Nhà thơ Trần Mạnh Hảo |
( Nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ
Nguyễn Bính 20-1-1996)
Nhân
một buổi hội thảo thơ 1932-1945, một độc giả hỏi: “Nếu cần phải chọn một câu
thơ hay nhất để đại diện cho Thơ Mới (thơ tiền chiến), ông sẽ chọn câu thơ của
ai?”. Không do dự, tôi trả lời: “Tôi xin chọn câu lục bát: “Anh đi đấy, anh về
đâu / Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm!” của Nguyễn Bính”. Lại hỏi: “nếu
phải chọn một bài cho nền thơ ấy, ông chọn bài nào?”. Trả lời: “Tôi chọn bài
Tống biệt hành của Thâm Tâm”. Lại hỏi: “nếu phải chọn một tập hay nhất của nền
thơ ấy, ông chọn tập nào?”. Trả lời: “Tôi chọn tập “Lửa thiêng” của nhà thơ quê
Hà Tĩnh Huy Cận”. Lại hỏi: “nếu phải chọn một đời thơ tiêu biểu nhất của nền
thơ ấy, ông chọn ai?”. Tôi trả lời: “Tôi chọn Nguyễn Bính!”.
Vâng,
Nguyễn Bính, nhà thơ bị giời đầy: “Mình tôi giời bắt làm thi sĩ!” Câu thơ ông
viết từ những năm đầu của thập kỷ 40 đã vận vào ông: “Chung lưng làm một chuyến
đi đầy”. Thậm chí ông còn nhắc con gái sau này: “Nhất kiêng đừng lấy chồng thi
sĩ / Nghèo lắm con ơi bạc lắm con”.
Có lẽ, trong thơ tiền chiến,
Hàn Mặc tử và Nguyễn Bính là hai nhà thơ có số phận ít được vận may chiếu cố.
Hàn Mặc tử bị trăng hành. Còn Nguyễn Bính bị con bướm Trang Chu hành tới bến.
Nếu Thế Lữ được biểu tượng thơ là con hổ, Lưu Trọng Lư là con nai, Chế Lan Viên
là con ma Hời, Xuân Diệu là con chim ngứa cổ hót chơi… thì con bướm là biểu
tượng cho thơ Nguyễn Bính:
“Có ai điên dại như tôi nhỉ
Nuôi bướm làm con để nhớ người”
Nuôi bướm làm con để nhớ người”
Hay:
“Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập về bướm trắng mà sang bên này”…
Nhập về bướm trắng mà sang bên này”…
Trong
thơ ông, bươm bướm bay nhiều quá, rượu và hoa nhiều quá, nhiều quá những cô gái
đẹp chưa chồng. Nhưng bướm đã bay đi, rượu đã nhạt, hoa đã tàn, trinh nữ đã
theo chồng hoặc đã chết, chỉ còn mình nhà thơ ngồi lại với phũ phàng và điên
đảo:
“Mưa
chiều nắng sớm người ta bảo
Cả đến ông giời cũng đổi thay”
Cả đến ông giời cũng đổi thay”
(Giời
mưa ở Huế)
Tháng
chạp năm Nhâm Ngọ 1942, khi mới 24 tuổi, Nguyễn Bính đã viết được những câu thơ
hay đến kinh hãi về nỗi buồn, nỗi cô đơn của kẻ lạc loài, của nỗi oán hận suồng
sã phải thất tình thay cho con ong cái bướm:
“Uống say cười vỡ ba căn gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông”
Ném cái chung tình xuống đáy sông”
(Xuân tha hương)
Cùng
“cái chung tình” ấy, nhà thơ hầu như đã ném tuổi trẻ mình xuống đáy sông của
định mệnh, theo kiểu Thúy Kiều ném 15 năm lưu lạc xuống đáy Tiền Đường.
Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ tấm
bé. Ta hiểu vì sao nỗi bơ vơ ám ảnh suốt đời ông. Ta hiểu ngay từ lúc mới 13
tuổi, làm bài thơ đầu, ông đã thèm yêu, thèm sống, thèm khát ràng buộc với tất
cả và chia tay tất cả. Ông đã vịn vào chuồn chuồn bươm bướm tập đi như vịn
chính vào niềm hư vô của kiếp người. Theo Hoài Thanh, Nguyễn Bính chưa hề được
đến trường! (Giống văn hào M. Goocki của Nga?). Ông tự học theo người cha và
người cậu. Thầy của ông là chim muông cỏ rả làng Thiện Vịnh xa xôi. Tuy nhiên,
mọi thứ nào thay thế được mẹ ông.
Nguyễn
Bính mồ côi mẹ nên đã mồ côi cả đất trời. Hình như ông đã lớn lên bằng cảm giác
của Trần Tử Ngang - người đi dọc thơ Đường: “Tiền bất kiến cổ nhân / Hậu bất
kiến lai giả … (Trước không thấy người trước / Sau chẳng thấy người sau). Cảm
giác ngồi một mình bơ vơ trên trái đất của Trần tiên sinh xưa không chỉ được
Nguyễn Bính chia xẻ, mà đã thành phận số đời ông. Năm 1937, khi mới 19 tuổi,
nhà thơ đã viết một bài thơ tuyệt vời “Những bóng người trên sân ga” với tận
cùng cô đơn kiếp người hay đến mức không còn có thể hay hơn nữa:
“Chân
bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Câu
thơ viết ra gần 60 năm rồi, đã sống và chết theo bao lớp người, theo bao trang
giấy, qua bao nhiêu trào lưu hiện thực siêu thực, hiện sinh rồi cấu trúc, có
vần với không vần, lạ thay, chưa có một ai nói về nỗi cô đơn kiếp người hay
bằng câu thơ này của thần thơ Nguyễn Bính? Hóa ra, cái hình ảnh giản dị và xúc
động tận cùng kia, cái dáng người một mình đưa tiễn bóng mình kia, cho đến muôn
đời vẫn cứ còn mới mãi, thấm thía và rung cảm mãi.
Nguyễn
Bính với cảm quan thiên phú, một trực giác của thảo mộc chim muông, đã biết
cách tiễn mình đi vào thi ca bằng lối đi của con bướm dưới gốc hòe Trang tử!
Cái dáng “Chân bước hững hờ theo bóng lẻ” kia không biết mình đang tiễn bóng
hay bóng đang tiễn mình? Với triết học bản thể, câu thơ “một mình làm cả cuộc
phân ly” không chỉ là biểu tượng sinh động, kỳ vĩ, mà còn là một khơi gợi, một
phát hiện tâm linh trong hình trình nhập thể nhân loại. Chúng tôi tin rằng, câu
thơ này của Nguyễn Bính còn theo ta tới cuối cuộc đời, đến nơi ta chia ly chính
bản thân mình để vào vô tận.Viết được những câu thơ có thể sánh với bất cứ thơ
Tây Tầu nào hay nhất, ai bảo thơ Nguyễn Bính không hiện đại?
Thế
mà từ năm 1941, năm ra đời cuốn “Thi nhân Việt Nam”của Hoài Thanh, đã có khá
nhiều bài viết, nhiều khảo luận về thơ, khi nói về Nguyễn Bính, đều ăn theo lối
kết luận phiến diện của Hoài Thanh Hoài Chân cho Nguyễn Bính là thơ nhà quê,
chân quê, đồng quê, quê mùa…
Nói
về Nguyễn Bính theo trường phái Hoài Thanh mới chỉ nhìn nhà thơ ở phần nổi,
phần xác chữ nghĩa mà chưa đủ tầm đi sâu vào hồn thơ rất cổ điển, lại rất hiện
đại của Nguyễn Bính làng Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, Nam Định kia (huyện Vụ Bản
còn là quê hương của một thiên tài thi nhạc khác đồng thời với Nguyễn Bính là
Văn Cao)
Nguyễn Bính đi tận cùng dân
tộc để thành hiện đại: thơ ông phần xác còn mang nâu sồng ca dao nhưng phần hồn
đã vươn tới cõi hiện đại vô cùng nhân loại vậy! Chúng tôi không muốn nói đến
“chủ nghĩa hiện đại” phương Tây mà Việt Nam hầu như không có, nên không coi
tính hiện đại của thơ chỉ lụy vào con chữ, vào cái bí hiểm cung quăng không thể
hiểu, vào cái siêu thực nằm ngoài cảm nhận, mà chỉ đánh giá thơ qua cái sự hay,
sự xúc cảm của nó, của nghĩa bóng thơ luôn cất cánh từ nghĩa đen như những câu
thơ hay của thi hào Nguyễn Bính mà thôi!
Cho
nên, với chúng tôi, hiện đại hay không hiện đại cốt ở hồn thơ, ở nỗi cảm nỗi
hay của nó mà thôi. Những câu ca dao và thơ cổ hay nhất của văn học cha ông ta
ai bảo không hiện đại nào? “Gió đưa cây cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời
đắng cay” của ca dao hiện đại quá đi chứ? “Có thì có tự mảy may / Không thì cả
thế gian này cũng không” của thơ Lý Trần hiện đại quá đi chứ? “Cái quay búng
sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” của Ôn Như hầu hiện đại quá đi
chứ? “Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
của Nguyễn Du hiện đại quá đi chứ? “Hoa thì hay héo cỏ thường tươi” của Nguyễn
Trãi hiện đại quá đi chứ? “Hồn cô cát bụi kinh thành / Đa đoan vó ngựa chung
tình bánh xe” của Nguyễn Bính hiện đại quá đi chứ?
Hầu
hết thơ Nguyễn Bính dưới cái vỏ chân quê giản dị hiền lành như ca dao, nhưng
giấu ẩn sức nghĩ, sức cảm, sức gợi vô cùng tận, hiện đại vì nó hay ở mọi lúc
mọi thời. Viết về cái đẹp của sự trống vắng, gợi ra, vẽ ra được cái vẻ tôn giáo
của hư vô tồn tại ngay trong lòng cái hữu hạn, phỏng có nhà thơ tiền chiến qua
mặt được câu thơ này của Nguyễn Bính:
“Giếng
thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nỗi
trống vắng vô chủ của ba gian nhà trong câu thơ, đã được xúc cảm đẩy từ cái cụ
thể thành cái vô biên: nỗi trống vắng và vô chủ của đất trời. Mượn nỗi hoang vu
bé mọn của nắng chiều trong căn nhà nhỏ để tả nỗi hoang vu vũ trụ, cũng là nỗi
hoang vu muôn thuở hồn người, lục bát Nguyễn Bính hiện đại lắm ru!
Khi Nguyễn Bính tả nỗi cô đơn đến rêu mốc bí mật của kinh thành Huế, cũng để nói vế vẻ huy hoàng tàn phai, hay chính là hồn suông thi nhân mượn cả hoàng thành mà hiu quạnh:
Khi Nguyễn Bính tả nỗi cô đơn đến rêu mốc bí mật của kinh thành Huế, cũng để nói vế vẻ huy hoàng tàn phai, hay chính là hồn suông thi nhân mượn cả hoàng thành mà hiu quạnh:
“Thâm u một giải hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi”
Đình suông con én không đành bay đi”
(Vài nét Huế)
Con
én tân thời không nỡ bỏ cái hoang phế hoàng thành bay đi hay chính là cái níu
kéo của hiện tại với quá khứ? Cái chấm én mọc lên như một cái mầm, cái chồi của
lẻ loi, khiến vẻ tàn phai càng tàn phai hơn nữa. Ngoảnh lại cố đô, con én thi
ca mà Nguyễn Bính đính lên từ độ ấy, vẫn không đành đoạn bay đi, như thể loài
chim thơ ấy vẫn còn là tình nhân bao thời đại đã đi qua!
Trí
tuệ thơ Nguyễn Bính là trí tuệ sương mù, của hoa bướm của lửng lơ mây khói. Chất
sang trọng hàn lâm giấu trong lục bát nâu sồng Nguyễn Bính như hồn sen giấu
trong bùn, ghé mắt vào ta sẽ thấy hoa sen:
“Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
“Buồng hương bóng bóng mình mình
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”
Bên
cạnh những bài lục bát nổi tiếng: “Tương tư”, “Lỡ bước sang ngang”, “Người hàng
xóm”… ông còn những bài lục bát hiện đại khác: “Lửa đò”, “Vũng nước”, “Qua nhà”
và “Thời trước”…
Khi đánh giá thơ tiền chiến nói chung và Nguyễn Bính nói chung, người ta đã thừa nhận sự vượt trội của thơ lục bát Nguyễn Bính nhưng chưa thấy trong thể thơ bảy tám chữ, Nguyễn Bính cũng chẳng kém cạnh bất cứ thi nhân hàng đầu nào cùng thời với ông. Trong thể loại mượn cảnh tả tình, Nguyễn Bính đã có bài thơ vào hàng tuyệt tác là bài “Xuân về” có thể đứng ngang hàng với các bài hay nhất của Hàn Mặc tử và Huy Cận. Về thể hành, bài thơ “Hành phương Nam” của ông không hề hổ thẹn đứng bên cạnh bài tuyệt bút “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Viết về đất thần kinh xứ Huế, xưa nay chưa thấy bài nào hay bằng bài “Xóm Ngự viên” của Nguyễn Bính? Ông đã làm sống lại thời vang bóng bằng câu thơ hay đến ma quái:
Khi đánh giá thơ tiền chiến nói chung và Nguyễn Bính nói chung, người ta đã thừa nhận sự vượt trội của thơ lục bát Nguyễn Bính nhưng chưa thấy trong thể thơ bảy tám chữ, Nguyễn Bính cũng chẳng kém cạnh bất cứ thi nhân hàng đầu nào cùng thời với ông. Trong thể loại mượn cảnh tả tình, Nguyễn Bính đã có bài thơ vào hàng tuyệt tác là bài “Xuân về” có thể đứng ngang hàng với các bài hay nhất của Hàn Mặc tử và Huy Cận. Về thể hành, bài thơ “Hành phương Nam” của ông không hề hổ thẹn đứng bên cạnh bài tuyệt bút “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Viết về đất thần kinh xứ Huế, xưa nay chưa thấy bài nào hay bằng bài “Xóm Ngự viên” của Nguyễn Bính? Ông đã làm sống lại thời vang bóng bằng câu thơ hay đến ma quái:
“Sớm
đào, trưa lý, đêm hồng phấn
Tuyết
Hạnh, Sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên”
Hai
câu này có thể ngang với câu vi diệu của Xuân Diệu:
“Vì
nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”
(Nguyệt Cầm)
Hãy
đọc lại hồn thơ bi hùng ngang trời lệch đất Nguyễn Bính như “Giời mưa ở Huế”,
“Xuân tha hương”, “Oan nghiệt”… ta thả mình vào nỗi quằn quại như mất cả hình
hài, đau thương dữ dội và đồng bóng, để chia xẻ với nỗi vong thân, vong quốc
của lớp thanh niên trước 1945. Những bài thơ “Cô hái mơ”, “Trường huyện”, “Hoa
và rượu”… là những bài thơ đẹp nhất thơ tiền chiến của Nguyễn Bính. Đâu đây ta
nghe có hơi Huy Cận trong hồn thơ “một trời quan tái” Nguyễn Bính:
“Chênh
vênh bóng ngả sầu lau lách
Chiều ngái hương rừng lối nhạt son”
Chiều ngái hương rừng lối nhạt son”
Cái
hơi Đường thi từ Huy Cận đi lạc vào Nguyễn Bính rất sang trọng, quý phái: “Áo
bào nguyệt bạch ngựa kim ô” hay đấy, siêu đấy nhưng không phải mạch chính của
thơ ông. Cái hơi, cái hồn, cái vía Nguyễn Bính là ở những câu thơ rất Việt rất
hay như:
“Một
con diều giấy không ăn gió
Õng ẹo chao mình xuống vệ đê”
Õng ẹo chao mình xuống vệ đê”
Có
hàng trăm người viết về tơ liễu từ thơ Đường đến Nguyễn Du, nhưng chưa ai hay
bằng Nguyễn Bính tả liễu:
“Chiều
về chầm chậm trong hiu quạnh
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”
Chỉ
bằng từ “chảy”, Nguyễn Bính không chỉ hiện đại hóa thơ mình, ông còn làm mới cả
hồn tơ liễu nghìn năm. Nguyễn Bính làm thơ rất bản năng, thậm chí như vô thức.
Số lượng câu thơ hay của ông nhiều hơn bất cứ nhà thơ tiền chiến nào khác.
Những câu thơ bất ngờ, hiện đại tới cùng này ai bảo Nguyễn Bính không mới:
“Ở
đây vô số những trời xanh”
Lối
viết này Tây hơn cả Tây!
Hoặc quá ngạc nhiên khi ta
đọc:
“Xe
ngựa chiều nay ngập thị thành
Chiều nay nàng bắt được trời xanh”
Chiều nay nàng bắt được trời xanh”
Hay:
“Giời
mờ ngao ngán một loài mây”
Xin
lỗi, nếu ai trích được một câu của trường phái “tân con cóc” “ tân siêu thực”
của Việt Nam hay ngang những câu này của Nguyễn Bính, tôi xin thưởng ba vạn
chín nghìn con kiến, một trăm con voi!
Trong
dòng thơ tiền chiến, chúng tôi bao giờ cũng biết cách tôn kính Thế Lữ, ngả mũ
trước Xuân Diệu, thán phục Huy Cận, kinh ngạc trước Hàn Mặc tử, mơ mộng sầu
thương cùng Lưu Trọng Lư, Hồ Dếnh… Nhưng chúng tôi bao giờ cũng dành cho Nguyễn
Bính trọn niềm yêu mến, không chỉ là tấm lòng hậu sinh với bậc tiền bối, mà còn
vì tình yêu của độc giả mấy chục năm trời với thơ ông.
Chỉ
tính gần chục năm lại đây (năm 1995 khi
tác giả viết bài này) theo thống kê tạm thời của một số nhà xuất bản, thơ Nguyễn Bính đã in và phát hành tới số kỷ lục hàng triệu bản. Qua bao thăng trầm, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ số một được độc giả Việt Nam hâm mộ nhất sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi).
tác giả viết bài này) theo thống kê tạm thời của một số nhà xuất bản, thơ Nguyễn Bính đã in và phát hành tới số kỷ lục hàng triệu bản. Qua bao thăng trầm, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ số một được độc giả Việt Nam hâm mộ nhất sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi).
Ba
mươi năm đã qua kể từ năm Nguyễn Bính mầt buổi trưa ngày 30 tết ấy, có lẽ hình
ảnh đọng lại trong mắt thi hào Nguyễn Bính là vườm thuốc nam nhà ông Tân Thanh
hay một loài mây, hay loài bướm trắng nào vừa chìm xuống đáy ao trước khi ông
bụng không hạt cơm ngã xuống trong hôn mê và trong cơn đói vĩnh cửu? Chỉ biết rằng
thi ca ông đã thành vị thuốc nam chữa lành nỗi đau và niềm hư vô kiếp người.
Ông
không tìm lối xuyên tường đưa thơ Việt vào hiện đại như ai đó. Thơ ông thẩm
thấu qua trời sương khói, qua hồn ca dao, qua Truyện Kiều đưa nâu sồng lục bát
quê hương vào hiện đại. Xin đọc lại một câu thơ Nguyễn Bính:
“Xót
xa một buổi soi gương cũ
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”
Ôi
những mắt chữ điền bị thời gian xô lệch muôn năm cũ, xin về đây soi lại chiếc
gương thi ca hiện đại muôn sau Nguyễn Bính.,.
Sài Gòn 28-12-1995
T.M.H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét