyển è ạch gần cả ngày trời, vượt gần bảy
chục cây số đường đồi để đến công trình Hồ chứa nước Sam rin.
Dự
án Hồ chứa nước Sam rin thuộc xã Bù nho, Huyện Phước long Tỉnh Sông bé. Hồi ấy
Sông bé được kết họp bởi ba tỉnh Bình dương, Bình long và Phước long. Ba tỉnh
nầy nằm trên vùng bình nguyên Đông Nam Bộ, nơi đây đường xá rất hiểm trở, chỉ
có rừng già và cây Cao su mà thôi. Nguy hiểm nhất là vào mùa mưa rất trơn trợt.
Rừng được chia làm hai loại là Rừng già và Rừng lồ ồ, thổ nhưỡng toàn một màu
nâu đỏ hay còn gọi là đất đỏ ba gian. Muổi, Dắt, Đỉa, Cuốn chiếu là những thứ
không thể thiếu của núi rừng Sam rin. Hể chạm đến nó là máu chảy, xưng phù và
ngứa ngáy. Về mặt dân cư nói chung là người dân tộc Họ sống từng nhóm một, có
thể là một họ tộc hay một Gia đình gì đó còn nói Họ là dân tộc nào thì tôi
không rõ. Vì thời gian chúng tôi công tác nơi đây quá ngắn ngủi nên chưa tìm
hiểu được. Họ sống rải rác cách nhau chừng vài cây số một nhóm nhà, dân số rất
ít. Chung quanh khu ở của Họ rất lớn là những nương rẫy trồng Ngô và Bầu hình
số tám. Trong những năm sau giải phóng chính phủ đả quy hoặch Sam rin thành một
vùng kinh tế mới, nên đã đưa gần năm chục hộ dân từ Hà Nam Ninh vào lập nghiệp.
Những người nầy đã có mặt sẵn ở đây trước khi chúng tôi đến công tác. Chính
những lý do đó Sam rin cần phải có một Hồ chứa nước trong tương lai, để phục vụ
cho số dân cư nầy và một số người dân tộc hiện đang sinh sống. Song song cũng
cung ứng một lượng nước lớn vào mùa khô để đáp ứng cho công tác Nông nghiệp.
Dự án và kế hoặch trước mắt thì thấy
rất là khả quan, nhưng khi chúng tôi vừa đến nơi thì thấy rất nhiều căn nhà bị
bỏ trống hơn hai phần ba và đang rụi dần theo thời gian. Cũng may, chính những
căn nhà nầy đã che nắng, che mưa anh em chúng tôi trong những ngày thực tập.
Còn nếu không thì vất vả vô vàn. Có lần tôi tò mò hỏi ông Bác láng giềng người
Bắc vào lập nghiệp?
Thưa Bác!
- Tại sao những căn nhà nầy không có người ở mà cất lên làm chi cho phí vậy Bác?
Ông
Bác trả lời một cách hiền hoà và từ tốn.
- Lúc đầu, sau khi nghe vào Nam
làm kinh tế thì ai ai cũng ùng ùng đăng ký xin đi, đến khi đi thì Họ không chịu
đi. viện lý do nầy, lý do khác, cháu biết muốn bỏ quê hương mà đi xứ khác người
ta đắn đo nhiều lắm, tôi cũng thế, bởi vì nghèo và tương lai các cháu nên đành
vậy thôi. Còn trong nầy kế hoặch đưa ra thì nhà nước phải làm, chuyện vào đông
đủ hay ít hơn nhà nước chưa biết trước cho nên sự thể mới ra thế nầy.
Ông nói tiếp:
- Lý
do thứ hai, khi vào được đến đây vài ba tháng, bỗng dưng Họ biến từ từ, một số
về quê trở lại, một số có thân nhân trong Nam Họ theo thân nhân đi làm ăn nơi
khác. Tôi rất tiếc không quen ai nên còn nằm nơi đây nếu có thì
cũng biến mất rồi.
Nghe ông Bác kể tôi mới vỡ lẽ và bùi ngùi cho số phận con người.
Nhiệm vụ của chúng tôi đến đây là khoan dọc tuyến Suối Sam rin, chiều dài gần
một cây số, chiều ngang là năm trăm mét và nghiên cứu bãi vật liệu cách đó năm
trăm mét về hướng Đông. Mục đích khoan là theo giỏi Địa tầng xem trong tương
lai có thể xây dựng Hồ chứa nước được hay không.
Suốt ba tuần lễ miệt mài công tác tại Sam rin, tôi thấm nhuần được câu nói của
Cô Lan ngày nào, dù công việc học tập rất khô khan và mệt nhọc, nhưng lắm lúc
tôi cảm thấy thú vị vô cùng. Tại sao? Vì ngành nghề nầy nói chung mang đầy tính
chất Kỹ thuật và Khoa học. Rồi va chạm thực tế, sống hoà đồng trong môi trường
thiên nhiên, tương lai mang lại lợi ích cho mọi người. Bao nhiêu đó cũng đủ làm
cho tôi và những người đồng hành nhiều tự hào, cảm hứng và hạnh phúc.
Trong cuộc sống dù ít hay nhiều có cái tham khổ, miệt mài, chịu đựng, chung độn,
đoàn kết và thông cảm. Tất cả những thứ nầy được góp lại thành một tình yêu, mà
đã nói là tình yêu thì dẫu sao đi nữa đương nhiên nó phải cao đẹp. Cũng chính
trên công trường nầy, cũng chính trong hoàn cảnh nầy nó đã làm cho nhiều con
Tim run động, dậy sóng, trong đó cũng có tôi và tôi đã bắt đầu yêu. Rồi yêu anh
từ đó, người yêu ấy là anh bạn cùng lớp, cùng đoàn và anh ta chính là người bạn
đoơi yêu quí của tôi ngày nay.
Ngày ấy thật đẹp, đẹp vô cùng. Ngày ấy thật tuyệt vời, tuyệt vời vô cùng.
Ngày ấy chính là những ngày…………..
Sau khi Công trình hoàn tất đúng
thời gian qui định, chúng tôi được lệnh rời khỏi Sam rin để trở vể Ty thực tập
tiếp công việc hành chánh như: Vẽ lại tất cả những gì đã thu thập được ở hiện
trường và viết lên thành Bản báo cáo.
Cũng ba chiếc xe quen thuộc đã đưa chúng tôi đi, bây giờ cũng chính nó đón chúng
tôi về. Nhưng lần nầy nó lại vất vả hơn vì nặng tải. Ở rừng ba tuần lễ, tranh
thủ lúc rảnh rỗi và ngày cuối tuần anh em gái trai đua nhau đi tìm kiếm, thâu
nhặt những cây Huyết rồng, Hà thủ ô và những cành hoa Lan rừng đủ sắc. Nói
chung hể có thứ gì là lạ là anh em chúng tôi mang về làm kỷ niệm. Các Bác Tài
xế thoạt đầu hơi khó chịu, từ chối những thứ kỳ cục nầy, nhưng rồi cuối cùng
lời qua, tiếng lại đành thông cảm và vui vẻ chở về cùng. Mỗi người mang một ít,
cả đoàn về đền Ty thành một đống hàng khổng lồ.
Về đến Ty, khuôn viên nơi chúng tôi tạm trú nếu ai có dịp đi ngang qua đều ngỡ
rằng như phố hàng Hoa, treo lủng lẵng, lung linh trước hành lang nhà trong rất
ngoạn mục.
Chiều hôm đó ngồi ăn cơm với nhau tại nhà bàn của Ty, tôi tâm sự với Đức và anh
Hậu rằng ngày mai thứ bảy, tôi muốn lén về nhà một chuyến, viện lý do là về Gia
đình xin ít tiền tiêu xài vì hiện tại túi tôi đã rổng thấy khó chịu quá. Hai
anh bàng lùi không muốn tôi đi, bảo tôi cố gắng thêm một tuần nữa là về rồi có
vì mà vội. Hai anh bảo nếu đi ngang như thế nầy, lỡ có chuyện gì khó ăn, khó
nói với Thầy Chủ nhiệm lắm. Có lý, nếu đi như thế rõ ràng là tôi phạm kỷ luật,
vì trong thời điểm nầy cấm không một ai được đi đâu cả, chớ đừng nói chuyện về
nhà hàng trăm cây số, còn muốn làm điều gì thì phải thông qua Ban lãnh đạo
Đoàn. Tuy nói là về xin ít tiền rồi lên ngay, nhưng đó là lý do nhỏ, lý do khác
là tôi nhớ mẹ tôi vô cùng và muốn rời xa chốn nầy một vài hôm cho thoải mái
tinh thần. Hơn nữa hai mươi mốt ngày sống nơi rừng núi Sam rin. Mặc dầu
có rất nhiều kỷ niệm nhưng tôi quá mệt mỏi và chán nản vô cùng. Tôi ngồi trầm
ngâm không nói một lời, gương mặt không vui, vì là phụ nữ, hai anh sợ tôi giận.
Cuối cùng cũng chìu tôi và hứa sẽ giúp tôi trong thời gian tôi vắng mặt. Kể lại
những lời nầy tôi thành thật xin lỗi anh Đức và Hậu với những hành động không
tốt của tôi.
Sáng thứ bảy tôi dậy sớm, sắp xếp rất gọn gàng cho một chuyến đi, tôi đón xe
thẳng về Sài gòn rồi về Tiền giang trong lặng lẽ, dường như mọi người xung quanh
tôi chẳng ai hay biết gì cả, cứ ngỡ tôi dạo chơi gần đâu đó. Về đến nhà đúng
mười giờ sáng tôi thấy sung sướng, thoải mái vô cùng như con Chim vừa được
người ta thả ra khỏi lồng. Ánh mặt trời đã rọi hẳn trong tôi, ấm áp, dịu dàng
và trong sáng. Gặp lại mẹ tôi, các em, bè bạn sau những ngày đi xa, tôi vui
mừng kể trăm ngàn câu chuyện nơi núi rừng sơn cước. Đêm ấy, tôi cùng bè bạn dạo
chơi một đêm đầy thỏa thích. Nghĩ cũng lạ lúc ở Công trường trông cho ngày đêm
qua mau mà sao chờ lâu quá, còn về đến nhà xoay qua, trở lại là đã hết một ngày
trong tít tắc.
Cơn vui chưa thỏa, nỗi mừng chưa vơi là lại chuẩn bị lên đường cho kịp lúc.
Tuy chưa thỏa mãn nhưng lòng tôi rất vui và
thoải mái.
Khoảng mười hai giờ trưa ngày Chúa nhật, trời vừa đứng bóng, nắng chang chang
tôi đã có mặt tại nhiệm sở đúng hẹn mà không một ai hay biết gì cả. Tôi để tay
nhẹ vào ngực và thầm nói. Hên quá.
Từ trên xe bước vào cổng tôi thấy các chị đang lốm nhốm ở nhà ăn, đang tập tụ
chuyện trò vì đó, tôi bước vào chào mọi người, mọi người hỏi tôi đi đâu?
Mà
Sao không thấy ăn cơm vì cả, phần cơm của Hoa còn chừa, vậy Hoa ăn đi để đói.
Ngoài ra chẳng hỏi vì thêm. Tôi trả lời dạ, các chị để em tự lo. Lại một lần
hên nữa, hú hồn, hú vía, rồi tôi ngồi ăn một mình và các chị cáo về.
Tuần lễ còn lại ở Ty Thủy lợi Sông bé nói chung rất thoải mái về mặt tinh thần
hơn những ngày nơi Công trường Sam rin, nhiệm vụ của chúng tôi rất đơn giản như
hội họp, đóng góp ý kiến, rút kinh nghiệm việc làm vừa qua để cùng nhau trao
dồi kiến thức. Sau những giây phút đó chỉ biết ăn no đi dạo vòng quang tối về
ngủ. Nặng nề nhất là Ban lãnh đạo Đoàn phải tập trung vào vẽ Bản vẽ, viết Báo
cáo để tường trình lên Ban lãnh đạo Ty trước khi về
trường.
Ròng rã một tuần làm công tác hành chánh xem như đã xong, thời gian và kế hoặch
tất cả đạt tiêu chuẩn, giờ chỉ còn giai đoạn cuối cùng là chúng tôi và Ty phối
họp tổ chức một đêm liên hoan chia tay.
Đêm liên hoan thật đình đám, có đông đủ tất cả mọi người trong Ty, vào đầu lời
khai mạc.
- Sự
cảm ơn của ông Đoàn trưởng đến vớí Ban lãnh đạo Ty và mọi người.
- Sự
cảm ơn của Đại diện Học sinh.
- Lời
khen ngợi của ông Trưởng ty và ông Đoàn trưởng đoàn Khảo sát thiết kế.
- Lời khen ngợi của ông Trưởng phòng
Địa chất.
Sau
đó cùng nhau nâng ly chia vui, nói lời chia tay, văn nghệ, ôi thôi đượm tình
đồng nghiệp .Tôi còn nhớ thâm tình nhất là mấy anh công nhân khoan trong hai tổ
cùng chúng tôi lặng lội núi rừng vừa qua thật đậm đà và sâu sắc. Họ nâng ly
liên tục hết người nầy, đến người khác, luyến tiếc, thương yêu, hứa hẹn đủ
điều. Buổi liên hoan kéo dài đến mười hai giờ khuya chưa dứt còn lác đác những
mối tình đồng nghiệp. Họ cứ dằn co, ngã nghiêng, nghiêng ngã bằng những ly rượu
mãi mà không vơi.
Thầy Chủ nhiệm nhắc nhở chúng tôi nhất là mấy anh bạn Nam tranh thủ
về ngủ sớm, ngày mai còn chuẩn bị lên đường về trường cho kịp lúc. Thầy không muốn
giờ chót xảy ra chuyện nầy, chuyện nọ, phiền phức. Ông nói thì mặc ông nói, đêm
đó chẳng có ngoe nào chịu đi ngủ sớm cả. Anh thì còn say, anh thì sửa soạn hành
trang, các chị cũng thế, nôn nao, lục đục sáng đêm. Họ thao thức mong ngày về
vì xa nhà đúng tròn một tháng rồi. Riêng tôi thì chẳng nôn nóng vì cả, vì tôi
đã lén về cách mấy ngày trước rồi. Có nhiều chị bạn hỏi vui?
- Sao
không nhớ nhà hả, thấy có vẻ bình thản thế ? Tôi trả lời.
- Nhớ
sao không ! Sớm muộn gì ngày mai cũng có mặt ở trường thôi.
Nhìn đồng hồ còn mười phút nữa là
tám giờ sáng, chiếc xe đò họp đồng của Xí nghiệp vận tải Tiền giang đã có mặt
đúng hẹn. Có lẽ Họ lên đây từ lúc sớm, anh em chúng tôi cho hành lý lên xe, lần
nầy không nặng nề hơn lần trước vì lương thực đã ăn hết sạch sành sanh, nhưng
hơi cồng kềnh. Bởi vì mang rất nhiều vật quí báo từ rừng về như hoa Lan, Hà thủ
ô và Huyết rồng v.v… nói chung cả Thầy lẩn trò ai cũng mang về một ít làm kỷ
niệm, có anh mang rất nhiều cứ ngỡ như đi bổ hàng về. Cuối cùng chúng tôi cùng
nhau lên xe, cũng như lượt đi bổn phận Thầy Chủ nhiệm phải kiểm tra quân số lần
chót, rồi mới bắt đầu cho xe chuyển bánh.
Quãng đường từ Thủ dầu một về Tiền giang không âm vang rộn ràng như tháng trước
mà chỉ nghe những tiếng cưa gổ của mấy bác Tiều phu gần đâu đó.
Xe dừng lại trước cổng trường. Khoảng mười hai giờ trưa, trời đang đứng bóng.
Chúng tôi xúm nhau xuống hàng và mạnh ai nấy về chỗ cũ của mình. Những gương
mặt bơ phờ, những tà áo nhăn nheo, tay xách hoa Lan, vai mang Balô, túi xách đi
thấy khổ não như người bại trận trong rất buồn cười. Mệt thì có mệt, te tua thì
có te tua, nhưng khi vừa bước vào căn nhà thân yêu thì chứng nào, tật nấy. Như
đàn Ong vỡ tổ. Có anh trêu. Trên đường về có ai thấy cái gì hay đẹp hãy kể nhau
nghe. Thiên hạ trả lời toàn thấy hai lỗ mũi.
Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi trở lại cuộc sống bình thường sau một tháng nơi
núi rừng Sông bé. Tất cả được nghỉ ngơi, ai muốn làm gì thì làm, tự do.
Nhưng
tất cả sáng mai phải lên lớp đầy đủ như thường lệ.
Sáng
ngày 01 tháng 8 chúng tôi lên lớp lần cuối của năm học. Bước đầu Thầy
Chủ
nhiệm điểm sơ chuyến thực tập tại Ty Thủy lợi Sông Bé vừa qua, ông đánh giá cao
về tinh thần kỷ luật cũng như học tập, sự đoàn kết, tương thân tương trợ cùng
cơ quan bạn (Ở đây tôi cũng nói thêm Sự tương thân tương trợ) là vì những năm
1977-1978 tình hình lương thực ở tỉnh Sông nói chung và Ty Thủy lợi nói riêng
đang gặp rất nhiều khó khăn, đời sống từ Cán bộ đến Công nhân viên phải ăn Mì,
BoBo và Khoai độn.Chúng tôi những người từ Miền Tây lên may mắn hơn họ là ăn
chỉ toàn Gạo. Bởi thế trong hoàn cảnh nầy chúng tôi buộc phải đổi phân nửa Gạo
sang Mì, Bobo, Khoai để gọi là chia cơm, xẻ áo và cùng Họ chịu gian khổ trong
những ngày công tác.Chính những nghĩa cử và tinh thần cao quí ấy, mà tất cả Cán
bộ Ty đã nhiệt tình giúp đỡ anh em chúng tôi trong thời gian thực tập và dành
rất nhiều tình cảm. Bằng chứng được anh em thể hiện rõ nét trong đêm liên hoan
chia tay. Ngoài vấn đề khen ngợi, ông không một lời chê trách. Có lẽ ông
tế nhị thông cảm được những ngày cực khổ trên núi rừng Sam rin. Sự thật làm gì
mà không khuyết điểm. Cuối cùng ông chúc anh em chúng tôi một mùa Hè tại quê nhà
thật vui tươi và hạnh phúc. Rồi nhấn mạnh hai, ba lần nhớ về trường cho đúng
hẹn. Đừng để Thầy và các bạn trông. Vừa nói vừa cười, có anh giởn mặt thốt lên
những lời thừa thải (Trễ ít ngày được không Thầy) Ông trả lời gọn nhẹ.
Tuỳ các em, việc nầy tôi nói từ khi bước vào năm học mới. Rồi chào tạm biệt ra
về.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét